Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Tue, 21 May 2024 02:35:50 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng rượu https://benh.vn/benh-roi-loan-tam-than-lien-quan-su-dung-ruou-5048/ https://benh.vn/benh-roi-loan-tam-than-lien-quan-su-dung-ruou-5048/#respond Tue, 21 May 2024 05:15:55 +0000 http://benh2.vn/benh-roi-loan-tam-than-lien-quan-su-dung-ruou-5048/ Bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng rượu - Chẩn đoán , điều trị và dự phòng.

Bài viết Bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng rượu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng rượu – Chẩn đoán , điều trị và dự phòng. Bài viết tập trung phân tích về nguyên nhân gây rối loạn tâm thần do nghiện rượu, các cách điều trị và dự phòng hiện tại.

Rối loạn tâm thần do nghiện rượu là gì ?

Nghiện rượu chiếm 2-3% dân số trưởng thành, khoảng 10% người nghiện rượu sẽ có rối loạn tâm thần trong cuộc đời. Bệnh rối loạn tâm thần do rượu là hậu quả tác động trực tiếp và kéo dài của rượu lên não.

Các rối loạn tâm thần liên quan đến sử dụng rượu thường gặp là: nghiện rượu, loạn thần do rượu (sảng, hoang tưởng do rượu, ảo giác do rượu), rối loạn nhân cách do rượu…

Để chẩn đoán xác định các bệnh lý tâm thần do rượu phải xác định chắc chắn người bệnh có nghiện rượu.

Chẩn đoán nghiện rượu

Các triệu chứng lâm sàng nghiện rượu

Nghiện rượu là một bệnh lý nghiện chất và có đủ các triệu chứng cơ bản đặc trưng cho nhóm bệnh này. Theo ICD 10 (1992), chẩn đoán nghiện rượu khi có từ ba biểu hiện trở lên  trong các biểu hiện sau đây:

– Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.

– Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng.

– Một trạng thái cai sinh lý khi ngừng hay giảm bớt sử dụng rượu.

– Có bằng chứng về hiện tượng tăng dung nạp (chịu đựng) rượu như: cần phải tăng liều để loại bỏ những cảm giác khó chịu do thiếu rượu gây ra.

– Dần xao nhãng các thú vui hoặc những thích thú trước đây.

– Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng chứng rõ ràng về hậu quả tai hại.

Hội chứng cai

Là biểu hiện chủ yếu của nghiện, hội chứng này xuất hiện khi ngừng hoặc giảm đột ngột lượng rượu tiêu thụ:

– Khí sắc trầm, bồn chồn, bứt rứt khó chịu, đứng ngồi không yên.

– Lo âu sợ hãi một cách mơ hồ.

– Rối loạn giấc ngủ như: giấc ngủ nông, ác mộng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn.

– Run.

– Rối loạn thần kinh thực vật (vã mồ hôi, tim đập nhanh…).

– Có thể xuất hiện cơn co giật kiểu động kinh cũng như các ảo giác về thị giác hay thính giác, đặc bịệt về chiều tối và ban đêm.

Các triệu chứng xét nghiệm

– Thang AUDIT giúp nhận dạng các rối loạn do sử dụng rượu.

– Tăng men Gamma-GT (có thể gấp 50-60 lần giới hạn bình thường).

Chẩn đoán loạn thần do rượu

Loạn thần do rượu là trạng thái loạn thần liên quan chặt chẽ tới quá trình sử dụng rượu, biểu hiện bằng rối loạn cảm xúc, hành vi, hoang tưởng, ảo giác… Các biểu hiện rối loạn tâm thần thường mất đi sau 1-6 tháng ngừng sử dụng rượu.

Sảng rượu (sảng run)

Sảng rượu là một trạng thái loạn thần cấp tính và trầm trọng, thường xuất hiện ở người nghiện rượu mạn tính, khi cơ thể bị suy yếu hay vì một bệnh lý nào đó (nhiễm khuẩn, chấn thương…). Sảng rượu cũng có thể xuất hiện sau khi cai rượu tương đối, tuyệt đối hoặc sau khi sử dụng số lượng lớn.

Dấu hiệu lâm sàng

Giai đoạn khởi phát:

– Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Trong giai đoạn này chủ yếu là mệt mỏi, chán ăn, rối loạn giấc ngủ, ác mộng, rối loạn thần kinh thực vật.

