Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Tue, 20 Jun 2023 03:22:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Các bệnh thay đổi màu da https://benh.vn/cac-benh-thay-doi-mau-da-4768/ https://benh.vn/cac-benh-thay-doi-mau-da-4768/#respond Tue, 20 Jun 2023 12:10:10 +0000 http://benh2.vn/cac-benh-thay-doi-mau-da-4768/ Cùng tìm hiểu về các bệnh có thể dẫn tới thay đổi màu da của bạn

Bài viết Các bệnh thay đổi màu da đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Màu da của chúng ta có thể bị thay đổi tùy theo môi trường sống, đó là sự thay đổi bình thường. Tuy nhiên, nhiều khi da có thể thay đổi do bệnh lý trong hoặc ngoài cơ thể.

Tàn nhang

Tàn nhang (còn gọi là tàn hương) là những chấm màu nâu sẫm, tròn bầu dục hoặc đa giác bằng hạt kê hạt tấm, rải rác hoặc tập trung thành một đám lớn hơn màu sẫm hơn. Hay nổi nhiều nhất ở vùng da hở cổ ngực, má, mũi, lưng bàn tay. Chịu ảnh hưởng rõ rệt của ánh nắng. Càng ra nắng càng tăng sẫm màu. Mùa đông nhạt màu hơn. Không gây cảm giác đau, ngứa gì.

Thường bắt đầu bị tàn nhang vào tuổi đang lớn dậy thì đến khi đứng tuổi có xu hướng giảm dần, có thể tự nhiên khỏi.

Nhiều tác giả coi tàn nhang là những bớt sắc tố bẩm sinh có tính gia đình di truyền nhưng xuất hiện muộn lành tính giống như những nốt ruồi nhỏ phẳng. Thường có liên quan tới thể địa dễ cảm ứng với ánh sáng, dễ bắt nắng (tăng cảm quang).

tan-nhang

Tàn nhang hoàn toàn lành tính trừ trường hợp có kết hợp khô da, dày sừng rải rác trong chứng khô da nhiễm sắc (hiếm gặp). Vì vậy, bệnh nhân không nên lo lắng quá mức về phương diện thẩm mỹ mà đi tẩy hoặc bôi thuốc tùy tiện dễ gây viêm da, nhiễm trùng.

Người bệnh nên đến khám và điều trị ở các phòng khám chuyên khoa Da liễu. Các phương pháp chữa sạm da có kết quả nhưng cũng chỉ tương đối, tạm thời.

Nên áp dụng các biện pháp bảo vệ da, chống ánh nắng: bôi kem chống nắng (Sunplay, Spectraban ) đội mũ rộng vành, dùng khăn che mặt… đặc biệt không nên rửa mặt bằng xà phòng, xát chanh hay phèn chua lên da mặt, không nên lạm dụng các mỹ phẩm. Sữa rửa mặt và kem có chất thơm dễ gây bắt nắng tăng sẫm màu.

Bớt nhiễm sắc (Naevus pigmentaies)

Có một số em bé từ khi lọt lòng đã mang trên người những đám da sẫm màu (nâu, xanh, đậm hoặc nhạt). Ta thường gọi là vết bớt, vết đẹn. Bớt màu đen có thể kèm theo nhiều lông. Thực ra đây là một rối loạn sắc tố da từ trong bào thai, chưa rõ nguyên nhân.

Các bớt sắc tố đơn thuần hoặc có lông cư trú hay lan tỏa một vùng đều không ảnh hưởng gì đến sức khỏe, không gây cảm giác chủ quan đau, ngứa gì.

Trừ một số trường hợp ở phần da hở (cổ, mặt, bàn tay) có thể ảnh hưởng ít hoặc nhiều tới thẩm mỹ, từ đó gây tâm lý bi quan, lo lắng, mặc cảm cho người bệnh. Đại đa số các bớt sắc tố kể cả loại có lông đều hoàn toàn lành tính.

