Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Fri, 17 May 2024 02:58:00 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Sơ cứu khẩn cấp khi bị bỏng https://benh.vn/so-cuu-khan-cap-khi-bi-bong-2772/ https://benh.vn/so-cuu-khan-cap-khi-bi-bong-2772/#respond Thu, 16 May 2024 00:20:39 +0000 http://benh2.vn/so-cuu-khan-cap-khi-bi-bong-2772/ Khi bị bỏng phải sơ cứu nhanh và khẩn trương tránh để những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Việc sơ cứu này cần phải được thực hiện dựa trên những kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu bỏng, nếu không sẽ vô tình dẫn đến những tổn thương khác. Ngay sau đó, cần đưa bệnh nhân đi cấp cứu.

Bài viết Sơ cứu khẩn cấp khi bị bỏng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Sơ cứu đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong trường hợp bệnh nhân bị bỏng. Nếu được sơ cứu đúng cách, bác sỹ cấp cứu sẽ dễ dàng điều trị cho bệnh nhân, việc hồi phục, giảm nguy cơ biến chứng cũng vì thế mà rõ rệt hơn.

Sơ cứu cánh tay bị bỏng

Sơ cứu rất quan trọng đối với vết bỏng mọi cấp độ (Ảnh minh họa)

Bỏng được chia làm 3 cấp độ phụ thuộc vào 3 yếu tố

  • Độ sâu của bỏng.
  • Diện tích của vết bỏng.
  • Vị trí vết bỏng trên cơ thể.

Ba cấp độ bỏng

Bỏng độ 1

Chỉ bị tổn thương lớp ngoài cùng của da làm cho vùng da đỏ, đau rát giống như bị cháy nắng, một vài hôm sẽ khỏi không để lại vết sẹo.

Bỏng độ 2

lớp biểu bì và một phần của lớp chân bì bị tổn thương.  Xuất hiện những nốt phỏng như bong bóng nước, bên trong mọng nước, ở cấp độ này lại chia làm 2 mức:

  • Mức 1: Là bỏng với diện tích nhỏ (một phần da) chỉ là những bong bóng nước nếu điều trị đúng cách sẽ không bị nhiễm trùng và không để lại sẹo, nếu bỏng ở mức này bị ở vùng mặt, háng, mông, nơi da gấp thì tốt nhất nên nhờ sự can thiệp của bác sĩ.
  • Mức 2: Cũng có thể coi là bỏng nặng, dễ có biến chứng như: bệnh nhân bị choáng, nhiễm trùng máu và uốn ván, nếu nhiễm trùng kéo dài sẽ dẫn đến suy nhược toàn thân, để lại những biến chứng về hình dạng như: sẹo xấu, sẹo co rút làm biến dạng.

Bỏng độ 3

Nguy hiểm hơn, vết bỏng ngấm sâu vào trong, qua lớp da lan đến lớp cơ, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, do đó, nhất thiết phải đưa đến bác sĩ chuyên khoa để cấp cứu kịp thời.

3-cap-do-vet-bong

Tổn thương ở 3 cấp độ bỏng khác nhau.

Phương pháp sơ cứu khẩn cấp vết bỏng

  • Khi bị bỏng phải sơ cứu nhanh và khẩn trương tránh để những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Việc sơ cứu này cần phải được thực hiện dựa trên những kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu bỏng, nếu không sẽ vô tình dẫn đến những tổn thương khác. Ngay sau đó, cần đưa bệnh nhân đi cấp cứu.
  • Khi bị bỏng ở cấp độ 1, nhìn chung sẽ không nguy hiểm.  Nên lập tức ngâm ngay chỗ bỏng vào nước lạnh, sạch vì nước lạnh sẽ giúp làm giảm độ nóng tại vùng da đang bị bỏng, làm mát những hóa chất dính trên vết bỏng, giảm đau, giảm nguy cơ gây sốc cho bệnh nhân. Đây là giải pháp tối ưu cho tất cả các trường hợp bị bỏng nặng hay bỏng nhẹ.
  • Những trường hợp bỏng nặng như hóa chất, vôi… thì ngay lập tức cởi bỏ quần áo, đồ trang sức dính những chất này, dùng chổi lông chà nhẹ cho hết sau đó xả nước lạnh, ngâm trong nước lạnh vài phút rồi bọc vùng bị bỏng bằng vải khô nhưng tránh không buộc chặt. Trường hợp bỏng độ 2, độ 3 có thể bôi kem bôi chứa Bạc sulfadiazine để ngăn ngừa nhiễm khuẩn.
  • Đối với các vết bỏng rộp tuyệt đối không chọc túi phỏng có chứa dịch lỏng bên trong. Hãy để nó tự vỡ để tránh nguy cơ nhiễm trùng. Khi túi vỡ có thể dùng nước đun sôi hoặc nước sát khuẩn rửa vết thương rồi băng lại với gạc mềm.
  • Nếu bị bỏng ở mắt do bắn hóa chất thì phải rửa mắt ngay, ngâm mắt trong nước khoảng 20 phút cho sạch hóa chất, sau đó dùng vải mỏng băng mắt lại và đưa đi cấp cứu.
  • Bỏng điện cũng vô cùng nguy hiểm vì nó gây tác động đến nhịp tim. Vết bỏng thể hiện ra bên ngoài thường trông rất nhẹ nhưng nguy cơ phá hủy khi bỏng điện là rất, có thể ăn sâu bên trong lớp biểu bì gây nguy hiểm đến tính mạng. Khi phát hiện phải dùng vật cách điện (bao tay, que, gậy khô) ngắt điện ngay, Nhất là đối với trẻ nhỏ, các bậc cha mẹ phải thận trọng hơn với những vật dụng trong nhà như phích nước nóng, ổ điện, bếp… do còn nhỏ trẻ chưa hiểu rõ được mối nguy hiểm.

Bài viết Sơ cứu khẩn cấp khi bị bỏng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/so-cuu-khan-cap-khi-bi-bong-2772/feed/ 0
Những dấu hiệu của bệnh thể hiện trên móng tay https://benh.vn/nhung-dau-hieu-cua-benh-the-hien-tren-mong-tay-5618/ https://benh.vn/nhung-dau-hieu-cua-benh-the-hien-tren-mong-tay-5618/#respond Thu, 04 Apr 2024 01:27:20 +0000 http://benh2.vn/nhung-dau-hieu-cua-benh-the-hien-tren-mong-tay-5618/ Có khoảng 30 dấu hiệu trên móng tay có liên quan tới vấn đề sức khỏe. Tất cả mọi thứ như chế độ ăn không hợp lý, cẳng thẳng đến vấn đề nghiêm trọng về thận đều được thể hiện trên móng tay.

