Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Thu, 30 Nov 2023 07:24:00 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Có thể phát hiện bệnh Alzheimer nhờ xét nghệm nước bọt https://benh.vn/co-the-phat-hien-benh-alzheimer-nho-xet-nghem-nuoc-bot-7419/ https://benh.vn/co-the-phat-hien-benh-alzheimer-nho-xet-nghem-nuoc-bot-7419/#respond Tue, 04 Oct 2022 06:20:48 +0000 http://benh2.vn/co-the-phat-hien-benh-alzheimer-nho-xet-nghem-nuoc-bot-7419/ Mới đây, các chuyên gia y tế đã cho biết xét nghiệm nước bọt có thể phát hiện bệnh Alzheimer.Thử nghiệm này cho ra kết quả chính xác hiệu quả trong việc dự đoán nguy cơ Alzheimer

Bài viết Có thể phát hiện bệnh Alzheimer nhờ xét nghệm nước bọt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Mới đây, tại trường đại học Alberta (Canada), các chuyên gia y tế đã cho biết xét nghiệm nước bọt có thể phát hiện bệnh Alzheimer.

benh-alzheimer

Theo đó, các chuyên gia đã thử nghiệm nước bọt của 35 người có kỹ năng nhận thức bình thường, 25 người bị suy giảm nhận thức nhẹ và 22 người mắc bệnh Alzheimer và phát hiện nước bọt của người bị bệnh Alzheimer có mức độ các chất chuyển hóa khác nhau so với nước bọt của những người khỏe mạnh hoặc những người có khiếm khuyết nhận thức nhẹ.

Thử nghiệm này cho ra kết quả chính xác, an toàn và chi phí thấp, hiệu quả trong việc dự đoán nguy cơ suy giảm nhận thức ở giai đoạn rất sớm.

Bệnh Alzheimer là một dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất hiện nay. Sa sút trí tuệ (dementia) là mất khả năng về trí lực và giao tiếp xã hội ở mức độ gây khó khăn cho cuộc sống hàng ngày. Sự thoái hóa mô não đang bình thường với nhiều nguyên nhân chưa được biết rõ, gây nên sự suy sụp dần dần trí nhớ và trí tuệ của bệnh nhân. Hiện nay vẫn chưa thực sự có bất kỳ biện pháp hữu hiệu nào để ngăn chặn căn bệnh nguy hiểm này nên việc phát hiện bệnh sớm sẽ giúp tìm ra hướng điều trị thích hợp, cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Bài viết Có thể phát hiện bệnh Alzheimer nhờ xét nghệm nước bọt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/co-the-phat-hien-benh-alzheimer-nho-xet-nghem-nuoc-bot-7419/feed/ 0
Các dấu hiệu cảnh báo bệnh Alzheimer cùng chế độ ăn phòng bệnh https://benh.vn/cac-dau-hieu-canh-bao-benh-alzheimer-cung-che-do-an-phong-benh-6807/ https://benh.vn/cac-dau-hieu-canh-bao-benh-alzheimer-cung-che-do-an-phong-benh-6807/#respond Thu, 16 Sep 2021 05:53:13 +0000 http://benh2.vn/cac-dau-hieu-canh-bao-benh-alzheimer-cung-che-do-an-phong-benh-6807/ Theo y học,  sau tuổi 75 não bộ của con người lão hóa mạnh mẽ nên trí nhớ bị suy giảm lúc nhớ lúc quên, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống và gây phiền toái cho những người xung quanh. Tuy nhiên có một bệnh lý về não gây suy giảm trí nhớ, suy nghĩ và kĩ năng suy luận.Căn bệnh mà mỗi khi nghĩ tới ai cũng đều “hoảng sợ” đó là Alzheimer.

Bài viết Các dấu hiệu cảnh báo bệnh Alzheimer cùng chế độ ăn phòng bệnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo y học,  sau tuổi 75 não bộ của con người lão hóa mạnh mẽ nên trí nhớ bị suy giảm lúc nhớ lúc quên, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống và gây phiền toái cho những người xung quanh. Tuy nhiên có một bệnh lý về não gây suy giảm trí nhớ, suy nghĩ và kĩ năng suy luận.Căn bệnh mà mỗi khi nghĩ tới ai cũng đều “hoảng sợ” đó là Alzheimer.

Những đặc điểm của bệnh Alzheimer

Bệnh Alzheimer (AHLZ-high-merz) là một bệnh lý về não tác động đến trí nhớ, suy nghĩ và hành vi. Bệnh Alzheimer’s không phải là bệnh lão khoa thông thường hoặc bệnh thần kinh.

Bệnh Alzheimer chiếm khoảng 60% đến 80% trường hợp suy giảm trí nhớ. Tại Mỹ, có hơn 5 triệu người đang chung sống với bệnh Alzheimer. Số lượng người Mỹ mắc bệnh Alzheimer và các chứng suy giảm trí nhớ khác sẽ tăng lên mỗi năm khi tỉ lệ dân số Mỹ ở độ tuổi trên 65 tiếp tục gia tăng.

Alzheimer là một bệnh lý về não tác động đến trí nhớ

Hệ quả của bệnh Alzheimer’s

Alzheimer là một bệnh lý về não có thể dẫn đến tử vong, gây ra sự suy giảm từ từ về trí nhớ, suy nghĩ và kĩ năng suy luận. Bệnh Alzheimer, không chỉ ảnh hưởng đến đời sống người bệnh mà cả những người chăm sóc cho bệnh nhân.

Chăm sóc người bệnh Alzheimer thường gặp rất nhiều khó khăn. Đã có rất nhiều gia đình trông nom người bệnh đã phải trải qua những cảm xúc vô cùng căng thẳng và dẫn đến trầm cảm.

Các dấu hiệu cảnh báo bệnh

Có nhiều dấu hiệu cảnh báo bệnh Alzheimer, trong đó tình trạng sa sút trí tuệ là dấu hiệu cảnh báo rõ ràng hơn cả.

  • Tình trạng suy giảm trí nhớ làm xáo trộn cuộc sống thường ngày.
  • Gặp khó khăn khi lập kế hoạch hay giải quyết vấn đề.
  • Gặp khó khăn khi hoàn thành các công việc quen thuộc ở nhà, tại nơi làm việc hay khi vui chơi.
  • Lú lẫn về thời gian hoặc nơi chốn.
  • Gặp khó khăn trong việc hiểu các hình ảnh trực quan và mối quan hệ trong không gian.
  • Phát sinh những khó khăn mới về từ ngữ khi nói hoặc viết.
  • Đặt đồ vật nhầm chỗ và mất khả năng hồi tưởng lại các bước.

benh_alzheimer_sa_sut_tri_tue

Dấu hiệu của Alzheimer: suy giảm trí nhớ, lú lẫn về thời gian, tính cách thay đổi…

  • Giảm khả năng phán đoán hay đánh giá kém.
  • Rút lui khỏi công việc hay các hoạt động xã hội (do không theo kịp các hoạt động)
  • Tâm trạng và tính cách thay đổi.

Chế độ ăn uống để phòng bệnh Alzheimer

Chế độ ăn uống với tên gọi MIND được xem là giúp giảm hơn một nửa nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ nếu tuân thủ nghiêm ngặt và giảm khoảng 35% nếu tuân thủ một cách vừa phải.

MIND là sự kết hợp giữa hai chế độ ăn uống vùng Địa Trung Hải và chế độ ăn uống hướng đến phòng ngừa cao huyết áp DASH.

Chế độ ăn này sẽ lấy ngũ cốc, rau, đậu, thịt gia cầm, cá làm chính và hạn chế thịt đỏ, bơ, bánh kẹo.

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, muốn đạt hiệu quả cao hơn, người thực hiện chế độ ăn MIND nên kết hợp thêm một số yếu tố phi dinh dưỡng khác như tập thể dục, không hút thuốc lá và thường xuyên đọc sách, giải câu đố để bắt não luôn hoạt động.

Lời kết: Bệnh Alzheimer là một dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất hiện nay gây ảnh hưởng đến khả năng về trí lực và giao tiếp xã hội. Độ tuổi trung bình thường mắc từ 65 trở lên. Sự thoái hóa mô não đang bình thường với nhiều nguyên nhân chưa được biết rõ, gây nên sự suy sụp dần dần trí nhớ và trí tuệ bệnh nhân.