Nếu bớt chỉ có kích thước nhỏ, ở vùng da kín, không cần xử trí. Nếu vì thẩm mỹ theo yêu cầu bệnh nhân thì thầy thuốc chuyên khoa có thể giải quyết bằng phẫu thuật thẩm mỹ, chiếu tia laser, phẫu thuật vá da…. Tuy nhiên, các kỹ thuật này phức tạp, tốn kém, hiện chưa có điều kiện thực hiện rộng rãi ở nước ta.

Không nên tự động bôi acid, kiến khoang hoặc các chất hóa học tẩy màu khác, đề phòng bỏng da, nhiễm khuẩn. Không nên cạo lông trên đám bớt vì càng cạo lông thì lông càng mọc nhanh, cứng, gây đau khi va chạm. Tốt nhất là nên đi khám ở một cơ sở chuyên khoa Da liễu đáng tin cậy để được chẩn đoán, tiên lượng và cho những lời khuyên chính xác.

Bệnh bạch biến

Bạch biến (Vitiligo) là một bệnh ngoài da khá phổ biến, xuất hiện sớm hoặc muộn sau khi ra đời. Khác với bệnh bạch tạng (Albinos) hiếm hơn, có tính chất bẩm sinh, xuất hiện ngay từ khi lọt lòng kèm theo nhiều khuyết tật khác về ngũ quan, tâm thần kinh, miễn dịch.

Bạch biến chỉ nổi thành từng đám, vết hoặc đám màu da trắng bạch, hoàn toàn mất sắc tố da (melemin) vì ở các vùng đó vắng tế bào sinh sắc tố (meslanocytes) hoặc có nhưng đã ngừng hoạt động. Các đám bạch biến có ranh giới rõ rệt, viền da lành xung quanh sẫm màu hơn. Da trên đám bạch biến vẫn bình thường không bị teo, cảm giác trên da không biến đổi không đau ngứa, không tê dại. Lông trên đám bạch biến cũng bị bạc màu.

Tổn thương bạch biến có thể khu trú hoặc rải rác, đối xứng. Hình tròn, bầu dục hoặc nhiều cạnh nham nhở như bản đồ. Tiến triển rất bình thường xu hướng ngày càng lan rộng hoặc nổi thêm đám mới, nhưng cũng nhiều khi ổn định lâu dài hoặc tự nhiên khỏi. Bệnh nhân càng trẻ, thời gian bị bệnh càng ngắn có nhiều khi vọng khỏi bệnh hơn. Ngược lại càng lớn tuổi, bị bệnh càng lâu, triển vọng kết quả điều trị càng kém đi.

Bệnh không lây cho người xung quanh, không gây cảm giác đau ngứa khó chịu gì, không ảnh hưởng sức khỏe, không gây biến chứng về nội tạng. Nhưng bệnh có thể gây ảnh hưởng sâu sắc về tâm lý khiến bệnh nhân lo lắng day dứt mặc cảm về phương diện thẩm mỹ nhất là khi tổn thương lộ rõ ở các vùng hở (cổ, mặt, bàn tay) và ở những bệnh nhân đang lứa tuổi sắp lập gia đình.

Nguyên nhân sinh bệnh còn là điều bí hiểm, mặc dù những thập kỷ gần đây, đã có nhiều tiến bộ về bệnh lý giải phẫu, tổ chức, hóa sinh, nội tiết, thần kinh, di truyền học… chỉ mới biết rằng bạch biến là do một khuyết tật gây rối loạn chức phận của các tế bào tạo sắc tố da ở vùng bị bệnh.

Có thể liên quan đến nhiều yếu tố: xúc động, căng thẳng thần kinh, rối loạn giao cảm, rối loạn thần kinh rễ tủy sống ở vùng tương đương. Một số trường hợp có liên quan đến chức phận tuyến giáp trạng, thượng thận, tuyến yên, tuyến sinh dục, gan, tụy… Hiện nay phần lớn các tác giả đang tập trung nghiên cứu theo hướng liên quan tới di truyền và tự miễn dịch.