Bài viết Những dấu hiệu của bệnh thể hiện trên móng tay đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo Tiến sĩ Amy Derick, giảng viên lâm sàng của khoa da liễu, Đại học Northwestern, Mỹ. Có khoảng 30 dấu hiệu trên móng tay có liên quan tới vấn đề sức khỏe. Tất cả mọi thứ như chế độ ăn không hợp lý, cẳng thẳng đến vấn đề nghiêm trọng về thận đều được thể hiện trên móng tay.

Dưới đây là 8 trong số những bệnh mà bác sĩ có thể chẩn đoán thông qua biểu hiện trên móng tay:

1. Những người có bệnh liên quan tới phổi khác thường có móng tay cong cụp vào. Khi điều này xảy ra, các đầu ngón tay trở nên tròn và đường cong của móng tay sẽ thay đổi, phát triển vồng lên và cụp xuống.

2. Những hố nhỏ hoặc vết lõm xuất hiện trên móng tay có thể là dấu hiệu của bệnh viêm khớp, vảy nến, hoặc eczema.

3. Những người có chế độ ăn không đủ chất dinh dưỡng sẽ có móng tay mỏng hơn và dễ gãy hơn những người bình thường.

4. Các dòng kẻ ngang, hay còn gọi là đường của Beau, trên móng tay cho thấy bạn đang bị căng thẳng nghiêm trọng về thể chất. Chúng trông giống như những dòng thụt xuống và thường xuyên xuất hiện trên những người đã từng trải qua hóa trị liệu. Chúng cũng có thể xuất hiện sau khi bạn trải qua bệnh tật, thương tích hoặc suy dinh dưỡng nghiêm trọng. Chúng cũng xuất hiện trên những người sống trên độ cao trên 300 mét và những người đã từng tham gia thám hiểm Everest.

5. Những đường kẻ dọc trên móng tay có thể là dấu hiệu của sự lão hóa. Chúng đôi khi còn xuất hiện trên những người bị suy dinh dưỡng.

6. Khi một người bị thiếu sắt, móng tay của họ sẽ bị biến dạng giống như một chiếc muỗng. Thay vì uốn cong xuống và bao trùm như những ngón tay bình thường, hai sườn và phía trước của nó sẽ mọc cao lên, để biến từ hình dạng lồi bình thường thành một hình dạng lõm hơn, như một phần của một chiếc muỗng.

7. Móng tay của những người có vấn đề về thận và gan có thể có móng tay bị chia đôi, với một nửa màu trắng và một nửa màu hồng. Vấn đề về gan và thận thường xuyên gây ra sự đổi màu của móng tay và da.

8. Người có móng tay bị bật khỏi khung móng sẽ có những vấn đề về thận hoặc tuyến giáp.

Quá trình chẩn đoán bệnh rất phức tạp các dấu hiệu trên chỉ là cách nhận biết thông thường. Nếu thấy những triệu chứng bất thường khác hãy gặp bác sĩ để được chẩn đoán điều trị.

Bài viết Những dấu hiệu của bệnh thể hiện trên móng tay đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nhung-dau-hieu-cua-benh-the-hien-tren-mong-tay-5618/feed/ 0
Bệnh dị ứng mày đay và phù mạch https://benh.vn/benh-di-ung-may-day-va-phu-mach-4781/ https://benh.vn/benh-di-ung-may-day-va-phu-mach-4781/#respond Fri, 02 Feb 2024 05:10:25 +0000 http://benh2.vn/benh-di-ung-may-day-va-phu-mach-4781/ Bệnh dị ứng mày đay và phù mạch gây ngứa, nóng dát sẩn đỏ trên mặt da do nhiều nguyên nhân

Bài viết Bệnh dị ứng mày đay và phù mạch đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Mày đay và phù mạch là tình trạng bệnh lý phổ biến nhất và khoảng 15 đến 20% dân số có ít nhất một lần bị mày đay – phù mạch trong đời. Điều này có nghĩa cứ 5 người lại có ít nhất một người bị mày đay, phù mạch hoặc cả hai tình trạng này trong suốt cuộc đời.

benh-may-day

Mày đay (Urticaria) được hiểu là tình trạng phát ban (hives) trên da với biểu hiện đặc trưng là các sẩn phù hoặc những ban dát đỏ trên da, ngứa nhiều, cảm giác nóng dát trên bề mặt da và thường tiến triển từng đợt. Đặc điểm quan trọng để chúng ta phân biệt với các tình trạng bệnh lý của da khác là đặc tính ngứa và thoáng qua của các tổn thương mày đay. Các tổn thương may đay thường kéo dài không quá 24 giờ và biến mất mà không để lại bất cứ biến chứng nào trên da.

Phù mạch (Angioederma) hay còn có tên gọi khác là phù Quincke là tình trạng sưng phù thoáng qua của tổ chức mô dưới da và niêm mạc và có cơ chế tương tự mày đay nhưng vị trí sâu hơn. Phù mạch có thể phối hợp hoặc xuất hiện riêng rẽ với tình trạng mày đay. Khoảng 40% số bệnh nhân xuất hiện phù mạch cùng với mày đay, 40% mày đay riêng rẽ và khoảng 20% số bệnh nhân chỉ có phù mạch mà không có ban mày đay. Có kèm phù mạch thì tiên lượng thường xấu hơn những bệnh nhân chỉ có mày đay đơn thuần.

Phân loại mày đay và phù mạch

Phân loại theo thời gian kéo dài của triệu chứng

Mày đay được chia ra 2 loại là mày đay cấp và mạn. Mày đay cấp là tình trạng mày đay kéo dài dưới 6 tuần và chủ yếu xuất hiện ở những bệnh nhân có yếu tố cơ địa và phổ biến ở trẻ em.. Mày đay mạn là tình trạng mày đay kéo dài liên tục hoặc ngắt quãng trên 6 tuần và thường gặp ở lứa tuổi trung niên và nữ mắc nhiều hơn nam.

Phân loại dựa trên tình trạng có hay không xuất hiện đồng thời tình trạng mày đay và phù mạch

Sự hiện diện của phù mạch làm cho tình trạng bệnh xấu hơn và thường kéo dài.

Phân loại theo cơ chế bệnh sinh

  • Mày đay vô căn. Không tìm được nguyên nhân gây bệnh. Đây là tình trạng hay gặp nhất của mày đay mạn tính.
  • Mày đay và phù mạch liên quan với thức ăn
  • Mày đay vật lý: mày đay do lạnh, đè ép hoặc mày đay cholinergic
  • Mày đay liên quan với bệnh lý nền như viêm tuyến giáp tự miễn, lupus…
  • Di truyền

Tổn thương mô bệnh học phụ thuộc vào các dạng mày đay, phù mạch khác nhau. Biểu hiện chủ yếu là tình trạng giãn các mạch nhỏ và giãn mạch bạch huyết ở dưới da và có sự xâm nhập của tế vào viêm một nhân và bạch cầu ưa acid trong mày đay cấp. Trong mày đay mạn có sự xâm nhập nhiều hơn của tế bào viêm một nhân, không có lắng đọng phức hợp miễn dịch và bổ thể. Ngược lại mày đay liên quan đến viêm mạch có sự lắng đọng immunoglobulin đặc biệt là IgM, bổ thể và sợi tơ fibrin trên thành mạch máu.

