Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Fri, 07 Apr 2023 06:46:45 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Bệnh học bệnh Crohn https://benh.vn/benh-hoc-benh-crohn-5424/ https://benh.vn/benh-hoc-benh-crohn-5424/#respond Thu, 06 Apr 2023 05:23:39 +0000 http://benh2.vn/benh-hoc-benh-crohn-5424/ Bệnh Crohn là một bệnh viêm mãn tính của ruột. Bệnh chủ yếu gây ra loét trong lớp niêm mạc của ruột non và ruột già, nhưng có thể ảnh hưởng đến hệ thống tiêu hóa bất cứ nơi nào từ miệng đến hậu môn. Bệnh này cũng được gọi là u hạt ruột hoặc viêm đại tràng, viêm ruột khu vực, viêm manh tràng.

Bài viết Bệnh học bệnh Crohn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh Crohn là một bệnh viêm mãn tính của ruột. Bệnh chủ yếu gây ra loét trong lớp niêm mạc của ruột non và ruột già, nhưng có thể ảnh hưởng đến hệ thống tiêu hóa bất cứ nơi nào từ miệng đến hậu môn. Bệnh được đặt tên theo bác sĩ đã mô tả bệnh vào năm 1932. Bệnh này cũng được gọi là u hạt ruột hoặc viêm đại tràng, viêm ruột khu vực, viêm manh tràng. Cho tới nay chưa ai biết nguyên nhân gây bệnh, việc điều trị bệnh Crohn tập trung làm giảm triệu chứng thay vì điều trị nguyên nhân gây ra bệnh.

Tổn thương đường ruột nghiêm trọng khi bị bệnh Crohn

Hình ảnh đại thể

Bệnh Crohn có đặc tính là viêm mạn lan rộng, có thể gặp tổn thương bất cứ nơi nào của ống tiêu hóa: từ khoang miệng tới hậu môn. Có khoảng 30-40% tổn thương đơn độc ở ruột non, 45-55% tổn thương phối hợp cả ruột non và đại tràng và chỉ gặp 15-25% chỉ tổn thương ở đại tràng. Trong số 75% bệnh nhân bị tổn thương ruột non thì gặp 90% các trường hợp tổn tương ở đoạn cuối hồi tràng. Tổn thương trực tràng ít gặp trong bệnh Crohn, đây là đặc điểm có giá trị giúp phân biệt với viêm loét đại trực tràng chảy máu, tuy nhiên tổn thương ống hậu môn gặp ở 1/3 các trường hợp Crohn. Crohn cũng có thể gặp tổn thương ở gan, tụy.

Tổn thương viêm có thể gặp ở tất cả các lớp của thành ruột và làm tổn thương mạc treo ruột cũng như các hạch bạch huyết trong vùng. Quá trình bệnh lý cơ bản là giống nhau dù là ở ruột non hay ở đại tràng.

Các đoạn ruột bị bệnh được phân cách bằng ranh giới rõ với phần ruột bình thường kế cận, vì thế nên có tên gọi là “viêm đoạn” hồi tràng. Các u hạt biểu mô kiểu sacôm ở thành ruột và đôi khi trong các hạch của mạc treo ruột bị bệnh là nét đặc trưng của bệnh, nhưng vì các u hạt này không xuất hiện ở một nửa số bệnh nhân nên đấy không là điều thiết yếu để chẩn đoán bệnh.

Hình thái vi thể

Về mô học, cũng như đại thể, bệnh Crohn có những đoạn đại tràng viêm xen kẽ với những đoạn đại tràng lành (tổn thương nhảy cóc)

Chẩn đoán bệnh Crohn trên các bệnh phẩm sinh thiết có thể gặp khó khăn do nhiều đặc điểm tổn thương của bệnh nằm ở vị trí kìm sinh thiết không với đến được.

Hầu hết những bất thường của niêm mạc không đặc hiệu khi đánh giá chúng độc lập và chẩn đoán bệnh phải dựa trên sự đánh giá tổng hợp những bất thường, hình ảnh gián đoạn giữa những mẫu xét nghiệm được lấy từ cùng một vùng và tích chất cách đoạn này phân bố theo suốt các mảnh mô. Những mẫu sinh thiết lấy từ cùng một vùng thường có hình thái khác nhau, bình thường, viêm, hay loét có thể xem kẽ. Thông thường, chẩn đoán bệnh cần kết hợp giữa lâm sàng, hình ảnh nội soi đại tràng và mô bệnh học của nhiều mảnh sinh thiết lấy từ những vùng riêng biệt xác định của đại tràng bởi vì viêm loét đại trực tràng chảy máu đã điều trị có thể có hình thái giống bệnh Crohn chưa điều trị.

Các tổn thương trong bệnh Crohn

– Tình trạng viêm: ổ viêm có thể là sự pha trộn hoặc chiếm ưu thế của lympho bào và tương bào, bạch cầu trung tính hay u hạt. Sự khác nhau về thành phần tế bào nổi trội giữa các ổ viêm trong niêm mạc tạo nên tính không đồng nhất của bệnh Crohn.