– Thay đổi cảm xúc biểu hiện bằng hoảng hốt, lo âu. Bệnh tiến triển nặng dần, nhất là về chiều tối, có thể có ảo tưởng thị giác, hồi ức…

Giai đoạn toàn phát:

– Tam chứng cổ điển bao gồm: Ý thức mê sảng hoặc lú lẫn; Các ảo tưởng và ảo giác sinh động và triệu chứng run nặng. Ngoài ra cũng thường có hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc đảo lộn nhịp thức ngủ và hoạt động thần kinh tự trị gia tăng.

– Rối loạn năng lực định hướng thời gian và không gian, định hướng xung quanh có thể lệch lạc, định hướng bản thân còn giữ được. Người bệnh nhận thức xung quanh như là ảo ảnh, mất khả năng phê phán. Mức độ mù mờ ý thức thường nặng lên về chiều tối.

– Các ảo giác như: ảo thị, ảo thanh, ảo giác xúc giác chiếm vị trí chủ yếu, thường xuất hiện vào buổi chiều tối với các nội dung làm cho người bệnh ghê sợ, hốt hoảng. Thấy rắn rết, sau bọ bò trên da, trong nhà. Hành vi, tính cách người bệnh phù hợp với nội dung của ảo giác.

– Hoang tưởng cũng rất thường gặp và thường là các hoang tưởng cảm thụ, nội dung có liên quan đến tính chất và sự biến đổi của ảo giác.

– Có thể có kích động, rối loạn giấc ngủ…

– Song song với các rối loạn tâm thần còn có các rối loạn toàn thân rõ rệt như: run chân tay (run rẩy ở cuối chi, nhỏ, nhanh và tăng lên khi hoạt động; run lưỡi (làm cho bệnh nhân nói khó); ra nhiều mồ hôi, sốt nhẹ…

– Bệnh kéo dài thường không quá 1 tuần.

Ảo giác do rượu

Ảo giác do rượu là trạng thái loạn thần do nghiện rượu. Thường gặp ở người nghiện rượu mạn tính sau 10 năm. Lâm sàng: Hình ảnh lâm sàng nổi bật là các loại ảo giác, thường là những ảo giác thật, có thể có nhiều ảo giác trên một bệnh nhân, bao gồm: ảo thính, ảo thị, ảo giác xúc giác…

– Ảo thính: thường là ảo thính thật, nghe thấy nhiều tiếng nói bàn bạc thảo luận, doạ nạt, chửi rủa, nhạo báng người bệnh. Có thể thấy biểu hiện lo âu, lo lắng chờ đợi một điều gì đó đang đến với người bệnh. Nội dung của ảo giác chi phối hành vi của người bệnh. Đặc biệt chú ý đến các ảo thanh ra lệnh, rất nguy hiểm đối với tính mạng người bệnh và những người xung quanh. Họ có thể phá phách, đốt nhà, giết người… Khi ảo thính hết hẳn thì người bệnh có thể phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.

– Ảo thị: ít gặp hơn ảo thanh, nội dung thường phù hợp với ảo thanh và hoang tưởng đi kèm. Thường gặp nhất là ảo thị thô sơ.

– Ảo giác xúc giác: ít gặp hơn ảo thính và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị. Người bệnh cảm thấy những côn trùng bò trên da thịt, chuột gặm nhấm chân tay mình gây cảm giác khó chịu. Đôi khi người bệnh cảm thấy như có mạng nhện bám trên da nên họ có hành động lấy tay phủi đi hoặc cảm giác những vật lạ trong miệng và họng.

Hoang tưởng do rượu

Hoang tưởng do rượu là một hội chứng hay một thể bệnh của loạn thần do rượu. Hoang tưởng ghen tuông và hoang tưởng bị hại là những biểu hiện lâm sàng chủ yếu của hoang tưởng do rượu. Lâm sàng:

Hoang tưởng ghen tuông

– Lúc đầu hoang tưởng ghen tuông chỉ xuất hiện trong trạng thái say, về sau trở thành thường xuyên và có nội dung vô lý. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình không chung thuỷ. Người bệnh theo dõi vợ mình, chú ý từ những điều nhỏ nhặt, đánh đập vợ…

– Hoang tưởng ghen tuông có thể kèm theo các ý tưởng bị theo dõi, bị đầu độc.