Vì nguyên nhân bệnh sinh chưa rõ nên điều trị còn gặp nhiều khó khăn, kết quả thất thường.

Phổ biến nhất là phương pháp dùng các chế phẩm có tác dụng tăng cảm ứng với ánh sáng toàn thân hoặc tại chỗ như chế phẩm có psoralen (meladinin, melagenin). Bôi tại chỗ các chất cảm quang có thể làm cho đám bạch biến bị đỏ da, bỏng rát. Có thể kết hợp thuốc ức chế miễn dịch như corticoid.

Cấy tế bào sắc tố vào vùng da bạch biến là một phương pháp hiện đại nhưng đòi hỏi kỹ thuật cao, tốn kém, nên chưa được áp dụng rộng rãi. Hiện nay, chế phẩm có tacrolimus cũng thấy có tác dụng khi bôi.

Theo phương pháp cổ truyền về nam y thì dung cồn hạt đậu miêu bôi lên tổn thương kết hợp uống hạt đậu miêu có tác dụng cảm quang như chế phẩm proralen.

Thầy thuốc chỉ có một lời khuyên chung nhất với bệnh nhân là xác định an tâm điều trị lâu dài, tránh quá lo lắng bi quan về bệnh, dễ làm nguy cơ bột phát. Đã bị bệnh cần phát hiện điều trị sớm ở thầy thuốc chuyên khoa.

Nốt ruồi

Nốt ruồi là một loạn sản sắc tố da khu trú, có tính chất bẩm sinh. Theo y học thuộc vài nhóm các neavi sắc tố. Biểu hiện trên da bằng những sần, cục nhỏ tròn, ranh giới rõ, gờ cao, màu nâu sẫm hoặc đen. Có nốt ở giữa có sợi lông, có nốt xung quanh có quầng bạc màu. Có thể gặp nốt ruồi ở mọi vùng da trên cơ thể. Số lượng ít hoặc nhiều, kích thước to hay nhỏ tùy từng người. Thường xuất hiện từ bé nhưng có khi lớn lên mới xuất hiện. Nốt ruồi không có cảm giác đau ngứa gì, cũng không ảnh hưởng gì đến sức khỏe toàn thân (trừ khi có biến chứng).

Điều đặc biệt là ở nốt ruồi tập trung nhiều sắc tố melanin (hắc sắc tố). Trong vùng nốt ruồi có nhiều đám tế bào sắc tố gọi là tế bào neavi có nhiều tiềm năng chuyển thành tế bào ung thư gây u hắc tố.

Nhưng không nên quá lo lắng. Tuyệt đại đa số những nốt ruồi nhỏ, phẳng, màu đen vừa phải thường lành tính. Một trong những nguyên nhân làm nốt ruồi có thể hư biến thành u hắc tố là kích thích chấn thương, nhất là đang trong tuổi dậy thì. Do đó bệnh nhân không nên tự động cạy, cắt, nạo nhờ người khác đánh tẩy bằng vôi, acid, pin đèn, đắp lá..là rất nguy hiểm.

Nốt ruồi càng to càng đen, tiềm năng hư biến càng nhiều. Nốt ruồi ở vị trí dễ bị va chạm cọ xát như lòng bàn tay, bàn chân, quanh miệng, quanh mắt thắt lưng càng cần được đặc biệt chú ý. Tất cả các nốt ruồi khác nhỏ, lẻ tẻ chỉ cần giữ gìn theo dõi, tránh mọi kích thích, tránh bôi thuốc linh tinh.

Đừng nhầm nốt ruồi với tàn nhang cũng là những vết loạn sắc tố, màu nâu sẫm, nổi lấm tấm nhiều nhất ở cổ, mặt mùa hè nặng hơn màu đông không đau ngứa gì, hoàn toàn lành tính.