– Lympho bào và tương bào: tính hỗn tạp về đậm độ và phân bố của viêm lypho – tương bào là dấu hiệu phân biệt về hình thái của bệnh Crohn. Vùng mô bình thường có thể liên tiếp đột ngột với những đoạn viêm dày đặc lympho, tương bào. Những mảng viêm nhỏ chủ yếu là lympho, tương bào thường bị chia cắt bởi những vùng niêm mạc bị phù, ít tế bào. Trong bệnh Crohn, các lympho bào có thể tập trung thành nang với trung tâm là một hoặc một số tuyến; khác với nang lympho trong niêm mạc bình thường, các tuyến bị đẩy ra vùng rìa của nang.

– Bạch cẩu trung tính: Bạch cầu trung tính trong bệnh Crohn cũng tập trung thành mảng. Chúng có thể hòa trộn với vùng viêm có nhiều lympho, tương bào những cũng có thể là thành phần tế bào chiếm ưu thế trong vùng niêm mạc khác. Nếu bạch cầu trung tính là thành phần tế bào ưu thế, chúng thường tập trung ở vùng đáy của mô đệm, xung quanh hay xâm nhập một phần vào đáy tuyến tạo hình đám nhân vỡ.

– U hạt: Có hai loại u hạt.

  • U hạt quanh tuyến (pericryptal microgranulomas) là hiện tượng tập trung các mô bào thành những ổ nhỏ xung quanh ống tuyến. Tổn thương này phân bố thành từng đoạn gợi ý bệnh Crohn nhưng thỉnh thoảng cũng có thể gặp trong viêm loét đại trực tràng chảy máu và những bệnh viêm đại tràng khác. Không nên chỉ sử dụng một tiêu chuẩn này để chẩn đoán bệnh Crohn. Trong trường hơp bệnh Crohn điển hình, vi u hạt quanh tuyến thường hòa lẫn với những vùng viêm có nhiều lympho, tương bào tập trung thành mảng và thường hiếm bạch cầu trung tính. Sinh thiết cách đoạn theo thứ tự có thể làm tăng khả năng thấy được những vi u hạt xung quanh ống tuyến.
  • Một u hạt không có hoại tử hoàn chỉnh thường nằm ở dưới niêm mạc, nhưng thỉnh thoảng có thể gặp ở lớp niêm mạc. Có thể chẩn đoán được bệnh Crohn nếu tìm thấy chúng trên niêm mạc binh thường qua nội soi. Các mạch máu thành dày, những mảng nguyên bào sợi xung quanh tuyến, mặt cắt qua tiếp tuyến trung tâm sinh sản có thể giống với một u hạt hoàn chỉnh của bệnh Crohn.

– Tổn thương tuyến và loét: tổn thương tuyến bệnh Crohn hoạt động thường không phải là một tổn thương đồng nhất, phá hủy tuyến rộng và những tuyến tái tạo có hình dạng rõ như thường thấy trong viêm loét đại trực tràng chảy máu. Trong bệnh Crohn, có một hay vài tuyến ở vùng tiếp giáp với vùng bình thường bị viêm, giảm chế nhầy. Các tuyến tổn thương do các tế bào bạch cầu đa nhân trung tính xâm nhập một phần tuyến và chỉ tế bào biểu mô nằm gần sát trung tâm tuyến tổn thương mới giảm tiết.

Số lượng ổ loét tiến triển tỷ lệ thuận với độ hoạt động, tổn thương tế bào hiểu mô phủ và tuyến. Có hai loại loét điển hình – loét áp tơ (aphthous ulcer) và loét có khe nứt (fissuring ulcer).

  • Loét áp tơ thường thấy trong bệnh Crohn hoạt động nhẹ, khu trú. Chúng thường nhỏ, giới hạn rõ, ở bề mặt; chúng phát riển từ những đám lympho bào. Giai đoạn sớm nhất là xâm nhập rải rác các bạch cầu đa nhân trung tính ở nửa trên đám lympho. Các bạch cầu đa nhân trung tính xâm nhâp tuyến và tạo nên áp xe khe tuyến ở đáy, gây hủy hoại biểu mô và tiết dịch trong lòng đại tràng. Hiện tượng xâm nhập đồng thời của các bạch cầu đa nhân trung tính và trợt biểu mô phủ tao nên những vi áp xe nhỏ bao lấy những mảng lympho bào khi ổ loét mở rộng. Các tuyến hình thái bất thường với những tế bào biểu mô tái tạo gặp ở rìa những ổ loét cũ đã hồi phục. Loét áp tơ có thể mở rộng, nối với nhau tạo hình ảnh da báo (serpiginous) hay những vết loét theo chiều dài.
  • Loét dạng vết nứt có thể xuyên qua toàn bộ thành ruột. Sinh thiết từ nhú và thành đại tràng thường có mô hạt viêm không đặc hiệu và những mảnh vụn fibrin, Nhiều tế bào viêm tập trung thành đám gợi ý giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành mô hạt. Những ổ loét này có giá trị phân biệt giữa bệnh Crohn và viêm loét đại trực tràng chảy máu.