Cơ chế sinh bệnh mày đay và phù mạch

Vai trò trung tâm là tế bào mast. Sự gia tăng số lượng hiện diện trong tổn thương mô bệnh học, sự hoạt hóa tế bào mast dẫn đến tình trạng giải phóng các hóa chất trung gian (đặc biệt là histamin) là nguyên nhân gây ra những biểu hiện lâm sàng của mày đay và phù mạch. Có nhiều cơ chế gây ra tình trạng hoạt hóa tế bào mast và giải phóng các hóa chất trung gian do quá trình thoát bọng. Các cơ chế này có thể được phân chia: cơ chế miễn dịch, cơ chế không qua trung gian miễn dịch và cơ chế do rối loạn tương tác giữa kháng thể IgE và thụ thể của nó.

Biểu hiện lâm sàng khi bị mày đay và phù mạch

Mày đay thường biểu hiện tình trạng ngứa nhiều, nóng dát trên da và thường kéo dài dưới 4 giờ mỗi đợt tổn thương (không quá 24 giờ trừ mày đay viêm mạch). Kích thước mày đay rất khác nhau có thể dạng chấm hoặc lan rộng dạng bản đồ kích thước vài centimet. Phân bố của mày đay có thể toàn thân hoặc khu trú tuỳ thuộc vào các loại mày đay khác nhau. Nếu mày đay do tiếp xúc thường gặp vùng tiếp xúc, mày đay do ánh nắng thường gặp vùng da hở và một số loại mày đay vật lý như mày đay do đè ép thì thường gặp vùng đè ép. Mày đay thường không có biểu hiện toàn thân ngoài cảm giác khó chịu. Một số trường hợp có kèm theo đau khớp thường liên quan đến bệnh lý nền nào đó.

Phù mạch thường gây ra tình trạng khó chịu hoặc gây đau khi xuất hiện ở đường ruột. Có thể gây khó thở nếu phù thanh quản. Mày đay cấp và phù mạch có thể là triệu chứng của sốc phản vệ và khi đó bệnh cảnh lâm sàng sẽ rất trầm trọng.

Tình trạng nổi ban ngứa liên quan đến thai nghén (PUPP – Pruritic urticarial papules and plaques of pregnancy) là tình trạng nổi ban, dát ngứa liên quan đến thai kỳ đặc biệt ở 3 tháng cuối và sau sinh. Nguyên nhân chưa rõ.

Mày đay vật lý bao gồm: mày đay do lạnh, mày đay do đè ép xuất hiện chậm sau 3 – 12 giờ, chứng vẽ nổi da (dermatographisim), mày đay cholinergic với kích thước nhỏ từ 2-3mm, mày đay do ánh mặt trời, mày đay do nước và mày đay và phù mạch do gắng sức có tình trạng tăng histamin sau vận động gắng sức và ăn một số thức ăn nhất định như chuối, bột mì.

Chẩn đoán bệnh mày đay và phù mạch

Chẩn đoán mày đay và phù mạch thường được dựa trên hình ảnh lâm sàng và khai thác kỹ tiền sử. Tuy nhiên, việc tìm ra nguyên nhân và các bệnh lý kèm theo là hết sức cần thiết nhằm trả lời cho bệnh nhân và tạo cho họ niềm tin, sự hài lòng và điều trị đặc hiệu. Trong mày đay mạn thì rất khó tìm nguyên nhân, 70% vô căn.

Các xét nghiệm chẩn đoán bao gồm xét nghiệm IgE đặc hiệu, test lẩy da với các dị nguyên nghi ngờ như dị nguyên đường hô hấp, thức ăn, côn trùng đốt và thuốc. Các biểu hiện mày đay vật lý sử dụng một số test kích thích để chẩn đoán. Đối với mày đay do đè ép thì tạo lại tổn thương bằng cách vạch vẽ lên da bệnh nhân, mày đay do lạnh làm test áp đá, mày đay do cholinergic dùng methacolin làm chất kích thích, mày đay do gắng sức cho bệnh nhân tập thể dục gắng sức… Ngoài ra còn các xét nghiệm chẩn đoán bệnh lý nền ở bệnh nhân mày đay và phù mạch.

Nguyên nhân gây mày đay cấp bao gồm:

  • Thuốc: một số thuốc thường gây dị ứng biểu hiện mày đay, phù mạch bao gồm kháng sinh penicillin, các thuốc giảm viêm chống đau – NSAIDs (ibuprofen, aspirin…). Các thuốc hạ áp nhóm ức chế men chuyển (ACE inhibitors) có thể gây phù mạch mà không có mày đay.
  • Thức ăn: các thức ăn có thể là nguyên nhân phổ biến gây ra dị ứng và biểu hiện mày đay, phù mạch. Các thức ăn dị ứng qua trung gian IgE như lạc, hạt điều, trứng, cá, các loại nhuyễn thể…
  • Các dị nguyên đường hô hấp: bọ nhà, phấn hoa, lông chó, mèo thường gây ra triệu chứng dị ứng ở đường hô hấp nhưng có thể biểu hiện mày đay, phù mạch.
  • Nhiễm trùng: nhiễm virus cấp tính là nguyên nhân phổ biến gây mày đay, phù mạch đặc biệt ở trẻ em. Mặc dù không được phân lập thường xuyên nhưng người ta thấy rằng các virus liên quan như viêm gan, nhiễm đơn bào hoặc Coxsackie.

Nguyên nhân mày đay mạn bao gồm:

  • Thuốc: các thuốc giảm viêm chống đau – NSAIDs (ibuprofen, aspirin…) 20 – 40% số bệnh nhân có triệu chứng nặng lên sau uống các thuốc NSAIDs.
  • Thức ăn: Vai trò của thức ăn gây mày đay mạn vẫn còn tranh cãi và tỷ lệ được báo cáo dao động từ 1% cho đến 67%.
  • Các bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm nấm, ký sinh trùng. Các bệnh lý nền: các bệnh lý tự miễn hệ thống như lupus ban đỏ, viêm khớp dạng thấp thanh thiếu niên…, 50% số bệnh nhân mày đay mạn liên quan đến bệnh lý tuyến giáp đặc biệt là viêm tuyến giáp Hasimoto. Ngoài ra, mày đay mạn còn gặp trong bệnh lý ác tính và rối loạn di truyền.

Điều trị bệnh mày đay và phù mạch

Điều trị mày đay cấp:

Điều trị mày đay, phù mạch tốt nhất là tránh dị nguyên nếu đã xác định được và điều trị các triệu chứng. Bệnh nhân nên tránh uống các chất chứa cồn và sử dụng các thuốc thường hay gây nặng bệnh như aspirin và thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs). Mày đay cấp hoặc phù mạch có thể điều trị bằng thuốc kháng histamin.

