Bài viết Hình ảnh bệnh gan lan tỏa trên siêu âm bụng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Gan nhiễm mỡ được xác định khi có trên 5% mỡ trong gan. Biếu hiện sự tích luỹ triglycerid được tổng hợp từ acid béo trong tế bào gan.
Gan nhiễm mỡ có hai thể:
Trên siêu âm, gan nhiễm mỡ là hình tăng âm lan toả không suy giảm những sóng âm ở sâu (H.10a), khác với xơ gan giai đoạn đầu là hình tăng âm lan toả không đều có suy giảm những sóng âm ở sâu. Gan nhiễm mỡ lan toả phát hiện dễ dàng dựa vào sự tăng chênh lệch đâm đô âm giữa nhu mô gan và nhu mô thân. Gan nhiễm mỡ khu trú có thể thấy là hình nốt tăng âm hoặc hình đám âm không đều với bờ không đều do xen lẫn giữa vùng tăng âm nhiêm mỡ với vùng giảm âm của gan lành giống hình “bản đổ”, các mạch máu không bị đè đẩy (H.lOb).
Gan nhiêm mỡ không đổng đều thường tôn trọng môt số vùng nhu mô gan tạo thành “đảo” gan lành, như vùng tiếp giáp chỗ phân chia cửa (phân thuỳ IV) (H.lOc) hoặc vùng giường túi mật (phân thuỳ V), với biểu hiên là vùng gan lành trên nền gan sáng cho hình ảnh nốt giảm âm. Sự tôn trọng này được giải thích bởi những biến đổi giải phẫu tĩnh mạch. Các tĩnh mạch của các vùng này có thể từ tĩnh mạch vị phải (tĩnh mạch môn vị) hoạc tĩnh mạch túi mật, thâm chí từ tĩnh mạch vị trái. Máu của các tĩnh mạch này không chứa vi dưỡng chấp, nên giải thích tạo sao các vùng này không bị nhiêm mỡ.
Đôi khi, gan nhiễm mỡ có thể tôn trọng môt số tổn thương như trong trường hợp có khối trên gan nhiêm mỡ, làm môt số u tăng âm như u máu trở thành khối giảm âm hoạc đổng âm. Chẩn đoán xác định cần dựa vào CLVT và CHT.
Trường hợp ngược lại có thể xảy ra là: gan có thể hoàn toàn không nhiêm mỡ, chỉ có môt hoạc nhiều vùng xuất hiên gan nhiêm mỡ dạng nốt. Vùng thường thấy nhất là phân thuỳ IV ở phía trước phân chia cửa và quanh rãnh dây chằng liềm. Chẩn đoán phân biêt giữa môt nốt gan nhiêm mỡ với môt u gan đôi khi không thể dựa vào siêu âm với hình ảnh nốt tăng âm so với nhu mô gan còn lại, cũng như không thể dựa vào CLVT với hình ảnh nốt giảm tỷ trọng trên cả các lớp trước và sau tiêm, trong trường hợp này chẩn đoán xác định cần dựa vào CHT.
Xơ gan: là một bênh tiến triển, thường thứ phát sau nhiễm độc rượu mạn tính, nhiễm siêu vi trùng viêm gan B và C. Các nguyên nhân khác có thể là bênh nhiễm sắc tố sắt (hemachromatosis); các bất thường chuyển hoá khác như: bênh Wilson (rối loạn chuyên hoá đổng), thiếu hụt alpha-antitrypsine, bênh sinh đường (glycogenosis); viêm gan nhiễm mỡ không do rượu; bênh tắc tĩnh mạch, hội chứng Budd-Chiari; viêm gan tự miễn; xơ đường mật nguyên phát hoặc thứ phát.
Những biến đổi của gan:
Phát triển của ung thư biểu mô gan trên xơ gan:
Phần lớn ung thư biểu mô gan xuất hiên trên một gan xơ, nhưng có nhiều nốt khác cũng xuất hiên trên gan xơ. Có ba dạng nốt có thể thấy trên gan xơ: Nốt xơ tương đương với một nốt thoái hoá lành tính không bất thường tế bào, kích thước thường dưới 3 mm. Nốt loạn sản đặc trưng bởi có mặt các tế’ bào không điển hình gồm các tế bào lớn hoặc nhỏ, kích thước lớn hơn nốt xơ nhưng không quá 2 cm, thường gọi là thoái hoá nốt lớn. Cuối cùng là nốt ung thư biểu mô gan, đó là nốt mà bên trong có thể có những bất thường tế bào và cấu trúc đặc trưng cho một thoái hoá ác tính, thoái hoá này có thể chiếm toàn bộ hoặc một phần của nốt. Dường như có liên quan giữa nốt xơ thoái hoá bình thường và nốt ung thư biểu mô gan qua trung gian nốt loạn sản.
Bênh nhân xơ gan có nguy cơ ung thư biểu mô cao với 2% mỗi năm. Đó là một u ác tính mà thời gian tăng thể tích gấp đôi trung bình là 4 tháng. Điều trị rất khó khăn do u xuất hiên trên một gan xơ. Hiên nay điều trị hoá chất không có hiêu quả. Với u trên 5 cm, ít có khả năng điều trị. Kết quả tốt hơn cho điều trị ngoại hoặc các kỹ thuật điều trị qua da (nút mạch hoá chất, sang cao tần, tiêm cồn) đối với u không vượt quá 3 cm. Vì vậy cần phải phát hiên u sớm nhất có thể trên bênh nhân xơ gan bằng thăm khám siêu âm gan và đinh lượng alpha-foetoprotein đinh kỳ thường 3-6 tháng/lần. Một hội nghị ở Barcelone đã đưa ra chẩn đoán một ung thư biểu mô gan trên xơ gan với 4 tiêu chuẩn sau:
Tăng áp lực tĩnh mạch cửa:
Được xác định khi có chênh lệch áp lực giữa tĩnh mạch chủ dưới với tĩnh mạch cửa trên 5 mmHg hoặc nếu áp lực tĩnh mạch cửa trên 10 mmHg. Nó là hâu quả của cản trở trên gan (hôi chứng Budd chiari), trong gan (xơ gan) hoặc dưới gan (bệnh sán máng schistosomiasis). Trong xơ gan, sức cản mạch máu tăng do liên quan đến những thay đổi về cấu trúc tế’ bào và tăng sinh xơ, dẫn đến tăng sức cản dòng chảy của tĩnh mạch cửa, giảm lưu lượng hệ cửa kéo theo những vòng nối cửa- chủ, các vòng nối này có thể chiếm tới 90% tuần hoàn hệ cửa.
Trên siêu âm và Doppler:
Là bệnh di truyền, do ruột tăng hấp thu sắt. Ban đầu, sắt được tích luỹ ở gan, sau đó ở tuỵ, muộn hơn ở hầu hết các cơ quan (tim, da, sinh dụcũ). Bệnh biểu hiện lâm sàng khi ở giai đoạn muộn, thường là đau khớp và đái tháo đường. Bệnh không tiến triển xơ gan, nhưng nhiễm độc do ứ sắt là nguy cơ lớn tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào gan.
Vai trò của chẩn đoán hình ảnh trong bệnh này là đánh giá ứ sắt trong gan và tìm một ung thư biểu mô tế bào gan. Siêu âm không cho dấu hiệu đặc biệt.
Trên CLVT, khi ứ sắt nặng, gan biểu hiên tăng tỷ trọng, còn trên CHT giảm tín hiêu hơn tín hiêu của cơ cạnh sống.
Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện Bạch Mai
Bài viết Hình ảnh bệnh gan lan tỏa trên siêu âm bụng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>