– Cấu trúc tuyến lộn xộn và biến dạng: vùng niêm mạc viêm, phù, loét áp tơ và tổn thương tuyến khu trú cùng gây nên sự phân bố bất thường của tuyến trong mô đệm.

Kích thước tuyến thay đổi cũng làm các tuyến sắp xếp lộn xộn. Chỉ điểm của tổn thương mạn tính chính là biến dạng do tuyến viêm lâu ngày nên lòng tuyến phân nhánh và ngắn lại. Các tuyến sắp xếp lộn xộn xuất hiện trong bất cứ giai đoạn nào của bệnh Crohn và là bằng chứng của tình trạng viêm mạn tính. Cũng giống như viêm loét đại trực tràng chảy máu, viêm mạn tính chỉ có thể khẳng định khi thấy các thành phần dị sản hay tuyến lộn xộn.

Các biến thể của bệnh

Viêm đại tràng Crohn mạn tính (chronic crohn’s colitis)

Hình thái của tuyến viêm mạn tính khá quan trọng trong chẩn đoán bệnh Crohn do những típ viêm đại tràng khác có thể có hình thái giống với viêm đại tràng hoạt động. Tuy nhiên, chứng minh tính mạn tính trong Crohn đại tràng có thể khó khăn do các tuyến ngắn và phân nhánh thường khu trú, các tuyến phân nhánh đơn độc có thể phân bố rải rác trong vùng niêm mạc lành. Dị sản tế bào Paneth, tuyến nhầy là những chỉ điểm của tính chất mạn tính, thường xuất hiện trong Crohn đại tràng hơn là viêm loét đại trực tràng chảy máu. Ít gặp tế bào Paneth ở đại tràng từ đoạn xa đến đại tràng góc gan, nếu tìm thấy chúng ở đây nên xem như tình trạng dị sản. Dị sản tuyến nhầy (tuyến hang vị) rất hay gặp ở manh tràng và đại tràng phải.

Bệnh crohn đại tràng bề mặt (supeficial crohn’s colitis)

Đôi khi, tình trạng viêm trong Crohn đại tràng chỉ giới hạn ở niêm mạc, rất giống với viêm loét đại trực tràng chảy máu. Chẩn đoán trong những trường hợp này phải dựa vào tổn thương điển hình của bệnh ở những vị trí khác của đại tràng, ruột non. Bệnh Crohn đại tràng bề mặt thường ít gặp. Tình huống hay gặp hơn là các mảng bệnh phẩm không đạt tiêu chuẩn cho hình ảnh giống với Crohn  đại tràng bề mặt.

Bảng 1.1. Phân loại Vienna đã chia bệnh Crohn dựa trên 3 yếu tố: tuổi, vị trí tổn thương và thái độ xử trí.

Tuổi

(Age at diagnosis)

A1

< 40

A2

≥ 40

 

Vị trí

(Location)

L1

Đoạn cuối hồi tràng

L2

Đại tràng

L3

Hồi tràng – đại tràng

L4

Đường tiêu hóa trên

Thái độ xử trí

(Behavior)

B1

Không hẹp, không thủng (dò)

B2

Hẹp

B3

Thủng

Vienna Classification of Crohn’s Disease

Bảng 1.2: Đặc điểm MBH giúp phân biệt VLĐTTCM, Crohn, viêm đại tràng nhiễm khuẩn

Đặc điểm

VLĐTTCM

Crohn

Viêm ĐTNK

Tổn thương lan tỏa

+

±

±

Tổn thương ổ, cục bộ

+

+

Niêm mạc và cấu trúc bất thường

+

±

±

Mất chất nhầy

Lan tỏa

Từng ổ

Từng ổ

Tương bào ở lớp đáy

Lan tỏa

Từng ổ

Từng ổ

BCĐNTT trên mô đệm

+

Hiếm có

U hạt

+

Viêm dưới niêm mạc

±

Hiếm có

Tổn thương lớp cơ

+

Hiếm có

MBH = mô bệnh học; VLĐTTCM =- viêm loét đại trực tràng chảy máu, ĐTNK = Đại tràng nhiễm khuẩn; (+): thường gặp; (±): có thể gặp; (-): không gặp

Yếu tố thúc đẩy bệnh

– Thuốc lá: nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của thuốc lá ảnh hưởng tới tiến triển bệnh Crohn. Đã có những bằng chứng lâm sàng chỉ ra thuốc lá là một trong yếu tố thúc đẩy bệnh và những bệnh nhân bị bệnh Crohn có hút thuốc lá không những tiên tượng tồi hơn so với nhóm không hút thuốc lá mà còn gặp những biến chứng nặng hơn so với nhóm bệnh nhân không hút thuốc lá. Do đó bệnh nhân bị bệnh Crohn phải từ bỏ thuốc.