Để hạn chế mắc căn bệnh nguy hiểm này, chúng ta cần sắp xếp thời gian làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, tránh suy nghĩ căng thẳng, stress…Ngoài ra cần đảm bảo chế độ ăn nhiều đậu, rau xanh, hoa quả, hạn chế ăn các loại thịt đỏ, bánh kẹo, đường sữa…

Bài viết Các dấu hiệu cảnh báo bệnh Alzheimer cùng chế độ ăn phòng bệnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-dau-hieu-canh-bao-benh-alzheimer-cung-che-do-an-phong-benh-6807/feed/ 0
Bệnh Alzheimer đã có thể phát hiện sớm https://benh.vn/benh-alzheimer-da-co-the-phat-hien-som-6322/ https://benh.vn/benh-alzheimer-da-co-the-phat-hien-som-6322/#respond Wed, 15 Sep 2021 05:43:48 +0000 http://benh2.vn/benh-alzheimer-da-co-the-phat-hien-som-6322/ Alzheimer là một bệnh đáng sợ của tuổi già, gây suy giảm chất lượng cuộc sống, làm cho người ta mất trí, sống lệ thuộc và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Gần đây, các nhà khoa học liên ngành Trường đại học Northwestern (Mỹ) đã tìm ra một phương pháp […]

Bài viết Bệnh Alzheimer đã có thể phát hiện sớm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Alzheimer là một bệnh đáng sợ của tuổi già, gây suy giảm chất lượng cuộc sống, làm cho người ta mất trí, sống lệ thuộc và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Gần đây, các nhà khoa học liên ngành Trường đại học Northwestern (Mỹ) đã tìm ra một phương pháp phát hiện bệnh Alzheimer ở động vật và ở người trước khi các triệu chứng của bệnh này xuất hiện bằng phương pháp không xâm lấn Nano MRI. Phương pháp mới này sẽ kết hợp cùng với các phương pháp truyền thống trước đây sẽ cho phép phát hiện sớm bệnh Alzheimer.

Alzheimer là một bệnh đáng sợ của tuổi già vì làm cho người ta mất trí, sống lệ thuộc vào người khác. Bệnh gây suy giảm chất lượng cuộc sống ở người cao tuổi và là gánh nặng của gia đình và xã hội, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Theo thống kê năm 2014 ở Mỹ, chi phí cho việc chăm sóc điều trị bệnh Alzheimer là 200 tỷ USD, dự kiến đến năm 2050 sẽ là 1.100 tỷ USD. Một trong những khó khăn cho công tác điều trị hiện nay là việc phát hiện bệnh muộn, bệnh không có thuốc chữa nguyên nhân mà chỉ có thuốc chữa triệu chứng và việc sử dụng thuốc chỉ có hiệu quả cao khi điều trị bệnh từ sớm. Do đó, việc phát hiện bệnh sớm là rất cần thiết và cấp bách để nâng cao hiệu quả chữa trị cho bệnh nhân.

benh_alzheimer_chan_doan_som

Các kháng thể 586 – NU được mã hoá trên thiết bị Nano-MRI.

Được dẫn dắt bởi nhà thần kinh học Wiliam L Klein và các tài liệu khoa học của Vinayat P David, nhóm các nhà nghiên cứu và các kỹ sư Đại học Northwestern (Mỹ) đã phát triển một thiết bị chụp cộng hưởng từ nano (Nano-MRI) cho phép nhận biết Oligomer beta amyloid và mảng beta amiloid. Trên thiết bị Nano-MRI các kháng thể chống lại Oligomer beta amyloid, ký hiệu 586-NU được mã hóa thành màu đỏ và mảng beta amyloid ký hiệu Th-S được mã hóa thành màu xanh. Trường hợp 586-NU chồng lên Th-S thì sẽ có màu vàng.

Oligomer beta amyloid là gì? Oligomer beta amyloid được phát hiện năm 1998 bởi William L Klein và ngày nay nó được coi là thủ phạm gây ra bệnh Alzheimer. Khi có tác động của các độc tố (giống như kháng thể) tấn công thì Oligomer beta amyloid có sự biến đổi bất thường trong liên kết, tạo ra các mảng beta amyloid là mảng đặc trưng của bệnh Alzheimer. Thiết bị Nano-MRI nói trên cho phép nhận biết sự xuất hiện 586-NU (là kháng thể của Oligomer beta amyloid) và sự xuất hiện Thi-S (mảng beta amyloid) thông qua việc nhận biết màu của chúng, nên cho phép chúng ta phát hiện sớm bệnh Alzheimer.

Sở dĩ có thể  phát hiện sớm bệnh đó là do Oligomer beta amyloid thường xuất hiện từ sớm, trước sự xuất hiện mảng beta amiloid hàng chục năm. Do đó, việc phát hiện sớm Oligomer beta amyloid cũng có nghĩa là đã phát hiện sớm nguy cơ; phát hiện ra mảng beta amylod có nghĩa là phát hiện sớm bệnh. Từ khi xuất hiện các mảng beta amyloid đầu tiên cho đến khi phát triển thành mảng beta amiloid dày đặc cản trở các tín hiệu dẫn truyền thần kinh, làm xuất hiện các triệu chứng suy giảm trí nhớ rồi sa sút trí tuệ còn phải qua hàng chục năm nữa. Như vậy, bằng thiết bị Nano-MRI có thể nhận biết nguy cơ cũng như sự xuất hiện bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng ban đầu ít nhất là vài chục năm. Như chúng ta đã biết, tất cả các thuốc hiện tại dùng trong điều trị Alzheimer như tacrin, donepezil, rivastigmin  chỉ  là các thuốc ức chế enzym acetylcholiesterase, làm cho acetylcholin vững bền nên chỉ chữa triệu chứng, làm chậm lại sự phát triển và chỉ có hiệu quả khi bệnh còn nhẹ. Do đó, phát triển thiết bị Nano-MRI nối ở trên là rất có ý nghĩa cho việc điều trị Alzheimer.

Thiết bị Nano-MRI này không những cho nhận biết Oligomer beta amyloid, mảng beta amiloid  qua nhận biết màu, mà còn định lượng được chúng qua đo nồng độ trong máu. Do đó, thiết bị Nano-MRI cho phép ta đánh giá thuốc dùng phóng trị Alzheimer. Một thuốc có ý nghĩa dự phòng phải là thuốc làm giảm Oligomer beta amyloid và một thuốc có ý nghĩa điều trị phải là thuốc làm giảm và đi đến triệt tiêu beta amyloid.

Ngoài nghiên cứu về kĩ thuật phát hiện Alzheimer sớm bằng phương pháp không xâm lấn Nano-MRI, trước đây cũng đã có hai nghiên cứu khác về việc phát hiện Alzheimer không xâm lấn:

Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học ở Đại học Georgetown, Washington DC (Mỹ) đã phân tích mẫu máu của 525 người trên 70 tuổi. Khi so sánh mẫu máu của 53 người mắc Alzheimer hoặc suy giảm nhận thức nhẹ với 53 người trí tuệ minh mẫn, họ nhận ra sự khác biệt nồng độ 10 loại chất béo của hai nhóm này. Chưa rõ vì sao có sự khác biệt này nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng trong não của người Alzheimer hay suy giảm nhận thức có sự thay đổi sớm ở não và dư lượng các chất béo được tạo ra bởi các thay đổi sớm trong não dẫn tới sự thay đổi nồng độ chất béo trong máu. Định lượng 10 chất béo trong máu sẽ cho phép chẩn đoán khá chính xác những người sẽ bị bệnh Alzheimer trong những năm tiếp theo khi những người này chưa xuất hiện bất cứ triệu chứng nào của bệnh.

Theo DSCKII. Bùi Văn Uy

Bài viết Bệnh Alzheimer đã có thể phát hiện sớm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-alzheimer-da-co-the-phat-hien-som-6322/feed/ 0
Nguyên nhân, các yếu tố nguy cơ và tổn thương não trong bệnh Alzheimer https://benh.vn/nguyen-nhan-cac-yeu-to-nguy-co-va-ton-thuong-nao-trong-benh-alzheimer-2808/ https://benh.vn/nguyen-nhan-cac-yeu-to-nguy-co-va-ton-thuong-nao-trong-benh-alzheimer-2808/#respond Sun, 25 Jul 2021 04:21:22 +0000 http://benh2.vn/nguyen-nhan-cac-yeu-to-nguy-co-va-ton-thuong-nao-trong-benh-alzheimer-2808/ Trong khi sa sút trí tụê là rối loạn phổ biến hàng thứ 2 trong các rối loạn tâm thần ở người cao tuổi, thì Alzheimer là bệnh đứng hàng đầu trong các căn nguyên gây sa sút trí tuệ: 50-60% các trường hợp sa sút trí tuệ là do bệnh Alzheimer; 10-15% các trường […]

Bài viết Nguyên nhân, các yếu tố nguy cơ và tổn thương não trong bệnh Alzheimer đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Trong khi sa sút trí tụê là rối loạn phổ biến hàng thứ 2 trong các rối loạn tâm thần ở người cao tuổi, thì Alzheimer là bệnh đứng hàng đầu trong các căn nguyên gây sa sút trí tuệ: 50-60% các trường hợp sa sút trí tuệ là do bệnh Alzheimer; 10-15% các trường hợp sa sút trí tuệ là có sự phối hợp giữa bệnh Alzheimer và bệnh mạch máu não. Bệnh Alzheimer gặp ở 5% người trên 60 tuổi và tỷ lệ này cứ 5 năm lại tăng lên gấp đôi.