Nếu một nốt ruồi nào đó tự nhiên sẫm màu hơn, mọng lên, có viền viêm đỏ quanh chân đau ngứa rấm rứt, hoặc nổi thêm một số nốt bên cạnh, nổi hạch ở vùng tương xứng cần kịp thời đi khám bệnh, vì đó là triệu chứng báo hiệu biến chuyển xấu.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai.

Bài viết Các bệnh thay đổi màu da đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-benh-thay-doi-mau-da-4768/feed/ 0
Bệnh bạch biến https://benh.vn/benh-bach-bien-3428/ https://benh.vn/benh-bach-bien-3428/#respond Sat, 01 Sep 2018 13:35:58 +0000 http://benh2.vn/benh-bach-bien-3428/ Bệnh bạch biến là một bệnh lý biểu hiện ngoài da với tổn thương cơ bản là các mảng trắng, kích thước khoảng vài mm sau đó to dần ra (có thể từ từ hoặc rất nhanh), có giới hạn rõ, khuynh hướng phát triển ra ngoại vi và liên kết với nhau.

Bài viết Bệnh bạch biến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh bạch biến là một bệnh lý biểu hiện ngoài da với tổn thương cơ bản là các mảng trắng, kích thước khoảng vài mm sau đó to dần ra (có thể từ từ hoặc rất nhanh), có giới hạn rõ, khuynh hướng phát triển ra ngoại vi và liên kết với nhau.

Da bị bệnh bạch biến

Đại cương

Là một bệnh da mất sắc tố mãn tính, lành tính, không lây, nguyên nhân rất phức tạp, điều trị còn nhiều khó khăn làm ảnh hưởng về tâm lý bệnh nhân khi tiếp xúc với cộng đồng xã hội.

Bệnh chiếm từ 1 – 4% dân số, xuất hiện ở mọi lứa tuổi ( sơ sinh, tuổi trẻ hoặc người cao tuổi), cả 2 giới (tỷ lệ nam = nữ) và ở mọi chủng tộc.

Lâm sàng

Vị trí tổn thương: gặp ở bất kỳ vùng da nào trên cơ thể, nhưng hay thấy ở vùng bán niêm mạc: môi, mi mắt, sau đó là ở mặt, cổ, người và đầu mút tay hoặc chân.

Tổn thương cơ bản là các dát trắng, kích thước khoảng vài mm sau đó to dần ra (có thể từ từ hoặc rất nhanh), có giới hạn rõ, khuynh hướng phát triển ra ngoại vi và liên kết với nhau. Hình dạng tổn thương là hình tròn, hình vòng tròn, rất hiếm biểu hiện thành vạch (dấu hiệu Koebner), ở ranh giới tổn thương có viền sắc tố. Lông tóc ở vùng da tổn thương thường cũng bị mất sắc tố. Nhiễm sắc quanh nang lông ở trong dát trắng có thể là do nhiễm sắc còn sót lại hoặc là nhiễm sắc được tái lại trong quá trình điều trị. Có thể gặp phản ứng viêm trong bệnh bạch biến, tổn thương trở nên rát, ngứa và hồng đỏ. Bệnh tiến triển lan rộng từ từ hoặc xuất hiện ở vùng da lành khác.

Bệnh nhân không có triệu chứng chủ quan gì đặc biệt (không mất cảm giác đau, nóng, lạnh).

Một vài thể lâm sàng thường gặp:

Thể khu trú (Localized type) tổn thương là một hoặc nhiều dát trắng ở những vị trí độc lập.

Thể đứt đoạn ( Segmental) tổn thương là các dát trắng tạo thành một dải thường xuất hiện dọc theo dây thần kinh cảm giác.

Thể lan toả (Generalized type) tổn thương phân bố rộng rãi liên kết với nhau tạo thành hình vằn vèo và thường đối xứng hai bên cơ thể.