– Vi khuẩn: nhiễm khuẩn liên quan đến sự khởi phát hay đợt tái phát của bệnh. Bệnh tái phát thường liên quan đến nhiễm trùng đường ruột bao gồm: Clostridium dificile, E. coli, Samonella, Shigella Campylobacter.

– Tâm lý: Căng thẳng về thể lực, stress về tinh thần, hoạt động tình dục quá mức cũng là yếu tố góp phần làm nặng bệnh.

Bài viết Bệnh học bệnh Crohn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-hoc-benh-crohn-5424/feed/ 0
Điều trị bệnh Crohn https://benh.vn/dieu-tri-benh-crohn-3119/ https://benh.vn/dieu-tri-benh-crohn-3119/#respond Tue, 03 Jul 2018 04:27:13 +0000 http://benh2.vn/dieu-tri-benh-crohn-3119/ Bệnh Crohn là một bệnh viêm mãn tính của ruột. Bệnh chủ yếu gây ra loét trong lớp niêm mạc của ruột non và ruột già, nhưng có thể ảnh hưởng đến hệ thống tiêu hóa bất cứ nơi nào từ miệng đến hậu môn. Bệnh này cũng được gọi là u hạt ruột hoặc viêm đại tràng, viêm ruột khu vực, viêm manh tràng. Cho tới nay, chưa rõ

Bài viết Điều trị bệnh Crohn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh Crohn là một bệnh viêm mãn tính của ruột. Bệnh chủ yếu gây ra loét trong lớp niêm mạc của ruột non và ruột già, nhưng có thể ảnh hưởng đến hệ thống tiêu hóa bất cứ nơi nào từ miệng đến hậu môn. Bệnh này cũng được gọi là u hạt ruột hoặc viêm đại tràng, viêm ruột khu vực, viêm manh tràng. Cho tới nay, chưa rõ nguyên nhân chính xác gây ra bệnh là gì do đó các biện pháp điều trị chủ yếu tập trung giảm triệu chứng bệnh.

Hình ảnh ruột tổn thương trong bệnh Crohn (ảnh jamanetwork.com)

Làm thế nào để điều trị bệnh Crohn?

Các triệu chứng và mức độ nặng của bệnh Crohn khác nhau tùy thuộc từng bệnh nhân. Bệnh nhân có triệu chứng nhẹ hoặc không có thể không cần điều trị. Bệnh nhân ở giai đoạn bệnh thuyên giảm (hết triệu chứng) cũng có thể không cần điều trị.

Thuốc bệnh Crohn

Không có thuốc đặc hiệu có thể chữa khỏi bệnh Crohn. Bệnh nhân bị bệnh Crohn thường sẽ trải qua giai đoạn tái phát (nặng lên của tình trạng viêm) tiếp theo là giai đoạn thuyên giảm (giảm bớt viêm) kéo dài từ vài tháng đến nhiều năm. Trong quá trình tái phát, các triệu chứng của đau bụng, tiêu chảy, chảy máu trực tràng sẽ nặng hơn. Trong thời gian thuyên giảm, các triệu chứng được cải thiện. Thuyên giảm thường xảy ra do điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật, nhưng đôi khi chúng xảy ra một cách tự nhiên mà không cần bất kỳ sự điều trị nào.

Vì không có chữa bệnh cho bệnh Crohn, mục tiêu của điều trị là:

1) Làm thuyên giảm bệnh

2) Duy trì sự thuyên giảm

3) Giảm thiểu tác dụng phụ của điều trị

4) Cải thiện chất lượng cuộc sống.

Điều trị bệnh Crohn và viêm loét đại tràng với các thuốc tương tự nhau mặc dù không phải luôn luôn giống hệt nhau.

Các thuốc để điều trị bệnh Crohn

Chống viêm chẳng hạn như các hợp chất 5-ASA, các corticosteroid, thuốc kháng sinh, và ức chế miễn dịch.

Lựa chọn của các phác đồ điều trị phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng bệnh, vị trí bệnh và các biến chứng liên quan đến bệnh. Nhiều hướng dẫn khuyến cáo rằng phương pháp tiếp cận có trình tự ban đầu để gây giảm triệu chứng lâm sàng và sau đó để duy trì sự thuyên giảm này. Bằng chứng ban đầu đánh giá sự cải thiện điều trị được thấy trong vòng 2-4 tuần và cải thiện tối đa nên được nhận thấy trong 12 đến 16 tuần.

Phương pháp cổ điển để điều trị trong bệnh Crohn là phương pháp “tăng dần” tiếp cận bắt đầu với các thuốc chỉ định cho bệnh nhẹ sau đó sẽ điều trị ngày càng tăng hơn khi bệnh nặng hơn. Gần đây các vấn đề đã được chuyển hướng với cách tiếp cận “từ trên xuống” mà có thể làm giảm tiếp xúc với các tác nhân chống viêm và gia tăng tiếp xúc với các yếu tố tăng cường lành niêm mạc và có thể ngăn ngừa trong tương lai các biến chứng bệnh.

Có một số chất bổ sung, chế độ ăn uống cho bệnh Crohn?