Năm 1907, Alois Alzheimer đã mô tả một bệnh nhân nữ 51 tuổi với các biểu hiện sa sút trí tuệ có tính chất tiến triển do một bệnh mà ba năm sau đó Kraepelin đã đặt tên là “bệnh Alzheimer”(AD). Trải qua gần 100 năm, bệnh Alzheimer đã được chẩn đoán trên lâm sàng với nhiều thay đổi về các quan niệm bệnh học cũng như các thành tựu mới trong nghiên cứu về các bệnh nguyên, bệnh sinh. Tuy nhiên các tác giả đều thừa nhận Alzheimer là một đơn thể bệnh. Đây là quá trình bệnh lý có hệ thống các triệu chứng lâm sàng và các tổn thương giải phẫu bệnh đặc trưng ở não được coi là các “tiêu chuẩn vàng” để làm chẩn đoán.

I. Căn nguyên gây bệnh

Yếu tố di truyền, đến nay đã được xác nhận là một trong các nguyên nhân gây bệnh Alzheimer.

Yếu tố di truyền được thấy ở 5% các bệnh nhân Alzheimer và là bệnh Alzheimer khởi phát sớm.

Các biến đổi nhiễm sắc thể đã được di truyền theo kiểu gen trội, tự thân. Tuy nhiên, trong gia đình người mang các biến dị nhiễm sắc thể gây bệnh Alzheimer vẫn có sự khác nhau về tuổi khởi phát bệnh cũng như biểu hiện các triệu chứng. Điều đó được cắt nghĩa là do tác động của môi trường.

– Các biến đổi ở nhiễm sắc thể 21: Các biến đổi về gen của Protein tiền chất Amyloid (APP) trên nhiễm sắc thể 21 đã được mô tả ở các bệnh nhân Alzheimer khởi phát sớm có tính gia đình. Các biến đổi này xuất hiện ở gần đầu và ở phần cuối của chuỗi peptid. Các biến đổi này tác động đến quá trình dị hoá APP và làm tăng sản xuất ra các protein β Amyloid (Aβ) đặc biệt là dạng có 42 acide amine gây chết nơron.

– Các biến đổi ở gen nằm ở vùng giữa nhánh dài của nhiễm sắc thể 14-gen kiểm soát tổng hợp preseniline 1 và biến đổi gen ở nhiễm sắc thể 1 gọi là gen tổng hợp preseniline 2. Các biến đổi này cũng dẫn đến hậu quả làm tăng sản xuất ra protein Aβ 42 acide amine.

II. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh Alzheimer

Rất nhiều bệnh nhân bị Alzheimer có khởi phát muộn sau tuổi 60 và xuất hiện ở những gia đình không có yếu tố di truyền. Người ta đã xác nhận Alzheimer là bệnh có nhiều yếu tố căn nguyên, nhiều cơ chế bệnh sinh và có các biểu hiện lâm sàng khác nhau ở các bệnh nhân. Các yếu tố hiện được coi là nguy cơ có thể dẫn đến bệnh Alzheimer.

1- Các kiểu gen gây ra cơ địa dễ bị bệnh Alzheimer

hiện có 3 kiểu gen được mô tả là đã gây ra tính dễ bị bệnh Alzheimer. Đặc biệt là gen Apolipotein (ApoE). Đây là gen kiểm soát việc tổng hợp 3 loại protein ApoE2, ApoE3 và ApoE4. ApoE4 được xác định là có tác động làm tăng lắng đọng protein Aβ, thay đổi sự kết tập các Amyloid để tạo ra các mảng lão suy. Gen ApoE mang allen Ψ4 được thấy ở 50% các bệnh nhân Alzheimer.

Gen tổng hợp protein receptor lipoprotein (LRP) được mã hoá di truyền bởi các allen trên

nhiễm sắc thể 12 và gen tổng hợp yếu tố kháng nguyên bạch cầu người (HLA) được mã hoá bởi các allen A2 trên nhiễm sắc thể 6 đều được thấy là có liên quan đến việc làm tăng đáng kể số lượng các mảng lão suy và sự khởi phát sớm bệnh Alzheimer.

Những cá thể mang 1 trong 3 gen này có nguy cơ cao bị bệnh. Tuy nhiên, bệnh còn xuất hiện cả ở những người không có yếu tố nguy cơ này.

2- Các yếu tố biểu sinh (Epigenitec factors)

– Tiền sử gia đình có người bị bệnh Alzheimer. Các thành viên trong gia đình này có thể mang các biến đổi di truyền đã được xác định rõ (ở nhiễm sắc thể 21,14,1…) hoặc mang các kiểu gen làm tăng cơ địa dễ bị bệnh như ApoE4…. Tần số xuất hiện bệnh là 50% trong số con các bệnh nhân Alzheimer – cao gấp 4 lần so với những người không có tiền sử gia đình bị bệnh này.

– Tuổi là yếu tố nguy cơ rất lớn với bệnh Alzheimer. ở người trên 60 tuổi, cả tỷ lệ mắc chung và tỷ lệ mắc mới bệnh Alzheimer cứ sau 5 năm lại tăng lên gấp đôi: ở nhóm tuổi 65-69 số người bị bện là 2%; ở nhóm tuổi 80-85 số người bị bệnh là 30-40%…

– Giới: Nhiều tác giả cho là phụ nữ thường sống lâu hơn nam giới, do vậy phụ nữ có thể được thấy nhiều hơn trong quần thể các bệnh nhân Alzheimer

– Tiền sử chẩn thương sọ não: dường như có một sự tác động cộng lực của các yếu tố chấn thương sọ não cũ, kiểu gen Apo4 và sự tăng lắng đọng Amyloid… tạo ra một tố bẩm làm tăng cường tính dễ bị Alzheimer.

– Các yếu tố chu vi đầu, kích thước não, trí thông minh .. cũng được coi là liên quan đến khả năng chống đỡ với quá trình thoái hoá trong bệnh Alzheimer.

3- Các yếu tố tác động khác

– Yếu tố nhiễm độc nhôm: tình trạng nhiễm độc nhôm dường như có liên quan đến sự tăng lắng đọng protein β Amyloid và số lượng các đám rối sợi thần kinh trong não bệnh nhân Alzheimer.

– Yếu tố nhiễm trùng (virus chậm) giống như bệnh creutzfeld-Jakob)

– Các rối loạn chuyển hoá: phản ứng oxy hoá quá mức dẫn đến tăng các gốc tự do. Các gốc tự do này cũng được cho là có liên quan đến sự kết hợp và tăng lắng đọng protein Aβ gây chết tế bào thần kinh. Sự giảm lưu lượng máu não, rối loạn sinh tổng hợp các yếu tố dinh dưỡng thần kinh… cũng được giả định là có vai trò trong cơ chế gây bệnh Alzheimer.

III. Các tổn thương tổ chức não trong bệnh Alzheimer

Bệnh Alzheimer có đặc trưng là tổn thương trong não với các loại tổn thương khác nhau.

1. Các mảng lão suy (Neuritic plaques):

Tổn thương bên ngoài nơron, đó là một cấu trúc hình cầu đường kính từ 15-20 µm. Mảng bao gồm một nhân Amyloid ở trung tâm. Bao xung quanh nhân đó là các tế bào thần kinh loạn dưỡng với các sợi xoắn kép và bất thường trong cấu trúc lưới nội bào, ty lạp thể… Người ta còn thấy các tế bào hình sao, các tiểu thần kinh đệm (microglie) và các biểu hiện một phản ứng viêm rõ rệt ngay bên trong và vùng liền kề với các mảng thần kinh. Đây là tổn thương não khá đặc hiệu có trong bệnh Alzheimer và quá trình già hoá. Số lượng mảng lão suy xuất hiện ở não trong mối liên quan với tuổi tác được dùng làm tiêu chuẩn chẩn đoán tổ chức học trong bệnh Alzheimer.

2. Các đám rối sợi thần kinh (Neurofibrilary taugles)

Đây là tổn thương trong tế bào thần kinh.

Tổn thương bao gồm các đám sợi xoắn kép ở thân và đôi khi lan rộng tới tận đuôi gai của các tế bào thần kinh. Các đám rối này bao gồm các sợi nguyên bào (protofilaments) có các Tau-protein bị phosphoryl hoá bất thường và quá mức. Sự phosphoryl hoá bất thường này làm mất khả năng gắn kết đặc hiệu của Tau với các tiểu thể hình ống (micro-tubles), khi đó chức năng vận chuyển tương bào của lưới nội bào sẽ bị rối loạn và gây chết nơron. Các đám rối sợi thần kinh xuất hiện và phân bố có tính chất hệ thống trong não tương ứng với sự xuất hiện các triệu chứng của bệnh Alzheimer. Tuy các đám rối này còn được thấy cả trên não những bệnh nhân bị các bệnh khác như liệt trên nhân tiến triển, bệnh Parkinson sau viêm não, … Các đám rối sợi xoắn kép cùng với số lượng các mảng lão suy vẫn được coi là căn cứ cơ bản trong các “tiêu chuẩn vàng” về tổ chức học để chẩn đoán bệnh Alzheimer.