Điều trị bằng menthol 1% có thể làm giảm ngứa. Nếu mày đay xuất hiện do quần áo quá chật, do tiếp xúc với da nên nới lỏng quần áo để giảm triệu chứng. Nếu như mày đay và phù mạch xuất hiện trong bệnh cảnh của sốc phản vệ thì adrenaline cần được điều trị ngay lập tức và bệnh nhân cần được cấp cứu tại trung tâm y tế. Nếu bệnh nhân có adrenalin tiêm tự động thì có thể tiêm ngay vào mặt ngoài cơ đùi và gọi hỗ trợ sau.

Điều trị mày đay vật lý:

Các rối loạn như mày đay do lạnh, cholinergic (do nhiệt) và chứng vẽ nổi da có thể được điều trị bằng kháng histamin như levocertrizine, fexofenadine, cetirizine hoặc loratadine. Nếu không đáp ứng với liều thông thường có thể tăng liều như fexofenadine 180 mg/ngày, certrizine 10mg ngày 3 lần. Bước tiếp theo có thể thêm các thuốc như hydroxyzine hoặc diphenydramine với liều 25-50 mg 4 lần một ngày.

Trong một số trường hợp đặc biệt một số thuốc có thể thử nếu tình trạng mày đay không cải thiện như ciproheptidine 4-8 mg, 3-4 lần một ngày để điều trị mày đay do lạnh. Hydroxyzine đặc biệt hiệu quả trong điều trị mày đay do nhiệt (mày đay cholinergic). Mày đay do ánh nắng được điều trị bằng kháng histamin và kem chống nắng đặc biệt nếu cơ địa nhạy cảm tia cực tím. Các trường hợp mày đay do đè ép khởi phát muộn thường đáp ứng rất kém với thuốc kháng histamin.

Điều trị mày đay mạn vô căn hoặc liên quan bệnh tự miễn

Điều trị phụ thuộc vào mức độ nặng và bệnh lý nền có liên quan. Cần lưu ý cân bằng giữa hiệu quả điều trị kiểm soát triệu chứng và những tác dụng gây độc của liệu pháp điều trị. Kháng histamin thể hệ sau không gây buồn ngủ là lựa chọn hàng đầu, sau đó đến kháng histamin thể hệ 1, corticoid liều thấp cách ngày hoặc hàng ngày và giảm liều chậm 2,5 – 5mg mỗi 2-3 tuần.

Nếu không đỡ, kháng leukotriene, kháng histamin H2 và có thể cân nhắc các thuốc chống trầm cảm 3 vòng như doxepin và cả nifedipin trong một số trường hợp. Nếu trong trường hợp chống chỉ định tuyệt đối corticoid hoặc tác dụng phụ hoặc không đáp ứng với các điều trị thông thường thì cyclosporin được chỉ định với liều trung bình 200-300mg/ngày. Khi điều trị bằng cyclosporin cần theo dõi huyết áp và chức năng thận. Trong trường hợp mày đay viêm mạch, kháng sốt rét tổng hợp có nhiều lợi ích trong điều trị và cải thiện tình trạng viêm mạch.

Cẩm nang  truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh dị ứng mày đay và phù mạch đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-di-ung-may-day-va-phu-mach-4781/feed/ 0
Ngứa xuất hiện từ đâu https://benh.vn/ngua-xuat-hien-tu-dau-2939/ https://benh.vn/ngua-xuat-hien-tu-dau-2939/#respond Tue, 23 Jan 2024 04:23:52 +0000 http://benh2.vn/ngua-xuat-hien-tu-dau-2939/ Ngứa là cảm giác khó chịu khi xuất hiện bắt chúng ta phải gãi hoặc trà sát. Khi da bị ngứa, nó kích động lên bộ não khiến chúng ta phải gãi, kể cả khi ngủ. Nhưng cơ chế đằng sau những cơn ngứa khó chịu này vẫn chưa được hiểu rõ và một phát […]

Bài viết Ngứa xuất hiện từ đâu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Ngứa là cảm giác khó chịu khi xuất hiện bắt chúng ta phải gãi hoặc trà sát. Khi da bị ngứa, nó kích động lên bộ não khiến chúng ta phải gãi, kể cả khi ngủ. Nhưng cơ chế đằng sau những cơn ngứa khó chịu này vẫn chưa được hiểu rõ và một phát hiện mới đã khiến vấn đề càng trở nên phức tạp.

Một trong những thủ phạm tồi tệ nhất của sự ngứa là chứng viêm da – một tình trạng do bất cứ thứ gì như bột giặt hay tác nhân nào khác gây ra, khiến da bị kích thích. Ở Mỹ, 6,4 triệu người bị chứng viêm da và phải đi khám mỗi năm.

“Chất lượng cuộc sống bị những cơn ngứa làm giảm không kém gì những cơn đau”, Martin Schmelz, nhà bệnh học thần kinh tại Đại học Mannheim ở Đức nói. “Tuy nhiên, bệnh nhân sẽ nhận được sự đồng cảm nhiều hơn khi bị đau so với bị ngứa”.

Histamine, một protein được tạo ra từ phản ứng dị ứng, điều khiển một số dây thần kinh để truyền thông tới não. Vùng não được kích hoạt khi bị ngứa cũng tương tự với vùng não khi chúng ta bị đau. Với trường hợp này, những thuốc kháng histamine sẽ có tác dụng. Tuy nhiên, histamine không phải là hoá chất duy nhất trong cơ thể gây ra những cơn ngứa khó chịu.

Gần đây, Schmelz đã tìm thấy sự tồn tại của những dây thần kinh gây ra cảm giác ngứa theo cách khác với dây thần kinh nhạy cảm với histamine. “Đó là bằng chứng cho thấy không chỉ có một loại hệ thần kinh liên quan tới cảm giác ngứa”, Schmelz nói.

Đằng sau sự ngứa

Ngứa là một triệu chứng của rất nhiều tình trạng. Những phản ứng với thực vật, động vật và kim loại đều tạo ra cảm giác ngứa ngáy khó chịu. Thời tiết cũng đóng một vai trò, cùng với vi khuẩn, bệnh tật và vật ký sinh. Stress cũng làm tăng thêm sự ngứa.

Sau đây là một số thứ khiến chúng ta ngứa:

  • Muỗi, rệp, chấy
  • Cây sồi độc, cây tầm ma
  • Da khô
  • Đồ trang sức
  • Herpes
  • Stress và sự lo lắng
  • Nhiễm trùng khuẩn tụ cầu
  • Bệnh vẩy nến
  • Cháy da
  • Xà phòng và các chất tẩy rửa

Theo Hiệp hội y khoa Mỹ, mọi người thường lạm dụng xà phòng. Thông thường chỉ cần nước rửa tay thông thường hoặc nước không cũng đủ để giữ sạch da.