Thể đầu chi hoặc ở mặt ( Acral or Acro- facial type) tổn thương khu trú ở đầu chi như mu ngón tay, ngón chân, có thể kết hợp với tổn thương ở quanh miệng và mắt.

Tiến triển

Bệnh xuất hiện đột ngột sau một chấn thương, xúc cảm mạnh hoặc sau một đợt phơi nắng và tiến triển rất thất thường (xu hướng tăng về mùa hè, có thể ổn định hàng năm hoặc vĩnh viễn, rất hiếm có trường hợp tự khỏi).

Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán

Dựa vào hình ảnh lâm sàng tổn thương là các dát trắng, nếu có lông tóc ở vùng da tổn thương cũng mất sắc tố ( đây là dấu hiệu quý để khẳng định chẩn đoán).

Triệu chứng chủ quan: không bị rối loạn (có thể khi phơi nắng tổn thương hơi hồng lên, rát và ngứa nhẹ).

Chẩn đoán phân biệt

Bạch tạng.

Phong bất định.

Lang ben.

Di chứng sau một số bệnh ngoài da như zona, vẩy nến…

Điều trị

Là một bệnh khó điều trị, kết quả thất thường, thường áp dụng một trong các biện pháp sau đây:

Giải thích cho bệnh nhân không mặc cảm với bệnh tật, chống tự ti ngại tiếp xúc , dùng các mỹ phẩm để xoá tổn thương khi cần giao tiếp.

Dùng dung dịch phá cố chỉ để bôi và uống cho bệnh nhân.

Dùng meladinin 10 mg. Uống 2 viên/ 1lần/ ngày, sau uống 5 – 10 phút cần phơi nắng hoặc chạy tia tử ngoại.

Dung dịch meladinin bôi vào tổn thương, sau bôi 3-5 phút cũng phơi nắng hoặc kết hợp điều trị tia tử ngoại.

Dùng dung dịch melagenina bôi vào tổn thương, sau khi bôi 3 – 5 phút cũng nên phơi nắng.

Benh.vn

Bài viết Bệnh bạch biến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-bach-bien-3428/feed/ 0
Các phương pháp điều trị bệnh Bạch biến https://benh.vn/cac-phuong-phap-dieu-tri-benh-bach-bien-7489/ https://benh.vn/cac-phuong-phap-dieu-tri-benh-bach-bien-7489/#respond Tue, 12 Sep 2017 06:22:10 +0000 http://benh2.vn/cac-phuong-phap-dieu-tri-benh-bach-bien-7489/ Bệnh Bạch biến là một bệnh da lành tính, không ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe chung nhưng làm mất thẩm mỹ. Bệnh Bạch biến có thể xảy ra khắp nơi, không phân biệt tuổi, giới tính hay chủng tộc, chiếm tỉ lệ 1% – 2% dân số thế giới.

Bài viết Các phương pháp điều trị bệnh Bạch biến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh Bạch biến là một bệnh da lành tính, không ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe chung nhưng làm mất thẩm mỹ. Bệnh Bạch biến có thể xảy ra khắp nơi, không phân biệt tuổi, giới tính hay chủng tộc, chiếm tỉ lệ 1% – 2% dân số thế giới.

Bệnh chưa rõ nguyên nhân nhưng nhiều giả thiết cho rằng có thể do các yếu tố tự miễn, tự độc tế bào, di truyền hay thần kinh gây ra.

15%-20% các trường hợp bệnh bạch biến có thể tự khỏi sau một thời gian. Bệnh không nguy hiểm nhưng gây ra những mặc cảm, căng thẳng nghiêm trọng cho người bệnh nên cần được điều trị.

Điều kiện thuận lợi gây khởi phát bạch biến: stress, chấn thương, tiếp xúc với hoá chất (phenol, thiol), phỏng nắng, bệnh tự miễn (rụng tóc từng vùng, bệnh tuyến giáp tự miễn Graves, thiếu máu ác tính, tiểu đường type I, bệnh Addison , viêm gan tự miễn).