3. Hiện tượng mất neuron

Đây là tổn thương luôn thấy ở não bệnh nhân Alzheimer đặc biệt là mất các nơron lớn ở bề mặt vỏ não. Mất nơron được thấy có liên quan với việc xuất hiện nhiều hơn các tế bào hình sao.

4. Các thay đổi ở synapse thần kinh

Các synapse có thể bị thay đổi hoặc mất đi tới 45% ở não bệnh nhân Alzheimer nhất là ở vỏ não, vùng hồi hải mã. Sự tương ứng giữa mất synapse và suy giảm nhận thức ở bệnh nhân Alzheimer là rõ rệt hơn hẳn so vơí các mảng và đám rối sợi thần kinh. Tuy nhiên cơ chế của tổn thương synapse và thoái hoá nơron trong bệnh sinh của bệnh Alzheimer còn vẫn chưa được hiểu biết một cách đầy đủ.

5. Thoái hoá mạch máu dạng tinh bột

Có sự lắng đọng Amyloid cả ở các mạch máu não, nhất là các mạch máu ở bề mặt vỏ não bệnh nhân Alzheimer. ở các mạch máu nhỏ sự lắng đọng Amyloid đôi khi còn được bao bọc bởi một qúa trình viêm.

6. Thoái hoá không bào dạng hạt

Đây là tổn thương đặc biệt chỉ thấy ở não bệnh nhân

Alzheimer mà rất hiếm khi thấy ở não người già bình thường. Tổn thương thường được thấy ở các tế bào tháp của hồi hải mã. Các không bào xuất hiện trong bào tương của tế bào tháp và chứa một hạt rắn chắc, thuần nhất. Các hạt này có phản ứng với các kháng thể kháng sợi nguyên bào thần kinh.

IV. Giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của bệnh Alzheimer

Cho đến nay người ta đã thừa nhận Alzheimer là một bệnh thoái hoá não do nhiều nguyên nhân gây ra, không đồng nhất về mặt di truyền, phát sinh và tiến triển theo những cơ chế không hoàn toàn giống nhau giữa các bệnh nhân. Tuy nhiên người ta đã đưa ra một giả thuyết để liên kết vai trò tất cả các thành tố cơ bản trong bệnh nguyên, bệnh sinh khác nhau.

Giả thuyết về hệ thống truyền đạt thần kinh bằng Acetylcholin

Đây là giải thuyết đầu tiên của bệnh. Giả thuyết này đề xuất nguyên nhân gây bệnh là do giảm sự tổng hợp của các chất truyền đạt thần kinh acetylcholin. Trong một thời gian dài, giả thuyết này là cơ sở cho đa số các thuốc điều trị được chỉ định.

Tuy nhiên, gần đây, giả thuyết này không còn được ủng hộ bởi các thuốc dùng để trị thiếu hụt acetylcholine không thực sự mang lại hiệu quả đối với bệnh nhân

Giả thuyết về sự tích tụ Amyloid beta

Giả thuyết này bắt đầu được nhắc đến từ năm 1991, cho rằng chính sự tích tụ của amyloid beta chính là nguyên nhân gây nên bệnh alzheimer. Cơ sở của giả thuyết này bắt nguồn từ việc vị trí gen sản xuất protein tiền chất amyloid (gen APP) tìm thấy ở những người mắc bệnh alzheimer. Ngoài ra, một số nghiên cứu trên loài chuột bị biến đổi gen APP  cũng cho thấy có các đám rối sợi amyloid và các chứng suy giảm ghi nhớ.

Giả thuyết protein amyloid

Giả thuyết này được nhắc đến trong năm 2009, cho rằng amyloid đã cắt bỏ bớt các cầu nối thần kinh trong não bộ ở giai đoạn phát triển nhanh chóng của con người ở độ tuổi thiếu nhi, làm mất dần các tế bào thần kinh tìm thấy ở bệnh alzheimer. Và chuỗi phản ứng N-APP/DR6 làm cắt bỏ một đoạn phía đầu amine của protein APP của quá trình lão hóa não đã bị kích hoạt gây nên bệnh.

Giả thuyết do myelin bị phá hủy

Có nhiều giả thuyết khác cho rằng chính sự phá hủy myelin trong não khi quá trình lão hóa não diễn ra đã gây ra bệnh. Sự mất mát myelin khiến khả năng dẫn truyền của trục thần kinh axon bị giảm đi làm mất dần các nơron già cũ. Khi myelin bị phân hủy thải ra sắt cũng khiến cho các nơron thần kinh bị phá hủy.

Ứng kích oxy hóa cũng là một nguyên nhân đáng kể trong việc hình thành bệnh

Di truyền gen cũng là nguyên nhân được nhiều người nghĩ đến nhưng điều này không thực sự thuyết phục trên 100% bệnh nhân. Bởi thực tế có một số người bị alzheimer hoàn toàn đơn độc, không ai khác trong gia đình từng mắc phải bệnh này.

Cơ chế bệnh sinh Alzheimer

Cơ chế gây bệnh alzheimer chính là quá trình thay đổi trong việc sản xuất và tích tụ peptide amyloid beta. Tuy nhiên, mức độ biến đổi như thế nào thì dẫn tới bệnh alzheimer vẫn chưa được khẳng định chính xác. Cơ bản cơ chế chỉ cảnh báo về cơ chế gây bệnh là sự biến đổi này.

Cơ chế lý giải rằng, sự tích tụ của peptide amyloid beta đã kích hoạt việc thoái hóa nơron. Sự tích tụ của các vi sợi amyloid là dạng độc tố ngăn cản sự cân bằng ion canxi trong tế bào, dẫn đến kích hoạt sự chết tế bào theo chương trình. Mặt khác, amyloid cũng tích tụ nhiều hơn trong ti thể ở tế bào của não, ức chế chức năng của một số enzym và việc sử dụng glucose trong nơron ở bệnh nhân alzheimer.

Một số quá trình viêm và các cytokine đóng vai trò trong bệnh học của AD. Những triệu chứng viêm của việc hủy hoại mô cũng có thể là cơ chế của bệnh lý này.

Ngoài ra, sự thay đổi của việc phân bổ các neurotrophin – chất điều hòa sự sống, quá trình phát triển và chức năng của nơron và biểu hiện thụ thể của chúng cũng được mô tả trong cơ chế bệnh alzheimer.

Bài viết Nguyên nhân, các yếu tố nguy cơ và tổn thương não trong bệnh Alzheimer đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nguyen-nhan-cac-yeu-to-nguy-co-va-ton-thuong-nao-trong-benh-alzheimer-2808/feed/ 0
Tin vui cho bệnh nhân Alzheimer, một loại thuốc tốt cho bệnh nhân Alzheimer đã từng bị bỏ qua https://benh.vn/tin-vui-cho-benh-nhan-alzheimer-mot-loai-thuoc-tot-cho-benh-nhan-alzheimer-da-tung-bi-bo-qua-70944/ https://benh.vn/tin-vui-cho-benh-nhan-alzheimer-mot-loai-thuoc-tot-cho-benh-nhan-alzheimer-da-tung-bi-bo-qua-70944/#respond Fri, 25 Dec 2020 04:30:50 +0000 https://benh.vn/?p=70944 Công ty phát triển thuốc tuyên bố rằng ở liều lượng cao nhất, thuốc aducanumab làm chậm chứng sa sút trí tuệ. Có thể gọi đây là một sự trở lại. Sau khi bị gác lại sớm trong năm nay do thiếu kết quả sơ bộ, một loại thuốc được nghiên cứu để làm chậm […]

Bài viết Tin vui cho bệnh nhân Alzheimer, một loại thuốc tốt cho bệnh nhân Alzheimer đã từng bị bỏ qua đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Công ty phát triển thuốc tuyên bố rằng ở liều lượng cao nhất, thuốc aducanumab làm chậm chứng sa sút trí tuệ.

scan_nao_alzheimer

Có thể gọi đây là một sự trở lại. Sau khi bị gác lại sớm trong năm nay do thiếu kết quả sơ bộ, một loại thuốc được nghiên cứu để làm chậm tiến trình của căn bệnh Alzheimer đang cho thấy những dấu hiệu mới. Theo báo cáo của công ty vào ngày 5/12/2019, xem xét kỹ hơn dữ liệu từ hai thử nghiệm lâm sàng cho thấy những bệnh nhân sử dụng loại thuốc aducanumab với liều lượng cao nhất có thể thực sự có hiệu quả.