Hoang tưởng bị hại

Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang tưởng ghen tuông. Nội dung của hoang tưởng chi phối hành vi và tính cách của người bệnh và thường họ có hành vi mang tính chất xung động.

Ngoài ra, ở người bệnh loạn thần do rượu còn thấy một số hoang tưởng khác như hoang tưởng liên hệ, tự cao, nghi bệnh… nhưng với tỷ lệ thấp. Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh cảch lâm sàng của loạn thần do rượu.

Trầm cảm do rượu

Trầm cảm ở người nghiện rượu và loạn thần do rượu (trầm cảm thứ phát) rất thường gặp. Tuy nhiên bệnh cảnh thường không điển hình, triệu chứng giảm khí sắc ít gặp mà thường biểu hiện bằng khí sắc không ổn định, buồn bực, cáu kỉnh, công kích. Ngoài ra, trầm cảm do rượu cũng thường biểu hiện bằng mệt mỏi, mất sinh lực, mất quan tâm thích thú và giảm hoạt động.

Mất ngủ và ác mộng cũng là triệu chứng rất thường gặp ở người bệnh trầm cảm do rượu.

Bệnh loạn thần Korsakov

– Đây là một trong các thể bệnh não thực tổn mạn tính do rượu. Hội chứng mất nhớ và viêm đa dây thần kinh là dấu hiệu chủ yếu của bệnh. Mất nhớ hoàn toàn hoặc một phần, người bệnh không thể ghi nhận được các thông tin mới. Khi trả lời câu hỏi người bệnh bịa ra những sự kiện thay thế cho sự khuyết hổng trí nhớ.

– Bệnh loạn thần Korsakov xảy ra trong giai đoạn cuối của bệnh nghiện rượu.

Điều trị các bệnh tâm thần do nghiện rượu

Điều trị nghiện rượu

Nguyên tắc điều trị

– Sử dụng dược lý kết hợp liệu pháp tâm lý và liệu pháp môi trường.

– Các liệu pháp dược lý:

+ Các phương pháp giải độc và điều trị hội chứng cai bằng thuốc.

+ Tạo phản xạ ghét sợ rượu bằng thuốc.

+ Quan tâm điều trị các rối loạn cơ thể kèm theo.

Điều trị cụ thể

– Người bệnh phải nhập viện điều trị nội trú.

– Điều trị hội chứng cai bằng các thuốc bình thản benzodiazepine (seduxen 10-20mg/ngày) và thuốc chống loạn thần (haloperidol 5-10mg/ngày) nếu có biến chứng mê sảng, bổ sung vitamin nhóm B.

– Sau khi hết hội chứng cai (thường là 5-7 ngày) tiến hành liệu pháp gây phản ứng sợ rượu bằng disulfiram (Antabuse, Esperal…) liều điều trị 250 – 500 mg/ ngày, nên dùng buổi tối trước khi đi ngủ. Thường dùng liều trên trong 1-2 tuần đầu, trong giai đoạn này tiến hành 1-2 lần gây phản ứng “rượu-Disulfiram” (sau 2 giờ uống Disulfiram, cho người bệnh uống 30 ml rượu, ít phút sau sẽ xuất hiện các triệu chứng không dung nạp rượu: khó chịu, mệt, tăng tiết mồ hôi, xung huyết dưới da, chóng mặt, khó thở…).

– Giai đoạn tiếp theo có thể cho điều trị ngoại trú Disulfiram với liều 125-250 mg/ ngày trong vòng nhiều tháng, thậm chí hàng năm, cho đến lúc chắc chắn người nghiện đã bỏ được rượu.

– Ngừng disulfiram khi có biến chứng.

– Không sử dụng disulfiram trong các trường hợp: viêm nhiều dây thần kinh, tăng huyết áp vừa và nặng, các bệnh mạch máu nặng, lao tiến triển, người trên 60 tuổi, di chứng sau đột quỵ.

– Điều trị các rối loạn cơ thể kèm theo, bồi phụ nước và điện giải.

– Bổ sung vitamin B 1 liều cao.