Chế độ ăn uống thay đổi, bổ sung có thể giúp kiểm soát mức độ bệnh Crohn.

Vì chất xơ là kém tiêu hóa, nó có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng của tắc ruột. Do đó, nên có một chế độ ăn uống ít chất xơ, đặc biệt là ở những bệnh nhân bị bệnh đường ruột hẹp.

Chế độ ăn uống lỏng có thể sẽ tốt hơn khi các triệu chứng nặng lên.

Dinh dưỡng đường tĩnh mạch hoặc dinh dưỡng toàn phần có thể được áp dụng khi cảm thấy rằng cần phải cho ruột được “nghỉ ngơi.”

Bổ sung canxi, folate và vitamin B12 là cần thiết khi có tình trạng kém hấp thu các chất dinh dưỡng.

Việc sử dụng các tác nhân chống tiêu chảy (diphenoxylate và atropine) Lomotil, Loperamide (Imodium) và antispasmotics cũng có thể giúp làm giảm các triệu chứng chuột rút và tiêu chảy.

Các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến bệnh Crohn

Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nghiện hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ cho bệnh Crohn và hút thuốc thụ động cũng có thể đóng góp để tiên lượng bệnh xấu hơn. Vì vậy, cần được tư vấn cai nghiện thuốc lá cho các bệnh nhân Crohn.

Loãng xương có mật độ xương giảm đáng kể cũng đã ngày càng được công nhận là một vấn đề ảnh hưởng quan trọng tới sức khỏe ở những bệnh nhân bị bệnh viêm ruột. Sàng lọc với một nghiên cứu mật độ xương được khuyến cáo ở phụ nữ sau mãn kinh, đàn ông trên 50 tuổi, bệnh nhân có sử dụng corticoid kéo dài (> 3 tháng liên tục hoặc các đợt thường xuyên), bệnh nhân có tiền sử gãy xương, sau chấn thương với chấn thương tối thiểu. Hầu hết các bệnh nhân bị bệnh viêm ruột nên uống bổ xung canxi và vitamin D.

Benh.vn

Bài viết Điều trị bệnh Crohn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/dieu-tri-benh-crohn-3119/feed/ 0
Các biến chứng và tiên lượng của bệnh Crohn https://benh.vn/cac-bien-chung-va-tien-luong-cua-benh-crohn-5426/ https://benh.vn/cac-bien-chung-va-tien-luong-cua-benh-crohn-5426/#respond Fri, 04 May 2018 05:23:41 +0000 http://benh2.vn/cac-bien-chung-va-tien-luong-cua-benh-crohn-5426/ Bệnh Crohn có thể gây ra các biến chứng toàn thân, tại chỗ như áp xe, lỗ rò, chít hẹp ống tiêu hóa như đã mô tả ở trên. Ngoài ra, thủng, giãn phình đại tràng nhiễm độc và ung thư ruột có thể gặp. Đây đều là những biến chứng nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời có thể nguy hiểm tới tính mạng.

Bài viết Các biến chứng và tiên lượng của bệnh Crohn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh Crohn có thể gây ra các biến chứng toàn thân, tại chỗ như áp xe, lỗ rò, chít hẹp ống tiêu hóa như đã mô tả ở trên. Ngoài ra, thủng, giãn phình đại tràng nhiễm độc và ung thư ruột có thể gặp. Đây đều là những biến chứng nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời có thể nguy hiểm tới tính mạng.

Một số biến chứng toàn thân

No Nhóm biến chứng Biểu hiện
1 Dinh dưỡng và chuyển hóa Sụt cân, giảm khối lượng có, chậm phát triển

Thiếu hụt điện giải và các yếu tố vi lượng

Giảm albumin máu

Thiếu máu: do mất hoặc thiếu nguyên liệu

Hội chứng kém hấp thu, sỏi thận, sỏi mật

2 Cơ xương khớp Đau khớp ngoại vi, viêm khớp

Viêm cột sống dính khớp, viêm cơ u hạt

3 Bệnh gan mật Gan nhiễm mỡ

Sỏi mật quản: thiếu hụt muối mật…

Viêm quanh mật quản, viêm xơ đường mật

Ung thư đường mật

4 Da và niêm mạc Viêm da mủ hoại tử

Viêm loét miệng họng dạng áp tơ

Viêm niêm mạc miệng, lợi, âm đạo

5 Mắt Viêm mống mắt, viêm màng mạch nho
6 Huyết khối Huyết khối tĩnh mạch do tình trạng tăng đông

Thủng ruột

Biểu hiện gồm đau bụng đột ngột, đau lan ra khắp bụng, nhanh chóng rơi vào tình trạng viêm phúc mạc. Gõ mất vùng đục trước gan. Chụp bụng không chuẩn bị có khí tự do trong ổ bụng, liềm hơi dưới có hoành khi chụp bụng không chuẩn bị tư thế đứng. Xử trí ngoại khoa ngay tức thì.