Báo cáo của Samantha Haeberlein thuộc Công ty Công nghệ sinh học Biogen tại Thử nghiệm lâm sàng trong Cuộc họp về căn bệnh Alzheimer ở San Diego cho biết, những người dùng thuốc với liều lượng cao nhất giảm khoảng 30%, đo lường theo thang đo Alzheimer thường được sử dụng, so với những người dùng giả dược (placebo). Với kết quả đáng khích lệ này, công ty Biogen, trụ sở tại Cambridge, bang Massachusetts, lên kế hoạch tìm kiếm giấy phép phê duyệt thuốc từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ trong đầu năm 2020.

Sharon Cohen, nhà thần kinh học hành vi tại Chương trình Bộ nhớ Toronto, phát biểu trong phiên thảo luận nhóm tại cuộc họp rằng các kết quả này làm phấn khởi không chỉ với cộng đồng khoa học mà còn với cả người bệnh. Cohen đã tham gia các cuộc thử nghiệm lâm sàng và nhận tài trợ từ công ty Biogen.

Bài thuyết trình đánh dấu một mốc thời điểm quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu căn bệnh Alzheimer, theo phát biểu của Rebecca Edelmayer, giám đốc tham gia khoa học tại Hiệp hội Alzheimer ở Chicago. Căn bệnh Alzheimer từ từ giết chết các tế bào trong não bộ, dần dần xóa bỏ khả năng ghi nhớ, định hướng và suy nghĩ mạch lạc của con người. Những loại thuốc điều trị Alzheimer hiện tại có thể tạm thời làm ngưng các triệu chứng, nhưng không chống lại sự phá hủy não tiềm ẩn. Một phương pháp điều trị thực sự có thể làm chậm hoặc ngăn chặn tổn thương sẽ có tác động rất đối với cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.

Nếu được xác nhận, các kết quả cũng củng cố ý kiến cho rằng việc hình thành protein amyloid, một loại protein kết dính tích trữ trong não những người mắc Alzheimer, là một bước đầu tiên căn bản của căn bệnh, trái ngược với những ý tưởng không liên quan như một số người đã tranh luận.

Thuốc Aducanumab là một loại kháng thể được nghiên cứu với mục đích loại bỏ những mảng amyloid lớn nhỏ gọi là sợi huyết (fibrils). Nhưng loại thuốc này có một lịch sử khá thăng trầm. Ban đầu, thuốc đã được chứng minh là loại bỏ protein amyloid ra khỏi não. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra hai thử nghiệm pha 3 để chứng minh giá trị của thuốc bằng cách đưa nó ra khỏi các phương pháp điều trị tiêu chuẩn hoặc giả dược, được dùng cho người trong độ tuổi 70 mắc những dấu hiệu đầu tiên của bệnh Alzheimer. Dữ liệu sơ bộ từ hai thử nghiệm này cho thấy thuốc khó có khả năng đạt được mục tiêu trong việc làm chậm các triệu chứng đi cùng với các dấu hiệu não tiềm ẩn của căn bệnh hơn là điều trị bằng giả dược.

Những kết quả mơ hồ này khiến công ty Biogen phải dừng thử nghiệm vào tháng Ba trước khi họ hoàn thành.

thuoc_dieu_tri_alzheimer

Nhưng vào tháng Mười, sau khi chạy thêm dữ liệu 3 tháng có sẵn sau các phân tích ban đầu, công ty Biogen kết luận rằng loại thuốc này cuối cùng cũng cho kết quả đáng hứa hẹn, đặc biệt đối với người được điều trị ở liều lượng cao nhất, 10 miligram thuốc trên một kilogram cân nặng cơ thể. Công ty đã quyết định gia tăng liều lượng đối với một số người trước đó được chỉ định dùng liều lượng thấp hơn do lo ngại các tác dụng phụ.

Các kết quả cập nhật bao gồm 3285 người có những dấu hiệu trượt nhận thức sớm. Các cuộc khảo sát đo lường khả năng của những người tham gia về sáu khía cạnh cuộc sống, gồm trí nhớ, định hướng, chăm sóc cá nhân và giải quyết vấn đề. Các phân tích trên một tập hợp 288 người trong một thử nghiệm được điều trị với liều lượng cao nhất cho thấy rằng, qua một năm rưỡi nghiên cứu, trong khi họ vẫn mất đi một số năng lực tinh thần nhưng đã giảm 30% so với những người được điều trị bằng giả dược. Một tập hợp tương tự gồm 282 người trong một thử nghiệm khác đã giảm 27% so với người dùng giả dược. Kết quả quét não cho thấy, so với những người dùng giả dược, não bộ của những người dùng thuốc aducanumab có ít amyloid hơn – và ít protein tau, một loại protein khác liên quan tới bệnh Alzheimer. Cả hai kết quả về protein amyloid và tau chứng tỏ rằng loại thuốc này thực tế đã làm chậm tiến triển của căn bệnh.

Các đám rối cản trở

Một phân tích nhỏ tìm ra rằng những người được điều trị bằng giả dược có nhiều mảng protein tau (màu đỏ) ở một số chỗ trong não bộ hơn những người dùng thuốc aducanumab. Dưới đây là ba hình ảnh quét não của người dùng giả dược (hình bên trái) và người dùng thuốc aducanumab liều cao nhất (hình bên phải).

Phương pháp điều trị này đã gây ra một số tác dụng phụ. Hình ảnh quét não cho thấy có khoảng 40% người dùng thuốc aducanumab liều cao nhất có dấu hiệu sưng não hoặc chảy máu não. Dù vậy, phần lớn không có bất kỳ một dấu hiệu nào của những vấn đề trên.

Cohen phát biểu: “Mức độ cải thiện thấy được trong các kết quả trên, đặc biệt là trong các phép đo khả năng hàng ngày, là một vấn đề lớn. Những người hiểu rõ căn bệnh này trong số chúng ta đều biết rõ việc đánh mất chính mình từng chút một là như thế nào. Bất kỳ việc gì bạn có thể làm tốt, đã là một chiến thắng.”

Hai thay đổi lớn trong các thử nghiệm – thay đổi trong liều lượng giữa lần thử nghiệm và khi kết thúc quá trình thử nghiệm – làm phức tạp các phân tích. Những sự phức tạp đó khiến cho các nhà nghiên cứu phải cảnh giác với những kết quả mới nhất.

Nhà thần kinh học Samuel Gandy của Trường Y khoa Icahn tại Mount Sinai, thành phố New York, đang giữ lại phán quyết cho đến có khi nhiều dữ liệu hơn được công bố. Ông cho rằng công ty Biogen nên chia sẻ dữ liệu của họ với các nhà khoa học khác cho các phân tích độc lập, như họ đã làm với một loại thuốc Alzheimer khác gọi là solenezumab. Việc chia sẻ hoàn toàn này hiện đang là một tiêu chuẩn vàng, và đặc biệt quan trọng đối với loại thuốc aducanumab hiện vẫn đang tồn tại nhiều tranh cãi.

Nguồn: ScienceNews, Laura Sanders, 05/12/2019

Bài viết Tin vui cho bệnh nhân Alzheimer, một loại thuốc tốt cho bệnh nhân Alzheimer đã từng bị bỏ qua đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tin-vui-cho-benh-nhan-alzheimer-mot-loai-thuoc-tot-cho-benh-nhan-alzheimer-da-tung-bi-bo-qua-70944/feed/ 0
Bệnh Alzheimer khác nhau ở hai giới tính như thế nào ? https://benh.vn/benh-alzheimer-khac-nhau-o-hai-gioi-tinh-nhu-the-nao-66272/ https://benh.vn/benh-alzheimer-khac-nhau-o-hai-gioi-tinh-nhu-the-nao-66272/#respond Wed, 14 Aug 2019 15:23:22 +0000 https://benh.vn/?p=66272 Gần đây bộ phim " Điều ba mẹ chưa kể " đã lấy lòng khán giả khi miêu tả chân thực câu chuyện tình cảm của hai ông bà lão khi mắc bệnh Alzheimer. Hẳn là khi xem xong nhiều người cũng tự hỏi liệu bố mẹ mình mai sau có mắc chứng bệnh này không ? Liệu chứng bệnh này ở nam và nữ có khác nhau không ? Cùng tìm hiểu qua bài viết sau.

Bài viết Bệnh Alzheimer khác nhau ở hai giới tính như thế nào ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Gần đây bộ phim ” Điều ba mẹ chưa kể ” đã lấy lòng khán giả khi miêu tả chân thực câu chuyện tình cảm của hai ông bà lão khi mắc bệnh Alzheimer. Hẳn là khi xem xong nhiều người cũng tự hỏi liệu bố mẹ mình mai sau có mắc chứng bệnh này không ? Liệu chứng bệnh này ở nam và nữ có khác nhau không ? Cùng tìm hiểu qua bài viết sau.

Nam hay nữ bị nhiều hơn ?