Điều trị loạn thần do rượu

Điều trị sảng rượu

– Điều trị sảng rượu cần phải sử dụng các biện pháp tổng hợp, đặc biệt là các bệnh nhân có rối loạn cơ thể nặng. Nguyên tắc chung là giải độc, sử dụng vitamin liều cao (nhất là vitamin nhóm B) và thuốc hướng thần.

– Sử dụng các thuốc chống loạn thần để điều trị trạng thái kích động, hoang tưởng, ảo giác. – Loại thuốc được khuyến cáo sử dụng là haloperidol 5-10mg/ngày. Có thể sử dụng risperdal 2-4mg/ngày

– Điều trị các cơn co giật do rượu: tốt nhất là seduxen tiêm bắp 10-20mg/ngày hoặc dùng phenobarbital tiêp bắp100-200mg/ngày.

– Vitamin B1 liều cao 1-2g/ngày, truyền các dung dịch ringer lactat, glucose .

Điều trị loạn thần do rượu

– Phương thức điều trị tương tự như điều trị sảng rượu: haloperidol tiêm bắp 5-10mg/ngày hoặc risperdal 2-4mg/ngày. Phối hợp seduxen 10-20mg/ngày.

– Trầm cảm là nguyên nhân dẫn đến tái nghiện . Sử dụng các thuốc chống trầm cảm khi cần: amitriptylin 25-50mg/ngày, zolofl 50-100mg/ngày.

Dự phòng bệnh tâm thần do rượu

Dự phòng nghiện rượu

– Phổ biến rộng rãi trong cộng đồng về những tác hại của rượu đối với cơ thể, tâm thần và xã hội.

– Có quy định chặt chẽ trong việc sản xuất, phân phối và sử dụng rượu. Hướng thanh thiếu niên vào cuộc sống lành mạnh.

– Hướng dẫn sử dụng rượu an toàn (Một ngày không quá 30g rượu đối với nam, 20g đối với nữ; một tuần có ít nhất 2 ngày không sử dụng đồ uống có cồn).

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh rối loạn tâm thần liên quan sử dụng rượu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-roi-loan-tam-than-lien-quan-su-dung-ruou-5048/feed/ 0
Bệnh tâm thần phân liệt https://benh.vn/benh-tam-than-phan-liet-5058/ https://benh.vn/benh-tam-than-phan-liet-5058/#respond Thu, 23 Jun 2016 05:16:08 +0000 http://benh2.vn/benh-tam-than-phan-liet-5058/ Bệnh tâm thần phân liệt - Nguyên nhân , chẩn đoán, điều trị, tiên lượng và phòng bệnh.

Bài viết Bệnh tâm thần phân liệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh tâm thần phân liệt – Nguyên nhân , chẩn đoán, điều trị, tiên lượng và phòng bệnh.

Bệnh tâm thần phân liệt (Schizophrenia) là một bệnh loạn thần nặng, có khuynh hướng mạn tính và hay tái phát. Tâm thần phân liệt có đặc điểm là người bệnh có những suy nghĩ, hành vi kỳ dị, khó hiểu; người bệnh dần tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu vào thế giới bên trong; tình cảm trở nên khô lạnh, khả năng làm việc học tập ngày một sút kém; Theo tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ mắc bệnh tâm thần phân liệt là 1% dân số. Bệnh thường phát sinh ở lứa tuổi trẻ (18 – 35 tuổi), hai giới bị bệnh gần như bằng nhau.

Nguyên nhân bệnh tâm thần phân liệt

Nguyên nhân của bệnh tâm thần phân liệt hiện vẫn chưa được xác định và được cho là do nhiều yếu tố gây nên. Hiện nay, hai lĩnh vực được tập trung nghiên cứu nhiều nhất đó là bất thường về gen và những bất thường về chất dẫn truyền thần kinh.

Nhiều nghiên cứu cho tỷ lệ mắc bệnh tâm thần phân liệt ở những người thuộc thế hệ thứ 1 (có bố, mẹ, anh chị em ruột bị TTFL) xấp xỉ 10% so với 1% ở dân số nói chung. Nghiên cứu về những cặp sinh đôi cho thấy nếu một người mắc bệnh thì nguy cơ mắc bệnh người còn lại ở cặp sinh đôi cùng trứng là 50%.. Một số nghiên cứu chứng minh rối loạn ở hệ thống dopamine trong giai đoạn bệnh cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt.

Chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt

Các nhóm triệu chứng theo ICD-10

– Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị phát thanh.

– Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động, có liên quan rõ rệt với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành vi hay cảm giác đặc biệt; tri giác hoang tưởng.

– Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân hay thảo luận với nhau về bệnh nhân hoặc các loại ảo thanh khác xuất phát từ một bộ phận nào đó của thân thể.

– Các loại hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn hoá và hoàn toàn không thể có được như tính đồng nhất về tôn giáo hay chính trị hoặc những khả năng và quyền lực siêu nhân (thí dụ: có khả năng điều khiển thời tiết, hoặc đang tiếp xúc với nhưng người của thế giới khác).

– Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thoáng qua hay chưa hoàn chỉnh, không có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng.

– Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy không liên quan hay lời nói không thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.

– Tác phong căng trương lực như : kích động, giữ nguyên dáng hay uốn sáp, phủ định, không nói, hay sững sờ…

– Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng cảm xúc cùn mòn hay không thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội; phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay do tác dụng của thuốc tác động tâm thần.

– Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập tính cá nhân biểu hiện như mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt theo ICD-10

Hiện nay, chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt vẫn dựa vào triệu chứng lâm sàng là chính, chưa có một xét nghiệm cận lâm sàng nào giúp chẩn đoán xác định bệnh . Việt Nam sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt của Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10:

– Chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt ít nhất phải có một triệu chứng rất rõ (nếu ít rõ phải có hai triệu chứng hay nhiều hơn nữa) thuộc vào một trong các nhóm liệt kê từ (a) đến (d) hoặc các triệu chứng thuộc vào ít nhất là hai trong các nhóm liệt kê từ (e) đến (h).

– Các triệu chứng trên phải tồn tại rõ ràng trong phần lớn khoảng thời gian 1 tháng hay lâu hơn.

– Không được chẩn đoán là tâm thần phân liệt nếu có các triệu chứng trầm cảm hay hưng cảm mở rộng trừ khi đã rõ là các triệu chứng phân liệt xuất hiện trước các rối loạn cảm xúc.

– Không chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt khi có bệnh não rõ rệt hoặc bệnh nhân đang ở trong trạng thái nhiễm độc ma tuý.

Điều trị bệnh tâm thần phân liệt

Nguyên tắc chung

1) Khám xét toàn diện dựa trên tiếp cận sinh học- tâm lý- xã hội. Thầy thuốc và các nhà tâm lý lâm sàng ,cán sự xã hội cần kết hợp để lựa chọn các phương pháp điều trị thích hợp.

2 ) Kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, bệnh nhân và gia đình bệnh nhân để giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị, đánh giá kết quả điều trị và phát hiện sớm các dấu hiệu tái phát.

3) Điều trị bệnh tâm thần phân liệt cần theo 2 giai đoạn:

– Giai đoạn cấp tính: điều trị làm giảm đến mức tối thiểu các triệu chứng của bệnh. Bệnh nhân cần điều trị nội trú tại bệnh viện để có điều kiện đánh giá, chẩn đoán chính xác, chọn thuốc và liều thuốc, điều trị tấn công (liều cao, tiêm), hay sử dụng các biện pháp điều trị tích cực khác và theo dõi tác dụng phụ.

– Giai đoạn duy trì: cho thuốc liều thấp để điều trị duy trì phòng ngừa tái phát.

Điều trị cụ thể

Giai đoạn cấp tính (tốt nhất điều trị nội trú trong bệnh viện) có thể kéo dài tù 4 – 8 tuần với mục tiêu làm giảm các triệu chứng loạn thần nặng. Tuỳ theo tình trạng bệnh để chọn thuốc, liều và đường dùng cho phù hợp, thường dùng đường uống là phổ biến. Thường chọn một trong các thuốc sau:

– Thuốc an thần kinh điển hình

+ Clorpromazine (Aminazin, largactil…) liều trung bình 100-200mg/ngày.

+ Haloperidol (Haldol…) liều trung bình 5-15mg/ngày.

+ Levomepromazine (Tisercine…) liều trung bình 100-200mg/ngày.

– Thuốc chống loạn thần không điển hình

+ Zyprexa (Olanzapin), liều trung bình 10 -20mg/ngày.

+ Risperidone: liều dùng trung bình 2-4mg/ngày.