Năm 1660, Samuel Hafenreffer đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về sự ngứa – “một cảm giác thèm gãi không mấy thú vị”. Gãi có thể là một cách chữa trị nhanh nhưng cũng có thể làm tình trạng tồi tệ thêm. Gãi mạnh quá có thể gây chảy máu và nhiễm trùng.

Nhưng vì sao gãi lại khiến ta dễ chịu? Các nhà khoa học cho rằng gãi có thể làm kích hoạt một số dây thần kinh kích thích cảm giác hài lòng trong não.

Bài viết Ngứa xuất hiện từ đâu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/ngua-xuat-hien-tu-dau-2939/feed/ 0
Nguy cơ bệnh nhiễm trùng máu vì viêm da, mụn nhọt ngày hè https://benh.vn/nguy-co-benh-nhiem-trung-mau-vi-viem-da-mun-nhot-ngay-he-5405/ https://benh.vn/nguy-co-benh-nhiem-trung-mau-vi-viem-da-mun-nhot-ngay-he-5405/#respond Mon, 06 Nov 2023 05:23:16 +0000 http://benh2.vn/nguy-co-benh-nhiem-trung-mau-vi-viem-da-mun-nhot-ngay-he-5405/ Hè đến, nền nhiệt cao, thời tiết nắng nóng khiến mồ hôi ra nhiều gây ngứa ngáy, khó chịu, đặc biệt các loại hoa quả ngọt mùa hè như: vải, nhãn, chôm chôm, đào, …, đa phần là những loại quả nóng càng làm da tăng hiện tượng mẩn ngứa, nổi rôm, mụn.

Bài viết Nguy cơ bệnh nhiễm trùng máu vì viêm da, mụn nhọt ngày hè đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hè đến, nền nhiệt cao, thời tiết nắng nóng khiến mồ hôi ra nhiều gây ngứa ngáy, khó chịu, đặc biệt các loại hoa quả ngọt mùa hè như: vải, nhãn, chôm chôm, đào, …, đa phần là những loại quả nóng càng làm da tăng hiện tượng mẩn ngứa, nổi rôm, mụn.

Đối với người lớn, việc phòng bệnh và chữa bệnh có thể tự chủ được, tuy nhiên, ở trẻ em ngứa ngáy, nổi rôm, mụn khiến trẻ dễ bị nhiễm trùng do các em chưa ý thức được việc phòng bênh. Không ít trường hợp chỉ từ những nốt mụn, viêm da mà trẻ bị nhiễm trùng máu, phải nhập viện điều trị.

Vậy, phương pháp phòng ngừa bệnh cho trẻ nhỏ như thế nào?

Bệnh da liễu gia tăng trong mùa hè

  • Mẩn ngứa.
  • Người nổi rôm, mụn nhọt.
  • Nổi mề đay.
  • Viêm da.
  • Viêm da lo liên cầu.
  • Viêm da cơ địa…

Các bệnh da liễu gia tăng trong mùa hè: mẩn ngứa, viêm da, nổi mề đay, rôm sảy…

Nguyên nhân

  • Do nắng nóng kéo dài (nền nhiệt thường xuyên ở mức 37 đến 39 0 C).
  • Do mồ hôi ra nhiều khiến da ẩm, tạo điều kiện thuận cho nấm, vi khuẩn phát triển.
  • Do chế độ ăn thiếu vitamin, khoáng chất.
  • Do ăn nhiều đồ nóng.
  • Do trẻ gãi gây trầy xước, dẫn đến nhiễm trùng…

Nguy cơ từ các bệnh da liễu

  • Bội nhiễm.
  • Nhiễm trùng da.
  • Nhiễm trùng huyết…

Phương pháp phòng ngừa bệnh da liễu cho trẻ

  • Tắm, vệ sinh cho trẻ thường xuyên để giữ sạch da cho trẻ.
  • Không cho trẻ chơi đùa ở những khu vực gần cống rãnh, nơi ô nhiễm, nghịch đất cát…
  • Cắt móng tay cho trẻ (tránh gãi khiến khu vực viêm nhiễm bị chày xước).
  • Tăng cường chế độ ăn nhiều vitamin, khoáng chất có trong rau xanh, hoa quả .
  • Tránh những đồ ăn gây nóng trong (thức ăn nhiều đạm, giàu mỡ…).

Hạn chế ăn những đồ ăn gây nóng trong (thức ăn nhiều đạm, giàu mỡ…)

  • Mặc quần áo thoáng, sạch sẽ cho trẻ.
  • Bôi thuốc điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ đề phòng nhiễm trùng (khi trẻ bị nổi mụn, viêm da…).
  • Khi tổn thương trên da có hiện tượng bội nhiễm, tấy đỏ, nổi mủ, trẻ bị sốt… cần đưa ngay trẻ đến các cơ sở y tế để được theo dõi, điều trị vì có thể đó là những dấu hiệu viêm da bội nhiễm, cần có bác sĩ chỉ định thuốc kháng sinh toàn thân…

Ý kiến của chuyên gia

PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi (BV Bạch Mai): “Mùa hè nóng nực, số trẻ đến khám vì mẩn ngứa, mụn nhọt, viêm da lo liên cầu… tăng lên. Nguyên nhân do nắng nóng kéo dài, mồ hôi ra nhiều tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm phát triển khiến trẻ nổi mề đay khắp người,  gây ngứa ngáy và gãi xước da dẫn đến nguy cơ bị viêm da…Bên cạnh đó, do tuyến mồ hôi hoạt động mạnh, công với việc vệ sinh da không sạch sẽ khiến cơ thể dễ mệt mỏi, sức đề kháng suy giảm, sự chống đỡ với kháng thể yếu nên vi khuẩn dễ tung hoành gây viêm da. Thói quen đi bơi ở hồ ao nước bẩn, nghịch đất …cũng khiến nguy cơ nhiễm trùng da càng tăng.

  Vệ sinh thân thể sạch sẽ hàng ngày giúp đề phòng tốt các bệnh mụn nhọt, viêm da, nhiễm trùng

Để phòng các bệnh mụn nhọt, viêm da, nhiễm trùng da ngày hè, việc giữ vệ sinh da là vô cùng quan trọng như: vệ sinh thân thể sạch sẽ hàng ngày bằng xà phòng, sữa tắm, khi cơ thể xuất hiện các nốt mẩn ngứa, mụn nhọt hạn chế gãi làm trầy xước khiến cho vi khuẩn, nấm càng có cơ hội phát triển. Trẻ em, cần cắt móng tay để hạn chế gãi, gây trầy xước, dễ dẫn tới nhiễm trùng da…”

Lời kết

Mùa hè, thời tiết nắng nóng nên số bệnh nhân mắc các bệnh về da liễu đến khám, nhập viện gia tăng từ 1.000 – 1.200 bệnh nhân mỗi ngày, đây cũng là thời điểm thuận lợi cho những bệnh viêm da cơ địa có cơ hội bùng phát, có những trường hợp nhiễm trùng huyết vì nhiễm trùng da…

Nguyên nhân khiến các bệnh da liễu gia tăng do thời tiết nắng nóng, mồ hôi ra nhiều khiến da ẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho nấm, vi khuẩn phát triển. Bên cạnh đó, để da không sạch sẽ, chế độ dinh dưỡng ít rau xanh, khoáng chất, vitamin, gãi gây trày xước …cũng dẫn đến nhiễm trùng da.