Khi nói đến chứng mất trí nhớ, phụ nữ chịu gánh nặng nhiều hơn nam giới. Hai phần ba số người trưởng thành mắc bệnh Alzheimer ở Mỹ là nữ, theo báo cáo về số liệu và số liệu về bệnh Alzheimer của Hiệp hội Alzheimer 2019 .

Rebecca Edelmayer, tiến sĩ , giám đốc tham gia khoa học tại Hiệp hội Alzheimer cho biết , sự khác biệt về tỷ lệ lưu hành có liên quan đến tuổi thọ, về mặt phụ nữ sống lâu hơn nam giới . Bây giờ chúng tôi nghĩ rằng có nhiều lý do sinh học hơn cho những khác biệt và sự phổ biến này.

Nghiên cứu được trình bày tại Hội nghị Quốc tế Hiệp hội Alzheimer tháng 7 năm 2019 (AAIC) có thể giúp làm sáng tỏ những lý do đó.

Theo một tuyên bố được đưa ra bởi Maria C. Carrillo, Tiến sĩ , Giám đốc khoa học của Hiệp hội Alzheimer, Nghiên cứu báo cáo tại AAIC giúp chúng tôi tiến gần hơn đến việc trả lời câu hỏi đó, bằng cách xác định các lý do sinh học và xã hội cụ thể tại sao Alzheimer khác nhau ở nam và nữ .

Do bộ não nam và nữ có chức năng khác nhau?

Hai nghiên cứu được trình bày tại AAIC năm nay tập trung vào sự khác biệt về chức năng não giữa nam và nữ.

Nghiên cứu khi làm bài kiểm tra

Tiến sĩ Edelmayer cho biết, nghiên cứu cho thấy phụ nữ có xu hướng thực hiện tốt hơn các bài kiểm tra trí nhớ bằng lời nói so với nam giới trong giai đoạn đầu của bệnh. Trong một số cách, điều này thực sự có thể che giấu căn bệnh ở phụ nữ, bởi vì phụ nữ đang trải qua cùng một số thay đổi não liên quan đến Alzheimer như nam giới.

Quét não

Một cuộc điều tra do Erin Sundermann, Tiến sĩ , bác sĩ phẫu thuật thần kinh tại Đại học California thuộc Trường Y San Diego, dẫn đầu, có thể làm sáng tỏ hiện tượng này. Cô và các đồng nghiệp của mình đã theo dõi 453 phụ nữ và 569 người đàn ông đang tham gia ” Sáng kiến ​​thần kinh bệnh Alzheimer “. Sử dụng quét não, cô và các cộng tác viên của mình đã đo được các mảng amyloid, một dấu hiệu đặc trưng của bệnh Alzheimer.

Sự khác biệt do mảng amyloid

Các nhà khoa học quan sát thấy rằng phụ nữ đạt điểm cao hơn nam giới trong bài kiểm tra trí nhớ bằng lời nói khi sự tích tụ mảng bám amyloid dường như ở mức tối thiểu đến trung bình, cho thấy bệnh Alzheimer ở ​​giai đoạn đầu. Khi sự tích lũy amyloid là cực đoan hơn, phụ nữ và nam giới thực hiện như nhau trong bài kiểm tra bằng lời nói.

Là một phần trong phân tích của họ, Tiến sĩ Sundermann và nhóm của cô cũng đã đo chuyển hóa glucose não của những người tham gia. Họ quan sát thấy rằng quá trình xử lý glucose này cao hơn đáng kể đối với phụ nữ khi họ thể hiện sự tích lũy amyloid từ tối thiểu đến trung bình.

Edelmayer cho biết, phụ nữ có thể có trí nhớ bằng lời nói tốt hơn về căn bệnh này vì họ có mạng lưới tốt hơn và mạng lưới kết nối hoạt động nhiều hơn trong não.

Nghiên cứu chụp cắt lớp

Theo một hướng tương tự, Sepideh (Sepi) Shokouhi, Tiến sĩ , trợ lý giáo sư tâm thần học và khoa học hành vi tại Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt ở Nashville, Tennessee và các đồng nghiệp đã sử dụng phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) để kiểm tra cấu trúc của não và cách thức xây dựng bộ não. lên và lan rộng .

Ở những bệnh nhân mắc chứng mất trí nhớ, protein tau tích tụ và hình thành các khối giết chết các tế bào não.

Các nhà điều tra đã quét một nhóm người trưởng thành khỏe mạnh (123 nam và 178 nữ) và một nhóm các cá nhân bị suy giảm nhận thức nhẹ (101 nam và 60 nữ). Các hình ảnh cho thấy phụ nữ bị suy giảm nhận thức nhẹ có các kết nối chức năng và cấu trúc rất khác nhau xuất hiện để tăng tốc độ lây lan của tau.

Edelmayer cho biết phụ nữ có thể có kết nối tốt hơn trong não, nhưng họ cũng có gánh nặng cao hơn vì nó có thể lây lan qua não nhanh hơn. Đây có thể là một con dao hai lưỡi.

Làm thế nào các gen có thể đóng một vai trò trong sự khác biệt giới tính của Alzheimer?

Trong nghiên cứu khác, Brian Kunkle, Tiến sĩ , nhà dịch tễ học di truyền và nhà khoa học liên kết tại Đại học Y khoa Miami Miller ở Florida, và các đồng nghiệp đã phân tích sự khác biệt rủi ro di truyền giữa nam và nữ .

Nhà khoa học đã phân tích hai bộ dữ liệu lớn về thông tin di truyền: trong số 5.522 bệnh nhân sa sút trí tuệ (chỉ hơn một nửa nữ) và 4.919 đối chứng (khoảng 60% nữ) và một nhóm riêng gồm 9.135 bệnh nhân sa sút trí tuệ (60% nữ) và 9.677 đối chứng ( cũng 60 phần trăm nữ).

Họ đã xác định được 11 gen khác nhau liên quan đến sự phát triển của bệnh Alzheimer khác biệt giữa nam và nữ. Ví dụ, các gen MCOLN3 và CHMP2B (liên quan đến endocytosis, một quá trình liên quan đến sự phát triển của Alzheimer, theo một bài báo được công bố vào tháng 5 năm 2019 trên AlzForum ) chỉ liên quan đến rủi ro ở nam giới, trong khi các gen CD1E và PTPRC (liên quan đến miễn dịch) có liên quan đến rủi ro chỉ ở phụ nữ.

Người đi làm giúp bảo tồn chức năng não?

Một nghiên cứu thứ tư đã đánh giá việc làm có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển và phát triển của bệnh Alzheimer ở ​​phụ nữ. Elizabeth Rose Mayeda, Tiến sĩ , giáo sư trợ lý dịch tễ học tại Trường Y tế Công cộng UCLA ở Los Angeles, và các cộng tác viên đã xem xét dữ liệu về 6.386 phụ nữ sinh từ 1935 đến 1956.

Trong thời gian theo dõi trung bình khoảng 14 năm, họ đã so sánh tỷ lệ suy giảm trí nhớ giữa những người làm việc có tiền lương và những người không làm việc ( làm công việc nội trợ ). Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những phụ nữ không tham gia vào việc làm được trả lương có tốc độ suy giảm trí nhớ nhanh hơn.

Ví dụ, phụ nữ có chồng có con không bao giờ kiếm được tiền lương đã giảm hiệu suất bộ nhớ trung bình nhanh hơn 61% trong độ tuổi từ 60 đến 70. Những phụ nữ có thời gian làm mẹ đơn thân kéo dài mà không có việc làm đã chứng minh sự suy giảm trí nhớ nhanh hơn 83% trong cùng độ tuổi đó.

Tiến sĩ Mayeda và nhóm của cô kết luận rằng việc tham gia vào lực lượng lao động được trả lương có thể giúp ngăn ngừa suy giảm trí nhớ muộn ở phụ nữ, có thể là do sự kích thích về tinh thần, lợi ích tài chính và lợi ích xã hội khi làm việc bên ngoài nhà.