+ Amisulpride (Solian) liều trung bình 100 – 400mg/ngày.

+ Quetiapne (Seroquel), liều trung bình 100 -600mg/ngày.

Chú ý: Bệnh nhân kích động, có ý tưởng và hành vi tự sát, không chịu uống thuốc thì dùng đường tiêm.

Giai đoạn duy trì (điều trị tại nhà) có thể kéo dài nhiều năm, nhằm phòng tái phát và giúp bệnh nhân tái hoà nhập cộng đồng. Liều thuốc duy trì là liều thuốc thấp nhất có hiệu quả (thường bằng khoảng 20% liều giai đoạn cấp tính).

Tác dụng phụ của thuốc: Thuốc an thần kinh có một số tác dụng phụ làm bệnh nhân khó chịu và ảnh hưởng tới sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân:

– Loạn trương lực cơ cấp (vẹo cổ, lè lưỡi, nuốt khó…); hội chứng giống Parkinson (nét mặt đờ đẫn, đi chậm chạp, run…); đứng ngồi không yên; loạn động muộn.

– Hội chứng an thần kinh ác tính: Sốt, cứng cơ, tim đập nhanh, bất thường về huyết áp, thở nhanh, suy giảm ý thức, ra mồ hôi nhiều, tăng bạch cầu, tăng tỷ lệ creatinine phosphokinase. Đây là một tình trạng cấp cứu.

Điều trị tâm lý – xã hội

Liệu pháp tâm lý

– Giải thích cho gia đình nhận thức được bệnh, xác định cần điều trị duy trì lâu dài, giúp bệnh nhân yên tâm tin tưởng vào điều trị, tránh mặc cảm, kỳ thị. Uống thuốc đều và biết tác dụng phụ của thuốc.

– Các liệu pháp tâm lý gồm: Trị liệu gia đình; trị liệu nhóm; trị liệu cá nhân…

Liệu pháp lao động và phục hồi chức năng

Hướng dẫn người bệnh tham gia các lao động đơn giản, vệ sinh cá nhân, các chức năng sinh hoạt, giao tiếp xã hội, lao động nghề nghiệp giúp phục hồi chức năng đã mất, dần đưa bệnh nhân trở lại cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng.

Tiên lượng bệnh tâm thần phân liệt

Sau khoảng 5-10 năm sau lần nhập viện đầu tiên, chỉ có khoảng 10 – 20% bệnh nhân được xem là có kết quả tốt, trên 50% phải tái nhập viện nhiều lần do tăng nặng các triệu chứng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh tâm thần phân liệt.

Tiên lượng tốt

– Khởi phát muộn

– Có yếu tố thuận lợi

– Khởi phát cấp tính

– Quan hệ xã hội trước khi trị bệnh tốt

– Có các triệu chứng rối loạn khí sắc

– Có vợ (hoặc chồng)

– Có tiền sử gia đình về rối loạn khí sắc

– Có hệ thống nâng đỡ tốt

– Các triệu chứng dương tính

– Đáp ứng điều trị tốt

Tiên lượng xấu

– Khởi phát bệnh sớm

– Không có yếu tố thuận lợi

– Khởi phát âm thầm

– Quan hệ xã hội trước khi bị bệnh khép kín

– Có các biểu hiện tự kỷ, tự thu rút

– Độc thân, ly dị, goá

– Có tiền sử gia đình tâm thần phân liệt

– Có hệ thống nâng đỡ kém

– Các triệu chứng âm tính

– Đáp ứng điều trị kém

 

 Phòng bệnh tâm thần phân liệt

Cần theo dõi những trẻ có nguy cơ cao (con cháu các bệnh nhân tâm thần phân liệt…) để phát hiện sớm và can thiệp sớm.

Cần tuyên truyền, phổ biến những kiến thức về bệnh nay trong nhân dân để xoá các định kiến sai lầm, góp phần cùng thầy thuốc phát hiện sớm và có kế hoạch điều trị tích cực.

Phối hợp gia đình, cộng đồng trong tái hoà nhập và phục hồi chức năng bệnh nhân ở cộng đồng, đặc biệt trong theo dõi, điều trị duy trì, phòng tái phát.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh tâm thần phân liệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-tam-than-phan-liet-5058/feed/ 0