Giãn phình đại tràng nhiễm độc

Thường gặp trong viêm loét đại trực tràng chảy máu hơn trong bệnh Crohn. Đây là biến chứng phản ánh tình trạng nặng của bệnh. Có thể là hậu quả của các ổ loét lớn, sâu, rộng có kèm theo tổn thương thần kinh – cơ dẫn đến hiện tượng giãn phình đại tràng. Cũng có thể là hậu quả của việc sử dụng một cách thiếu thận trọng các thuốc làm giảm vận động hệ thống thần kinh tự động của ruột như: codein, diphenoxylat, loperamid, cồn long não, thuốc phiên, thuốc kháng tiết cholin để điều trị tiêu chảy nhiều lần có thể thúc đẩy biến chứng này. Cũng tương tự như vậy, thuốc tẩy và thụt Baryt cũng như giảm kali huyết thêm vào có thể là những yếu tố góp phần xuất hiện biến chứng này. Biểu hiện lâm sàng là triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc. Cần nghĩ tới biến chứng này khi có 3 trong các dấu hiệu sau:

  • Sốt > 38,6oC
  • Mạch > 120 chu kỳ/phút
  • Bạch cầu máu > 10G/l
  • Thiếu máu < 60% giá trị bình thường
  • Albumin máu < 30g/l

Kèm theo 1 trong các dấu hiệu sau:

  • Ỉa lỏng
  • Rối loạn điện giải
  • Tụt áp
  • Biến đổi về tinh thần

Chụp X quang bụng không chuẩn bị: Đại tràng giãn > 6cm, có thể có không khí trong thành ruột kết và các đảo niêm mạc bị loét. Đại tràng ngang là nơi thường bị nhất.

Ung thư ruột

Nguy cơ ung thư biểu mô có tỷ lệ mắc tăng ở những bệnh nhân bị bệnh ruột viêm. Nguy cơ tích lũy bị ung thư bắt đầu tăng lên 10 năm sau khi bệnh được chẩn đoán. Tính ác tính phát triển ở bệnh Crohn ở ruột kết hoặc ở ruột non tăng so với cộng đồng dần chúng nói chung như nó thấp hơn so với nhóm bệnh nhân viêm loét đại trực tràng chảy máu.

Benh.vn

Bài viết Các biến chứng và tiên lượng của bệnh Crohn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-bien-chung-va-tien-luong-cua-benh-crohn-5426/feed/ 0
Lao ruột https://benh.vn/lao-ruot-3015/ https://benh.vn/lao-ruot-3015/#respond Wed, 04 Apr 2018 04:25:22 +0000 http://benh2.vn/lao-ruot-3015/ Lao ruột là một bệnh nhiễm khuẩn đường ruột rất phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau. Lao ruột là bệnh truyền nhiễm và cần có sự kiểm soát y tế chặt chẽ. Khi bị lao ruột, nhiễm trùng xảy ra tại hạch bạch huyết và tại ruột.

Bài viết Lao ruột đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Lao ruột là một bệnh nhiễm khuẩn đường ruột rất phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau. Lao ruột là bệnh truyền nhiễm và cần có sự kiểm soát y tế chặt chẽ. Khi bị lao ruột, nhiễm trùng xảy ra tại hạch bạch huyết và tại ruột.

Đại cương

Lao ruột thường gặp là lao thứ phát sau lao phổi, lao thực quản, lao họng hầu lao màng bụng.

Lao ruột tiên phát chỉ xảy ra khi vi khuẩn lao xâm nhập cơ thể bằng đường tiêu hoá được khu trú ở ngay ruột, sau đó vi khuẩn lao mới xâm nhập sang các cơ quan khác (ít gặp).

Đường xâm nhập của vi khuẩn lao đến ruột:

– Chủ yếu bằng đường tiêu hoá: do nuốt phải đờm, dãi, chất nhầy có chứa vi khuẩn lao.

– Các đường khác:

+ Đường máu, đường bạch mạch, đường mật.

+ Do tiếp giáp: lao màng bụng…

+ Tổn thương giải phẫu bệnh lao ruột

– Đại thể:

+ Viêm loét có nhiều ổ, ổ loét tạo nên do sự phá huỷ của chất bã đậu của các hạt lao, củ lao (thường gặp lao ruột non).

+ U lao (thường khu trú ở đoạn hồi manh tràng)

+ Hẹp ruột (thường gặp ở đoạn cuối của hồi manh tràng)

– Vi thể: thấy các nang lao

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng

1. Các triệu chứng thời kỳ khởi phát:

a. Toàn thân:

– Gầy nhanh, xanh xao

– Mệt mỏi, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm.

b. Triệu chứng về tiêu hoá:

– Đi ngoài phân lỏng ngày 2-3 lần, phân sền sệt, thối. Đi lỏng kéo dài, dùng các thuốc cầm ỉa không có tác dụng. Có thể xen kẽ ỉa lỏng với táo bón, có khi khỏi vài ngày lại tái phát.

– Đau bụng: đau bụng âm ỉ, không có vị trí cố định, khi đau bụng thường mót đi ngoài,đi ngoài được thì dịu đau. Đau bụng thường có sôi bụng kèm theo.