 

everydayhealth.com

Bài viết Bệnh Alzheimer khác nhau ở hai giới tính như thế nào ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-alzheimer-khac-nhau-o-hai-gioi-tinh-nhu-the-nao-66272/feed/ 0
15 điều chỉnh trong chế độ ăn làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer https://benh.vn/15-dieu-chinh-trong-che-do-an-lam-giam-nguy-co-mac-alzheimer-62941/ https://benh.vn/15-dieu-chinh-trong-che-do-an-lam-giam-nguy-co-mac-alzheimer-62941/#respond Tue, 02 Jul 2019 06:19:23 +0000 https://benh.vn/?p=62941 Bạn muốn bảo vệ sức khỏe não bộ của bạn về lâu dài? Dưới đây là 15 điều chỉnh có thể giúp bạn đạt được điều này

Bài viết 15 điều chỉnh trong chế độ ăn làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bạn muốn bảo vệ sức khỏe não bộ của bạn về lâu dài? Dưới đây là 15 điều chỉnh có thể giúp bạn đạt được điều này

  • Ít nhất ba phần ngũ cốc nguyên hạt một ngày

  • Rau lá xanh (như salad) ít nhất sáu lần một tuần

  • Các loại rau khác ít nhất một lần một ngày
  • Quả mọng ít nhất hai lần một tuần

  • Thịt đỏ ít hơn bốn lần một tuần
  • Cá ít nhất một lần một tuần

  • Gia cầm ít nhất hai lần một tuần

  • Đậu nhiều hơn ba lần một tuần

  • Các loại hạt ít nhất năm lần một tuần
  • Đồ chiên hoặc thức ăn nhanh ít hơn một lần một tuần
  • Chủ yếu là dầu ô liu để nấu ăn

  • Ít hơn một muỗng bơ hoặc bơ thực vật mỗi ngày
  • Ít hơn một khẩu phần phô mai một tuần
  • Ít hơn năm bánh ngọt hoặc đồ ngọt một tuần
  • Một ly rượu hoặc đồ uống có cồn khác mỗi ngày

Benh.vn ( TH mayoclinic.org )

Bài viết 15 điều chỉnh trong chế độ ăn làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/15-dieu-chinh-trong-che-do-an-lam-giam-nguy-co-mac-alzheimer-62941/feed/ 0
Thật ngạc nhiên, chế phẩm probiotic có thể hỗ trợ trí nhớ cho các bệnh nhân bị Alzheimer https://benh.vn/that-ngac-nhien-che-pham-probiotic-co-the-ho-tro-tri-nho-cho-cac-benh-nhan-bi-alzheimer-58610/ https://benh.vn/that-ngac-nhien-che-pham-probiotic-co-the-ho-tro-tri-nho-cho-cac-benh-nhan-bi-alzheimer-58610/#respond Thu, 14 Mar 2019 01:15:39 +0000 https://benh.vn/?p=58610 Một nhóm nghiên cứu từ Iran đã lần đầu tiên chỉ ra việc sử dụng liên tục chế phẩm probiotic hằng ngày trong 3 tháng có thể giúp cải thiện trí nhớ và khả năng tư duy ở những bệnh nhân Alzheimer.

Bài viết Thật ngạc nhiên, chế phẩm probiotic có thể hỗ trợ trí nhớ cho các bệnh nhân bị Alzheimer đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Một nhóm nghiên cứu từ Iran đã lần đầu tiên chỉ ra việc sử dụng liên tục chế phẩm probiotic hằng ngày trong 3 tháng có thể giúp cải thiện trí nhớ và khả năng tư duy ở những bệnh nhân Alzheimer.

Một số thông tin về bệnh Alzheimer

– Hơn 5 triệu người lớn ở Mỹ đang sống với căn bệnh này

– Cứ 66 giây lại có một người ở Mỹ bị bệnh Alzheimer

– Alzheimer gây ra tử vong nhiều hơn cả bệnh ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt cộng lại

Các nhà khoa học đã phát hiện ra những bệnh nhân Alzheimer uống sữa chứa các vi khuẩn sống có lợi mỗi ngày trong 12 tuần cho thấy sự cải thiện rõ rệt về khả năng nhận thức.

Trưởng nhóm nghiên cứu, giáo sư Mahmoud Salami từ Đại học Kashan, Iran và các cộng sự đã đăng tải các kết quả trên tạp chí Khoa học Thần kinh Ranh giới của lão hóa (Frontiers in Aging Neuroscience).

Chế phẩm probiotic được định nghĩa là các vi sinh vật sống “có lợi” cho sức khỏe. Chúng bao gồm các chi vi khuẩn như LactobacillusBifidobacterium, các chủng nấm men như Saccharomyces boulardii.

Theo Viện Quốc gia về Sức khỏe tổng hợp và bổ sung Mỹ (National Center for Complementary and Integrative Health), các chế phẩm probiotic có rất nhiều vai trò. Ví dụ, chúng có thể giúp tạo một hệ vi khuẩn thuận lợi hơn cho đường ruột, và giúp kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những vi sinh vật thân thiện này – rất nhiều trong số chúng được bổ sung trong thực phẩm, thuốc bôi ngoài da, và thực phẩm chức năng – có thể giúp bảo vệ chúng ta khỏi nhiều bệnh, như hội chứng ruột kích thích, eczema, một số bệnh dị ứng, cảm lạnh và sâu răng.

Những nghiên cứu trước đó trên động vật cũng cho thấy probiotic có thể cải thiện khả năng học tập và trí nhớ – điều này có thể do những thay đổi có lợi trong đường ruột đã tác động tích cực lên não bộ. Tuy nhiên, tác dụng tương tự của probiotic trên người vẫn chưa được kiểm chứng.

Chức năng nhận thức cải thiện nhờ dùng probiotic

Trong nghiên cứu gần nhất, giáo sư Salami và các cộng sự đã tìm hiểu hiệu quả của probiotic trên khả năng nhận thức của 52 đàn ông và phụ nữ từ 60-95 tuổi bị Alzheimer.

Những người tham gia được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm. Một nhóm được chỉ định uống 200 mililit sữa bình thường trong 12 tuần. Trong khi nhóm còn lại được uống 200 mililit sữa chứa bốn chủng vi khuẩn: Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei, Lactobacillus fermentum,Bifidobacterium bifidum.

Trước và sau 12 tuần nghiên cứu, nhóm nghiên cứu lấy mẫu máu của các bệnh nhân, và đánh giá chức năng nhận thức của họ bằng thang Đánh giá Tâm thần tối thiểu (Mini-Mental State Examination – MMSE).

Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu cũng được yêu cầu hoàn thành những bài kiểm tra về học tập và trí nhớ, như gọi tên đồ vật, đếm ngược và sao chép tranh.

Khi so sánh hai nhóm bệnh nhân, những người được dùng sữa có bổ sung lợi khuẩn cho thấy sự cải thiện về khả năng nhận thức rõ rệt hơn hẳn những người chỉ uống sữa thường.

Các bệnh nhân uống sữa bổ sung lợi khuẩn có điểm số MMSE tăng từ 8,7 lên 10,6 (trên 30 điểm) sau 12 tuần nghiên cứu. Trong khi những bệnh nhân chỉ uống sữa thường bị giảm từ 8,5 xuống 8,0 điểm.

Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh rằng tất cả những người tham gia vẫn bị suy giảm khả năng nhận thức nghiêm trọng. Nhưng kết quả đã lần đầu tiên cho thấy chế phẩm probiotic có thể giúp cải thiện một phần khả năng nhận thức.

“Trong nghiên cứu gần nhất, chúng tôi cũng đã chỉ ra rằng probiotic có thể cải thiện khả năng học tập không gian và trí nhớ bị suy giảm ở chuột bị tiểu đường. Nhưng đây là lần đầu tiên chế phẩm probiotic được chứng minh là có lợi cho khả năng nhận thức đã bị tổn hại ở người.”

Khả năng nhận thức tăng lên nhờ probiotic có thể do thay đổi trong chuyển hóa

Các nhà khoa học còn thấy rằng mẫu máu của những người dùng chế phẩm probiotic đã giảm nồng độ triglyceride, nồng độ cholesterol VLDL (lipoprotein tỷ trọng cực thấp), và lượng protein C phản ứng nhạy cảm cao – dấu hiệu sinh học của tình trạng viêm.

Thêm vào đó, những người được dùng chế phẩm probiotic đã giảm hai chỉ số: chỉ số kháng insulin HOMA-IR và chức năng tiết insulin của tế bào beta tuyến tụy HOMA-β.

Những phát hiện này cho thấy lợi ích của probiotic trên nhận thức có thể do chế phẩm này đã kích thích các thay đổi trong chuyển hóa. Giáo sư Salami nói: “Chúng tôi dự định sẽ tìm hiểu kỹ những cơ chế này trong nghiên cứu tiếp theo.”

Giáo sư Walter Lukiw ở Đại học Bang Louisiana đã đánh giá nghiên cứu này “rất thú vị và quan trọng”. Ông nhấn mạnh rằng nghiên cứu của các nhà khoa học Iran đã cung cấp thêm bằng chứng về mối quan hệ giữa hệ vi sinh vật đường ruột và chức năng nhận thức của con người.

Giáo sư Walter Lukiw cho biết thêm: “Nghiên cứu này cũng liên quan tới phát hiện gần đây của chúng tôi rằng hệ vi sinh vật đường tiêu hóa ở những bệnh nhân bị Alzhelmer có sự khác biệt so với những người khỏe mạnh. Và cả hệ tiêu hóa và hàng rào máu não đều suy yếu khi con người già đi, cho phép các dịch tiết của vi sinh vật đường ruột (như amyloids, lipopolysaccharide, nội độc tố và RNA nhỏ không mã hóa) tiếp cận tới các khoang của hệ thần kinh trung ương.”

Nghiên cứu này hứa hẹn sẽ mở ra cánh cửa mới cho việc chăm sóc và điều trị cho các bệnh nhân Alzhelmer trong tương lai.