Vì vậy, để tránh bộ nhiễm, gây ra những vét lở loét dẫn đến nhiễm trùng da…cha mẹ cần: giữ móng tay ngắn, không để trẻ gãi dẫn đến chày xước, cháy máu da, không cho trẻ nghịch đất bẩn, cho trẻ ăn nhiều rau xanh, hoa quả, uống đủ lượng nước từ 1 đến 1,5 lít/ngày, vệ sinh thân thể hàng ngày cho trẻ.

Bài viết Nguy cơ bệnh nhiễm trùng máu vì viêm da, mụn nhọt ngày hè đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nguy-co-benh-nhiem-trung-mau-vi-viem-da-mun-nhot-ngay-he-5405/feed/ 0
Lichen phẳng, bệnh da liễu tổn thương vùng kín https://benh.vn/lichen-phang-benh-da-lieu-ton-thuong-vung-kin-8012/ https://benh.vn/lichen-phang-benh-da-lieu-ton-thuong-vung-kin-8012/#respond Mon, 30 Oct 2023 06:32:27 +0000 http://benh2.vn/lichen-phang-benh-da-lieu-ton-thuong-vung-kin-8012/ Các rối loạn biểu mô âm hộ không phải u tân sinh gồm những rối loạn Lichen xơ hóa, lichen phẳng và lichen đơn giàn mạn tính (trước đây gọi là loạn dương âm hộ). Lichen xơ hóa: thường gặp nhất ở những bệnh nhân trước dậy thì và hậu mãn kinh. Có đặc điểm […]

Bài viết Lichen phẳng, bệnh da liễu tổn thương vùng kín đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Các rối loạn biểu mô âm hộ không phải u tân sinh gồm những rối loạn Lichen xơ hóa, lichen phẳng và lichen đơn giàn mạn tính (trước đây gọi là loạn dương âm hộ).

Lichen xơ hóa: thường gặp nhất ở những bệnh nhân trước dậy thì và hậu mãn kinh. Có đặc điểm là lớp biểu mô mỏng đi, kèm theo hiện tượng phù và xơ hóa trong lớp bì, vùng môi âm hộ và lỗ âm đạo teo và hẹp lại. Thường mất nếp môi bé. Bệnh nhân thường cảm thấy ngứa. Nếu bệnh nhân vẫn sinh hoạt tình dục có thể sẽ thấy đau khi giao hợp. Các sang thương thường là đối xứng, chẩn đoán bằng kết quả sinh thiết.

Lichen đơn giản mạn tính: thường biểu hiện bằng triệu chứng ngứa vùng âm hộ khi khám có thể phát hiện biểu mô dày, trắng, tróc vảy ít, thường bị khu tru một bên. Xác nhận chẩn đoán bằng sinh thiết.

Lichen phẳng được Erasmus Wilson mô tả đầu tiên vào năm 1869, là tình trạng viêm da cấp tính hoặc mạn tính với các thương tổn đặc trưng là sẩn phẳng, hình đa giác, màu đỏ tím và ngứa. Khoảng 0,5-1% dân số mắc bệnh Lichen phẳng với tỉ lệ giữa nam và nữ ngang nhau. Lứa tuổi hay gặp từ 30-60 tuổi và ít gặp ở trẻ em. Bệnh Lichen phẳng có thể cấp tính hoặc diễn biến mạn tính trong thời gian dài, nhiều năm và có thể ổn định.

lichen-planus

Nguyên nhân bệnh Lichen phẳng

Nguyên nhân của bệnh Lichen phẳng vẫn chưa rõ. Một số tác giả cho rằng bệnh có liên quan đến yếu tố di truyền, HLA, căng thẳng, trầm cảm, bệnh xơ gan, xơ cứng bì, thuốc, kim loại nặng, bệnh do virút viêm gan C, virus herpes.

Chẩn đoán bệnh Lichen phẳng

a) Chẩn đoán xác định bệnh lichen phẳng

Lâm sàng

  • Tổn thương da: sẩn nhẵn, bóng, dẹt, hình đa giác, màu tím hoa cà, kích thước 1-10mm, bề mặt thường có những khía ngang dọc gọi là mạng lưới Wickham. Sẩn có thể liên kết thành mảng, khi khỏi để lại vết thâm.
  • Vị trí thường gặp: cổ tay, thắt lưng, cẳng chân, đầu, dương vật.
  • Có thể gặp hiện tượng Koebner: người bệnh gãi, dọc theo vết gãi xuất hiện thương tổn mới.
  • Tổn thương niêm mạc: 40-60% bệnh nhân có tổn thương ở niêm mạc. Có thể chỉ ở niêm mạc mà không có tổn thương da. Vị trí thường gặp nhất là ở lưỡi và niêm mạc má, ngoài ra còn có thể gặp ở thanh quản, amiđan, quy đầu, âm đạo, niêm mạc dạ dày-ruột, quanh hậu môn. Tổn thương đặc trưng là những dải hoặc mạng lưới màu trắng như sứ hoặc xám.
  • Tổn thương ở da đầu có thể gây rụng tóc vĩnh viễn.
  • Tổn thương móng gặp ở 10% người bệnh với các biểu hiện là những khía dọc, dày móng, tách móng hoặc teo móng.
  • Ngứa ít hoặc nhiều tùy từng trường hợp.

Cận lâm sàng

  • Mô bệnh học: dầy sừng, dầy lớp hạt, thoái hóa lớp đáy. Phần trung bì nông các tế bào thâm nhiễm làm biến dạng nhú bì tạo thành vòm, giới hạn rõ. Tế bào thâm nhiễm chủ yếu là CD4+, CD8+ và tương bào.
  • Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp: lắng đọng phức hợp miễn dịch mà chủ yếu là IgM ở thượng bì và trung bì, một phần nhỏ IgA và C3.
  • Các xét nghiệm khác: xét nghiệm xác định viêm gan, nhất là viêm gan C.

b) Chẩn đoán thể lâm sàng

Thể thông thường

  • Hay gặp nhất.
  • Biểu hiện lâm sàng như đã mô tả ở trên.