Phương pháp điều trị bệnh bạch biến

Mỹ phẩm

Dùng để che phủ sang thương bạch biến khu trú ở mặt, cổ, bàn tay.

Ưu điểm: chi phí thấp, dễ thực hiện, ít tác dụng phụ và có thể giúp tổn thương có màu rất giống màu da thường.

Kem chống nắng SPF>45

Ngăn phỏng nắng vùng da bệnh, giảm tổn hại da do nắng (hiện tượng Koebner), giảm rám nắng vùng da không bệnh chung quanh.

Corticosteroids bôi tại chỗ

a. Đối với các sang thương giới hạn, thường là thuốc đầu tay cho trẻ em

b. Vị trí: mặt – có đáp ứng tốt nhất, cổ, tứ chi (trừ ngón tay, ngón chân)

c. Dùng corticosteroids tác dụng mạnh trong 1-2 tháng đầu, sau đó giảm liều dần bằng corticosteroids yếu hơn

d. Trẻ em và sang thương lớn hơn: dùng corticosteroids tác dụng trung bình. Cẩn thận khi dùng quanh mắt vì thuốc có thể gây tăng nhãn áp.

e. Theo dõi bằng đèn Wood. Nếu không đáp ứng sau 3 tháng điều trị, nên ngưng bôi thuốc tiếp (30%-40% đáp ứng chậm sau 6 tháng).

f. Dễ thoa, dễ tuân thủ, giá rẻ, thích hợp cho các sang thương giới hạn

g. Tái phát sau khi ngưng thuốc. Tác dụng phụ: teo da, dãn mạch, rạn da…cần được theo dõi kỹ.

Một số thuốc và phương pháp cụ thể

1. Corticosteroids tác dụng yếu và trung bình

Tác dụng yếu

Aclometasone diproprionate

Flucinolone acetonide

Desonide

Hydrocortisone

Tác dụng trung bình

Betamethasone dipropionate

Betamethasone valerate

Hydrocortisone valerate

Triamcinolone acetonide

2. Corticosteroids tác dụng mạnh

Amcinonide – Desoximetasone

Betametasone -17- benzoate

Diflorasone diacetate

Fluocinonide – Halcinonide

3. Corticosteroids tác dụng rất mạnh

Augmented betamethasone dipropionate

Clobetasol propionate

Diflorasone diacetate

Halobetasol propionate

4. Điều hòa miễn dịch tại chỗ

a. Tacrolimus ointment 0.03% – 0.1% hay Pimecrolimus 1%, bôi 2 lần/ ngày đặc biệt ở mặt và cổ

b. Hiệu quả hơn khi phối hợp với UVB hay Laser excimer (308nm)

c. An toàn cho trẻ em hơn corticosteroids.

5. Calcipotriol tại chỗ

a. Calcipotriol 0.005%, dễ chấp nhận về mặt thẩm mỹ.

b. Có thể phối hợp corticosteroid tại chổ cho cả người lớn và trẻ em để sắc tố tái tạo nhanh và ổn định hơn.

6. Pseudocatalase phối hợp NB-UVB

a. Da bệnh nhân bạch biến có rất ít catalase là 1 enzyme giúp giảm tổn hại da.

b. Điều trị thay thế bằng pseudocatalase kết hợp với UVB dải sóng hẹp có thể tăng tái tạo sắc tố da và ngăn bệnh tiến triển.

7. Điều trị toàn thân

a. Thuốc ức chế miễn dịch có nhiều tác dụng phụ, ít được chỉ định.

b. Corticosteroids có thể dùng điều trị xung (pulse therapy), giúp ngăn ngừa tình trạng mất sắc tố diễn tiến nhanh.