Bài viết Thật ngạc nhiên, chế phẩm probiotic có thể hỗ trợ trí nhớ cho các bệnh nhân bị Alzheimer đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/that-ngac-nhien-che-pham-probiotic-co-the-ho-tro-tri-nho-cho-cac-benh-nhan-bi-alzheimer-58610/feed/ 0
Tại Mỹ tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer ngang với ung thư https://benh.vn/tai-my-ty-le-tu-vong-do-benh-alzheimer-ngang-voi-ung-thu-4994/ https://benh.vn/tai-my-ty-le-tu-vong-do-benh-alzheimer-ngang-voi-ung-thu-4994/#respond Mon, 08 Oct 2018 05:14:47 +0000 http://benh2.vn/tai-my-ty-le-tu-vong-do-benh-alzheimer-ngang-voi-ung-thu-4994/ Tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer cao ngang với tỷ lệ tử vong do bệnh tim và ung thư. Đây là kết quả một nghiên cứu mới của Trung tâm Y khoa thuộc trường Đại học Rush, Chicago, Mỹ vừa được công bố ngày 5/3.

Bài viết Tại Mỹ tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer ngang với ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer cao ngang với tỷ lệ tử vong do bệnh tim và ung thư. Đây là kết quả một nghiên cứu mới của Trung tâm Y khoa thuộc trường Đại học Rush, Chicago, Mỹ vừa được công bố ngày 5/3.

Nghiên cứu tỷ lệ tử vong đối với bệnh nhân Alzheimer

Để tiến hành nghiên cứu, các nhà khoa học đã theo dõi và hàng năm kiểm tra chứng mất trí đối với 2.500 người ở độ tuổi từ 65 trở lên. Kết quả cho thấy khoảng 559 người tham gia có khuynh hướng phát triển bệnh Alzheimer trong thời gian nghiên cứu, và thời gian trung bình kể từ khi phát hiện triệu chứng đến tử vong là bốn năm.

Tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer cao ngang với tỷ lệ tử vong do bệnh tim và ung thư (Ảnh minh họa)

Ở độ tuổi từ 75 – 84, số người mắc bệnh này có tỷ lệ tử vong cao hơn bốn lần so với người không bị bệnh. 1/3 trong tổng số những ca tử vong ở tuổi 75 trở lên đều có liên quan đến bệnh Alzheimer.

Nhận định của chuyên gia

Theo Bryan James – tác giả của công trình nghiên cứu trên

Theo Bryan James, tác giả của công trình nghiên cứu nói trên thì kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng hơn 500.000 người Mỹ đã tử vong do bệnh Alzheimer ở độ tuổi 75 trong năm 2010, cao hơn 6 lần so với hơn 83.000 người theo thống kê trên thực tế của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Mỹ (CDC).

Tác giả James cho biết nắm rõ được con số thật của chứng bệnh này sẽ góp phần quan trọng trong việc tăng nhận thức của cộng đồng và xác định mục tiêu nghiên cứu liên quan đến bệnh này.

Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Mỹ

Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Mỹ, bệnh Alzheimer hiện nay đứng hàng thứ sáu trong số những bệnh gây tử vong nhiều nhất tại Mỹ; trong khi bệnh tim giành vị trí thứ nhất, và bệnh ung thư đứng thứ hai.

Theo tạp chí Neurology – tạp chí chuyên ngành của Học viện thần kinh Mỹ

Tuy nhiên, theo nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Neurology – tạp chí chuyên ngành của Học viện thần kinh Mỹ, trên thực tế tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer có thể nhiều hơn gấp sáu lần mức thường thấy.

Bệnh Alzheimer là một chứng mất trí phổ biến thường gặp ở những bệnh nhân có độ tuổi 65 trở lên. Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân có triệu chứng như nhầm lẫn, khó chịu, thay đổi tâm trạng, mất khả năng phân tích ngôn ngữ, mất trí nhớ dài hạn, suy giảm các giác quan. Dần dần, cơ thể sẽ mất đi một số chức năng, cuối cùng dẫn đến cái chết. Bệnh không chữa khỏi nên người bệnh phải cần đến sự chăm sóc của những người thân trong gia đình.

Benh.vn (Theo Vietnam+)

Bài viết Tại Mỹ tỷ lệ tử vong do bệnh Alzheimer ngang với ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tai-my-ty-le-tu-vong-do-benh-alzheimer-ngang-voi-ung-thu-4994/feed/ 0
4 nguyên tắc phòng ngừa bệnh Alzheimer ở người cao tuổi https://benh.vn/7-nguyen-tac-phong-ngua-benh-alzheimer-o-nguoi-cao-tuoi-2929/ https://benh.vn/7-nguyen-tac-phong-ngua-benh-alzheimer-o-nguoi-cao-tuoi-2929/#respond Thu, 12 Jul 2018 09:23:41 +0000 http://benh2.vn/7-nguyen-tac-phong-ngua-benh-alzheimer-o-nguoi-cao-tuoi-2929/ Alzheimer là bệnh gây mất trí nhớ phổ biến ở nhóm người cao tuổi. Việc điều trị bệnh này vẫn còn hạn chế nên việc phòng ngừa đóng một vai trò quan trọng. Tạp chí SDC của Singapore vừa giới thiệu 4 nguyên tắc cơ bản về phòng tránh bệnh này.

Bài viết 4 nguyên tắc phòng ngừa bệnh Alzheimer ở người cao tuổi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Alzheimer là bệnh gây mất trí nhớ phổ biến ở nhóm người cao tuổi. Việc điều trị bệnh này vẫn còn hạn chế nên việc phòng ngừa đóng một vai trò quan trọng. Tạp chí SDC của Singapore vừa giới thiệu 4 nguyên tắc cơ bản về phòng tránh bệnh này.

1. Duy trì luyện tập thể chất và tinh thần một cách liên tục

Hoạt động thể chất thường xuyên giúp lưu thông máu và dưỡng chất đến cho não một cách tốt hơn, giúp mô não khoẻ mạnh và tăng cường khả năng chống chọi với bệnh tật. Ngoài ra, hoạt động thể chất, luyện tập thể thao còn làm tăng các “tiếp hợp” của hàng triệu tế bào não, giúp não làm tốt các chức năng thần kinh vốn có. Vì lý do trên, giới chuyên môn khuyến cáo, mọi người, đặc biệt là nhóm trung cao tuổi nên luyện tập thể thao đều đặn, nên đi bộ, chạy bộ từ 30 – 60 phút mỗi ngày hoặc leo cầu thang, sử dụng xe đạp thay vì dùng các phương tiện giao thông cơ giới.

2. Giáo dục

Giáo dục ở đây rất đa dạng và nhờ giáo dục con người có thêm kiến thức, trong đó có cả kiến thức phòng bệnh cho chính bản thân. Qua giáo dục, con người tiếp nhận nhiều thông tin về phòng bệnh và giúp não thêm tinh tường. Cũng nhờ học suốt đời nên bộ óc con người liên tục thích nghi với cái mới, không bị trì trệ và suy giảm. Ví dụ, những người cao tuổi thường xuyên dùng máy tính làm việc, vào mạng đọc truyện, xem thông tin, làm việc trí óc hoặc chơi cờ, làm thơ… thì đầu óc minh mẫn hơn nhóm người không có thói quen này.

3. Quản lý stress

Stress (áp lực) là thủ phạm gây ra rất nhiều phiền toái cho sức khỏe con người, kể cả việc làm tăng bệnh Alzheimer. Cơ chế gây bệnh của stress rất phức tạp và khi stress tăng cao, cơ thể bài tiết quá nhiều cortisol, hoóc-môn làm teo vùng hải mã của não, nơi đảm nhận việc xử lý trí nhớ và giúp não phát triển, nhất là khi có quá nhiều stress, não sẽ trở nên rối loạn và làm cho trí nhớ suy giảm.

4. Bằng ăn uống

Theo nghiên cứu, ăn càng ít mỡ động vật càng tốt. Ví dụ, những người Nhật Bản di cư sống tại Mỹ có khẩu phần ăn với hàm lượng mỡ cao gấp hai lần người Mỹ bản địa nên tỉ lệ mắc bệnh Alzheimer tăng trên hai lần so với những người Nhật sống tại Nhật. Tại nhiều quốc gia, tỉ lệ người mắc bệnh Alzheimer thấp là do ăn ít mỡ động vật. Ví dụ: Trung Quốc và Nigeria có tỉ lệ mắc bệnh này ở nhóm người trên 65 chỉ 1%. Vì vậy, khẩu phần ăn uống đóng vai trò quyết định tới sức khỏe con người

Bài viết 4 nguyên tắc phòng ngừa bệnh Alzheimer ở người cao tuổi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/7-nguyen-tac-phong-ngua-benh-alzheimer-o-nguoi-cao-tuoi-2929/feed/ 0