Thể xơ teo

  • Các sẩn rút đi để lại sẹo teo, xơ cứng, màu sáng, hơi lõm, khu trú ở cổ, cổ tay, ngực, bụng.
  • Ở da đầu có thể gây rụng tóc mảng nhỏ, rụng lông nách, lông mu,…

Thể phì đại

  • Sẩn sùi màu tím hoặc đỏ nâu, trên phủ một lớp vả y sừng.
  • Vị trí: hay gặp mặt trước cẳng chân, bàn chân, quanh mắt cá.

Thể có mụn nước, bọng nước

  • Ngoài các sẩn điển hình của liken phẳng, còn có thể thấy mụn nước, bọng nước chứa huyết tương trên nền da bình thường.
  • Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp: hình ảnh lắng đọng IgG ở dưới màng đáy.

Thể quanh nang lông

  • Sẩn xung quanh nang lông hình nón nhọn, riêng rẽ hoặc liên kết thành mảng đỏ xung quanh nang lông.
  • Tổn thương ở da đầu gây sẹo teo da, rụng tóc vĩnh viễn.

Thể khu trú ở sinh dục

Sẩn màu hơi hồng, có thể tạo thành hình nhẫn. Vị trí hay gặp ở quy đầu, môi lớn, môi nhỏ, âm đạo.

c) Chẩn đoán phân biệt: tùy từng thể lâm sàng

  • Lichen đơn dạng mạn tính: mảng da dày, thâm, hơi cộm, tạo thành từ những sẩn dẹt bóng. Vùng giữa mảng da dày là rãnh da nổi rõ thành vệt chéo nhau, ranh giới rõ với da lành, vị trí hay gặp ở cổ, gáy, đùi, cổ chân, khuỷu tay. Triệu chứng cơ năng ngứa nhiều.
  • Vảy nến: thương tổn là dát đỏ tươi, gồ cao hơn mặt da, ranh giới da lành rõ, trên có nhiều vảy trắng, mỏng, cạo Brocq dương tính, gặp ở vùng tỳ đè.
  • Giang mai II: chẩn đoán phân biệt khi thương tổn khu trú ở sinh dục, niêm mạc miệng. Giang mai có tổn thương da nơi khác là đào ban ở mạng sườn, mặt, lòng bàn chân, bàn tay, xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán giang mai dương tính.
  • Viêm miệng do Candida: cần chẩn đoán phân biệt với lichen phẳng ở niêm mạc. Viêm miệng do Candida thườ ng gặp ở trẻ em hoặc những người suy giảm miễn dịch với biểu hiện là niêm mạc đỏ , nhiều giả mạ c trắng , dễ bong. Xét nghiệm soi tươi tìm nấm dương tính.

lichen-phang-tren-da

Điều trị bệnh Lichen phẳng

a) Nguyên tắc điều trị

  • Thuốc bôi ngoài da và niêm mạc
  • Điều trị toàn thân
  • Điều trị các bệnh khác kèm theo (nếu có)

b) Điều trị cụ thể

Điều trị tại chỗ

  • Bôi corticoid dạng kem, mỡ, có thể băng bịt. Khi thương tổn dày, nhiều tiêm corticoid tại chỗ.
  • Axít salicylic: dạng mỡ có các nồng độ 3%, 5% và 10%, tác dụng làm tiêu sừng, bong vả y. Nên bôi mỗi ngày 2-3 lần.
  • Tacrolimus 0,1%: chỉ định đối với những trường hợp có tổn thương niêm mạc miệng, nhất là tổn thương có loét, trợt.
  • Thương tổn niêm mạc miệng: bôi gel lidocain.
  • Trường hợp chỉ có tổn thương niêm mạc: bôi các dung dịch hoặc kem có chứa corticoid 1%, tránh các chất kích thích như rượu, bia, hút thuốc lá.

Điều trị toàn thân

  • Chống ngứa: kháng histamin thế hệ 1, thế hệ 2 (không gây ngủ).
  • Corticoid uống: 1-2mg/ kg cân nặng/ngày, uống trong đợt ngắn (sau khi loại trừ viêm gan).

Trường hợp không đáp ứng với corticoid có thể sử dụng một trong các thuốc sau:

  • Vitamin A
  • Acitretine 10-20mg/ngày x 8 tuần
  • Isotretinoin 0,5mg/kg/ngày

Cần lưu ý ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ phải tư vấn tránh thai vì thuốc có thể gây quái thai. Một số tác dụng không mong muốn của thuốc như viêm môi, khô da tăng men gan, tăng cholesterol trong máu cần phải được theo dõi.

  • Cyclosporin

Chỉ định trong trường hợp lan tỏa, không đáp ứng với các trị liệu khác. Liều 1-6mg/kg trong thời gian vài tháng.

Lưu ý theo dõi các tác dụng phụ ở thận.

Liều dùng: 5mg/kg cân nặng/ngày. Thời gian dùng tùy thuộc tiến triển bệnh.

  • Griseofulvin: 1g/ngày x 2-3 tháng.
  • Heparin trọng lượng phân tử thấp: Enoxiparin 3mg/tuần, tiêm dưới da trong thời gian 12 tuần.
  • PUVA: liệu trình 3 lần/tuần.

Liều 0,5-1,5 J/cm2 tuỳ theo từng type da.

Sau khi  uống 0,6mg/kg   8-methoxypsoralen  hay  1,2mg/kg  5- methoxypsoralen 30 phút.

Chống chỉ định đối với trường hợp nhạy cảm ánh nắng mặt trời, tiền sử ung thư da, phụ nữ có thai.

  • Trong những trường hợp nặng, tổn thương lan toả: có thể sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch khác như azathioprin, cyclophosphamid, mycophenolat mofetil.
  • Bệnh có thể khỏi sau vài tuần nhưng thường là sau 18 tháng có khoảng 85% trường hợp khỏi. Triệu chứng ngứa giảm dần, sau đó các sẩn dẹt dần để lại các vết thâm.

–  Phối hợp điều trị các bệnh khác nếu có như viêm gan.

–  Tiên lượng và kết quả điều trị của bệnh lichen phẳng phụ thuộc vào thể bệnh và vị trí tổn thương.

Bảng 4.1. Tóm tắt các phương pháp điều trị lichen phẳng

                                                      Điều trị số 1                                  Điều trị số 2                                      Điều trị khác

Tổn thương da                  Corticoid toàn thân tại chỗ                            Acitretin PUVA                                    Isotretinoin

Tổn thương niêm mạc       Không điều trị Bôi retinoid

không có trợt loét

Tổn thương niêm mạc      Bôi  corticoid                                               Ciclosporin

có trợt  loét

Tổn thương móng              Acitretin       

Tổn thương tóc                Corticoid toàn thân

Bài viết Lichen phẳng, bệnh da liễu tổn thương vùng kín đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/lichen-phang-benh-da-lieu-ton-thuong-vung-kin-8012/feed/ 0
Lạ mà quen: bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng và ánh sáng tự nhiên https://benh.vn/benh-viem-da-do-tiep-xuc-cay-trong-anh-sang-9866/ https://benh.vn/benh-viem-da-do-tiep-xuc-cay-trong-anh-sang-9866/#respond Sat, 21 Oct 2023 07:24:27 +0000 http://benh2.vn/benh-viem-da-do-tiep-xuc-cay-trong-anh-sang-9866/ Bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng, ánh sáng có thể là do tiếp xúc với cả hóa chất của thực vật và ánh sáng mặt trời cùng nhau. Các loại cỏ là một trong những cây có thể gây phản ứng da.