8. Psoralen + UV A

a. 8-methoxypsoralen + UVA (320-400nm) có tác dụng rất tốt, cần điều trị nhiều tháng. PUVA kích hoạt tyrosinase là 1 enzyme có vai trò tổng hợp melanin.

b. PUVA tại chỗ: áp dụng cho tổn thương bạch biến<20% diện tích da. Psoralen uống: khi sang thương phát triển nhiều hay không đáp ứng với PUVA tại chỗ.

c. Thân, gốc chi, mặt, da đen đáp ứng tốt; tổn thương đầu chi đáp ứng kém

d. Tác dụng phụ: tăng sắc tố vùng da xung quanh sang thương, nhiễm độc da do ánh sáng và ngứa dữ dội.

e. 70% – 80% bệnh nhân có đáp ứng tốt, <20% hồi phục sắc tố hoàn toàn

9. UVB dải sóng hẹp (311nm): (NB – UVB)

a. Lựa chọn đầu, bạch biến có tổn thương rộng lớn đáp ứng hiệu quả -67% hơn PUVA tại chỗ (46%), ngưng nếu không cải thiện sau 6 tháng.

b. 53% trẻ có hồi phục sắc tố >3/4 sau NB-UVB 6 tháng; 6% hồi phục hoàn toàn.

c. Mặt, thân, gốc chi hiệu quả hơn so với đầu chi.

10. Laser Excimer (308nm)

a. Hiệu quả rất tốt nếu chiếu 3 lần/ tuần x 12 tuần, liều đầu 50-100 mJ/cm2

b. Mặt đáp ứng tốt; bàn tay, bàn chân đáp ứng kém

11. Khử sắc tố: (depigmentation)

a. Monobenzyl ether của hydroquinone (Monobenzone) là chất duy nhất làm da bình thường mất dần sắc tố ở bệnh nhân bạch biến nặng.

b. Monobenzone là độc chất phenol, hủy melanocytes thượng bì làm mất sắc tố da khi dùng kéo dài, giúp tạo nên sự đồng nhất màu da dễ chấp nhận về mặt thẩm mỹ đối với các bệnh nhân có sự tương phản rõ rệt giữa da bệnh với da lành chung quanh .

c. Dạng bào chế: cream 20% – 40%.

d. Tránh tiếp xúc trực tiếp với người khác 1 giờ sau khi bôi thuốc vì có thể làm tổn hại cho da người tiếp xúc.

e. Monobenzone làm da bị kích thích và có thể gây phản ứng mẫn cảm.

12. Ghép mỏng tự thân Thiersch

a. Dùng dao mổ hay dao lóc da mỏng để bào da vùng cho.

b. Diện tích da mất sắc tố điều trị mỗi lần: 6-100cm2, có thể ghép vùng da rộng để rút ngắn thời gian điều trị. Thường cho kêt quả tốt đối với trường hợp bạch biến ở môi

c. Bất tiện: Gây mê toàn thân, có thể gây sẹo phì đại cả vùng da cho và nhận.

13. Ghép tự thân Mini- punch

a. Khoan vùng da cho-nhận nhỏ 1.20mm – 1.25mm , cách nhau 4-5mm, không làm mất thẩm mỹ, cung cấp lượng tế bào hắc tố vừa đủ để kích thích sự tái tạo sắc tố.

14. Ghép melanocytes tự thân nuôi cấy

a. Điều trị bạch biến có sang thương lớn bằng cách ghép tế bào hắc tố được nuôi cấy từ những mẫu da cho trong phòng thí nghiệm.

b. Kỹ thuật phức tạp, giá thành đắt, khó thực hiện.

15. Điều trị dự phòng

a. Không có thuốc phòng ngừa bạch biến.

b. Corticosteroids dùng toàn thân hay Pseudocatalase tại chỗ có thể làm chậm sự mất sắc tố ở một số bệnh nhân bị bạch biến đang tiến triển.

Benh.vn (Theo Bs. Lê Đức Thọ)

Bài viết Các phương pháp điều trị bệnh Bạch biến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-phuong-phap-dieu-tri-benh-bach-bien-7489/feed/ 0