2. Các triệu chứng thời kỳ toàn phát:

Thời kỳ bệnh toàn phát biểu hiện triệu chứng khác nhau tùy theo thể bệnh:

a. Thể loét tiểu tràng, đại tràng:

– Bệnh nhân đau bụng nhiều, sốt cao, ỉa lỏng kéo dài.

– Bụng hơi to, có nhiều hơi, sờ bụng không thấy gì đặc biệt.

– Phân loãng, mùi hôi thối, màu vàng, có lẫn mủ, nhầy và ít máu.

– Suy kiệt nhanh, xanh xao, biếng ăn. Có bệnh nhân sợ ăn vì ăn vào thì lại đau bụng, ỉa lỏng.

b. Thể to – hồi manh tràng:

– Bệnh nhân hết ỉa lỏng lại ỉa táo, phân lẫn máu nhầy mủ, không bao giờ phân bình thường.

– Nôn mửa và đau bụng.

– Khám hố chậu phải thấy u mềm, ấn đau di động ít.

c. Thể hẹp ruột:

– Sau khi ăn thấy đau bụng tăng lên .

– Đồng thời bụng nổi lên các u cục và có dấu hiệu rắn bò.

– Sau 10-15 phút nghe có tiếng hơi di động trong ruột và cảm giác hơi đi qua chỗ hẹp, có dấu hiệu Koenig.

– Khám bụng ngoài cơn đau không thấy dấu hiệu gì.

Triệu chứng xét nghiệm

1. Xét nghiệm máu:

– Bạch cầu lim pho tăng cao.

– Tốc độ lắng máu tăng.

2. Các xét nghiệm khác:

– Phản ứng Mantoux dương tính mạnh.

– Tìm trực khuẩn lao trong phân: chỉ có ý nghĩa là lao ruột khi thấy trực khuẩn lao trong phân, nhưng không thấy trực khuẩn lao trong đờm.

– X quang: chụp transit ruột (có uống geobarin), chụp khung đại tràng có cản quang, có hình ảnh:

+ Đại tràng có hình không đều: chỗ to, chỗ nhỏ.

+ Vùng hồi – manh – đại tràng: ngấm thuốc không đều hoặc có hình đọng thuốc nhỏ.

+ Các ổ loét ở ruột non: là các hình đọng thuốc, cố định, tròn hoặc hình bầu dục

+ Hình tiểu tràng biến dạng chỗ to, nhỏ (hình ống đàn)

– Nội soi bằng ống mềm có thể thấy:

+ Các hạt lao như những hạt kê màu trắng rải rác trên niêm mạc.

+ Những ổ loét nông, bờ mỏng, màu tím bầm, có thể có chảy máu ở bờ hoặc đáy ổ loét.

+ Hoặc một khối u, mặt không đều, thâm nhiễm hết vùng manh tràng (thường làm hẹp nhiều ở lòng manh tràng, không thể đưa ống soi qua được).

Kết hợp trong khi soi, sinh thiết những nơi có bệnh tích nghi ngờ tổn thương lao, để xác định bằng mô bệnh học.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Dựa vào các hội chứng sau:

1. Hội chứng tổn thương ruột:

– Lâm sàng:

+ Đau bụng, chướng hơi, có dấu hiệu Koenig.

+ Biếng ăn, gầy sút, xanh xao.

+ Ỉa lỏng kéo dài, phân có nhầy, máu, mủ.

– Xét nghiệm:

+ X quang, ruột: ruột non có chỗ to, chỗ hẹp, đại tràng có thành dày cứng, nham nhở…

+ Soi và sinh thiết ruột thấy tổn thương lao ở thành ruột

2. Hội chứng nhiễm lao:

– Lâm sàng: Sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, mệt mỏi.

– Xét nghiệm:

+ Máu: Lympho tăng, máu lắng tăng.

+ Mantoux (+) rõ rệt.

+ Tìm thấy trực khuẩn lao trong phân …

Chẩn đoán phân biệt

Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh sau:

1. Một số bệnh gây ỉa chảy:

– Nhiễm khuẩn (ví dụ: Salmonella)

– Ung thư manh tràng.

– Bệnh Crohn.

2. Các bệnh có khối u ở hố chậu phải dễ nhầm với lao manh tràng

– U amíp

– Áp xe ruột thừa.

Biến chứng

– Tắc ruột: Tỉ lệ tắc ruột do mắc lao chiếm vào khoảng 20-40%. Đây là hậu quả phổ biến nhất của căn bệnh này, và chỉ xảy ra ở thể lao cấp tính.

– Viêm phúc mạc: Hiện tượng này là kết quả của hiện tượng lao tới thủng ruột và hoại tử hạch mạc theo. Viêm phúc mạc chiếm 9% tỉ lệ biến chứng do lao. Trên thực tế, viêm phục mạc là biến chứng phổ biến nhất của chứng viêm ruột thừa chứ không phải lao, và thường các triệu chứng rất âm ỉ như với thể lao mãn tính. Khi phị viêm phúc mạc, phẫu thuật là biện pháp cứu vãn duy nhất.

– Xuất huyết tiêu hóa: Đôi khi lao gây nên các chứng viêm và hoại tử mạch máu ở mạc treo. Khoảng 30% các cơ lão sẽ biến chứng xuất huyết, trong đó có 14% gây thiếu máu nặng, có thể đột tử nếu không chữa trị kịp thời.

– Rò lao: Ổ viêm của lao rò mủ và dịch tiêu hóa sang các cơ quan lân cận như bàng quang, âm đạo và vào ống tá tràng, đại tràng.

– Kém hấp thu: Lao mãn tính thường gây tình trạng ruột ít co bóp, khiến cho thức ăn dễ ứ động và không hấp thu. Có ca lao gây ra loét đường ruột, dịch mật tràn lan trong tá tràng. Người bệnh sẽ thấy ăn không tiêu, buồn nôn là vì vậy.

– Suy kiệt: tình trạng này là hệ quả của tất cả các tình trạng trên, người bệnh sẽ mệt mỏi cả ngày, ăn mà không hấp thu được, từ đó gây nên suy dinh dưỡng và kiệt sức. Các trường hợp không được chữa trị kịp thời có thể tử vong.

Điều trị

Khác với các căn bệnh về tiêu hóa khác, lao ruột có quy trình điều trị rất riêng biệt, tuân thủ theo Quy trình quốc gia do Bộ y tế ban hành. Người bệnh sẽ phải thực hiện chữa trị theo quy trình chống lao quốc gia để chắc chắn có thể triệt tiêu bệnh. Dưới đây là một số các quy tắc trong chu trình điều trị lao ruột mà bạn nên biết.

– Phối hợp các thuốc chống lao: Chủng lao gây lao ruột về căn bản chính là chủng gây lao phổi, lao hạch bạch huyết ở người. Dù biểu biểu có khác nhau, nhưng bản chất bệnh vẫn không thay đổi. Vì vậy muốn thực hiện chữa lao phải chắc chắn về việc sử dụng các thuốc diệt khuẩn, kìm khuẩn. Ở đây, thông thường phác đồ điều trị sẽ gồm ít nhất 3 loại thuốc để trị bệnh và 2 loại để điều trị.

Bên cạnh đó, người bệnh cần tuân thủ việc sử dụng thuốc chính xác về liều lượng, và đều đặn, dứt điểm theo chỉ dẫn của bác sĩ. Thông thường lao là căn bệnh rất dai dẳng, cần điều trị liên tục trong nhiều tháng vì vậy việc điều trị không triệt để sẽ rất dễ khiến bệnh tái phát.

Các dòng thuốc chống lao thiết yếu hàng I (Isoniazid (H), Rifampicin (R), Pyrazinamid (Z), Streptomycin (S) và Ethambutol (E)

Phác đồ II: 2SHRZE/1HRZE/5H­­3 R3 E3
Phác đồ III: 2HRZE/4HR hoặc 2HRZ/4HR

Khác với các bệnh tiêu hóa khác như viêm ruột thừa, dạ dày hay tụy, những người điều trị lao ruột thường được cấp thuốc miễn phí, vì vậy người bệnh không cần quá lo lắng về chi phí điều trị.

– Phải xác định mục tiêu điều trị đúng phác đồ quốc gia: Trên thực tế, Việt Nam và thế giới đã từng chứng kiến những đại dịch lao khủng khiếp, vì vậy lao được cho là một bệnh vô cùng nguy hiểm, cần điều trị cách ly để tránh lấy nhiễm. Đối với lao ruột cũng vậy, bác sĩ và y tá cần xác định tập huấn kĩ lưỡng theo Chương trình chống lao quốc gia để chắc chắn giới hạn được phạm vi bệnh. Ngoài ra việc điều trị cũng cần thống nhất theo phác đồ chuẩn, thường xuyên theo dõi và kiểm tra tình hình bệnh nhân.

Người bệnh cần được đánh giá trước khi sử dụng thuốc để tránh các tác dụng phụ, ngoài ra bác sĩ cũng cần xét nghiệm các mẫu nước bọt, đờm để theo dõi bệnh.

Thông thường liệu trình lao kéo dài khoàng 6-7 tháng, nhưng từ tháng thứ 5 điều trị mà kết quả đờm của người bệnh âm tính 3 lần với khuẩn lao thì người bệnh sẽ được chẩn đoán dứt bệnh cơ bản. Tuy nhiên với nhiều trường hợp, người bệnh vẫn cần các kiểm tra liên quan và theo dõi thêm vài tháng nữa để xác định chính xác và tránh tái phát bệnh.

Tuy nhiên, phòng hơn tránh, lời khuyên từ các bác sĩ đó là bạn phải luôn giữ một chế độ sinh hoạt, làm việc điều độ và hợp lý, đồng thời sẵn sàng thăm khám sức khỏe đầy đủ để có thể hạn chế tối đa nguy cơ bệnh.

Benh.vn

Bài viết Lao ruột đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/lao-ruot-3015/feed/ 0