Bài viết Lạ mà quen: bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng và ánh sáng tự nhiên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng, ánh sáng có thể là do tiếp xúc với cả hóa chất của thực vật và ánh sáng mặt trời cùng nhau. Các loại cỏ là một trong những cây có thể gây phản ứng da.

Bệnh viêm da mãn xảy ra khi một số hóa chất của cây trồng gây ra da bị viêm sau khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.

Phytophotodermatitis được đặt tên theo thuật ngữ ‘phyto’ có nghĩa là cây trồng, ‘photo’ có nghĩa là ánh sáng, và ‘viêm da’ có nghĩa là viêm da. Còn được gọi là bệnh vôi (không giống như bệnh Lyme), các triệu chứng viêm da bao gồm viêm da, ngứa, và phồng rộp da.

Sơ bộ về bệnh viêm da do tiếp xúc ánh sáng, cây trồng:

Hầu hết các trường hợp giải quyết đơn giản, nhưng một số yêu cầu điều trị tại bệnh viện.

Các triệu chứng bao gồm mụn nước và mảng đỏ.

Thường hay bị chẩn đoán sai.

Tránh ánh nắng là phương pháp phòng ngừa.

Các triệu chứng bệnh như thế nào?

Các triệu chứng của bệnh viêm da tiếp xúc ánh sáng, cây trồng thường bắt đầu 24 giờ sau khi phơi nhiễm và cao điểm trong khoảng 48-72 giờ. Các triệu chứng có thể nhẹ hoặc nghiêm trọng và bao gồm:

Những vùng da phồng rộp

  • Ngứa
  • Đỏ
  • Viêm
  • Đau
  • Tăng cảm giác đau
  • Cảm giác bỏng rát
  • Những mảng da bị vảy da (sau khi mụn nước vỡ)

Các mảng mụn nước ở miệng thường có hình dạng không đều. Hay gặp trên vùng da đã bị phơi nhiễm với hóa chất. Ví dụ, mụn nước nhỏ có thể là kết quả của việc tiếp xúc với nước trái cây. Các sọc trên da có thể chỉ ra rằng vùng da của họ tiếp xúc cây trồng.

Khi các triệu chứng ban đầu giảm, thường là sau 7-14 ngày, da có thể có dấu hiệu sẫm màu, được biết đến như là tăng sắc tố. Giai đoạn này của chứng viêm da phytophotodermatitis, gọi là sắc tố sau viêm, có thể kéo dài trong nhiều tuần hoặc vài tháng.

Một số người chỉ gặp phản ứng viêm rất nhẹ sau khi phơi nắng có thể thậm chí không nhận thức được rằng họ đã có phản ứng. Sự tăng sắc tố có thể là đầu mối đầu tiên mà đã phát triển thành bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng và ánh sáng.

Da ướt, mồ hôi, và trời nóng có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng ban đầu, trong khi phơi nắng có thể làm tối màu sắc da.

Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ

Quả cam quýt và các loại dầu từ trái cây có múi có thể gây ra chứng viêm phytophotodermatitis.

Bệnh viêm da do tiếp xúc hóa chất thực vật xảy ra khi ai đó tiếp xúc với hóa chất thực vật và tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Các triệu chứng thường xuất hiện sau khi tiếp xúc trực tiếp với cây trồng, chẳng hạn như bằng cách chạm vào.

Nhiều thực vật và rau có chứa các hợp chất hóa học gây ra sự nhạy cảm với ánh sáng mặt trời. Các hóa chất này được gọi là chất cảm quang. Một ví dụ của một bức xạ là psoralen.

Một số loài thực vật phổ biến có chứa psoralen bao gồm:

  • Rau mùi
  • Mùi tây
  • Cà rốt
  • Cần tây
  • Sung
  • Quả cam quýt
  • Đường thô
  • Đồng cỏ

Ngoài ra, nó có thể có mặt trong:

  • Một số nước hoa
  • Một số loại dầu thực vật, như dầu bergamot

Khi tiếp xúc với ánh sáng UVA, psoralen gây ra các phản ứng quang hóa trong da. Những phản ứng này làm hỏng tế bào da và gây chết tế bào, dẫn đến các triệu chứng được mô tả ở trên.

Các yếu tố nguy cơ

Bất cứ ai cũng có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh viêm da do tiếp xúc ánh sáng và cây trồng(phytophotodermatitis), bất kể giới tính, tuổi tác hay chủng tộc. Tuy nhiên, một vài yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị chứng phytophotodermatitis, bao gồm:

Tiếp xúc với một số cây trồng và các sản phẩm thực vật

Sử dụng nước hoa hoặc dầu có chứa hoá chất thực vật nhất định

Trời nắng

Tham gia vào các hoạt động, như:

Làm vườn

Nấu nướng

Cắm trại

Đánh bắt cá

Đi bộ đường dài

Các trò chơi ngoài trời

Một số nghề nhất định, như:

Nông dân

Người làm vườn

Kiểm lâm

Đầu bếp và nhân viên nhà bếp

Người pha chế

Làm thế nào chẩn đoán bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng và ánh sáng

Các bác sĩ thường chẩn đoán bệnh viêm da do tiếp xúc ánh sáng và cây trồng bằng cách dựa và hỏi lịch sử bệnh của một người và thực hiện khám sức khoẻ. Bác sĩ sẽ hỏi về các hoạt động gần đây, tiếp xúc với thực vật, ánh nắng mặt trời, và các triệu chứng hiện tại và trước đó. Họ cũng sẽ kiểm tra vùng da bị ảnh hưởng.

Nếu bác sĩ không chắc chắn hoặc muốn loại trừ các điều kiện khác, họ có thể tiến hành các xét nghiệm thêm, chẳng hạn như xét nghiệm vùng da tổn thương, sinh thiết da.

Các trường hợp nhẹ của bệnh viêm da do tiếp xúc ánh sáng và cây trồng không phải lúc nào cũng đòi hỏi sự chăm sóc y tế. Tuy nhiên, nếu triệu chứng nặng hoặc kéo dài nên đến khám tại các cơ sở khám da liễu có uy tín.

Cần lưu ý rằng bệnh viêm da do tiếp xúc ánh sáng và cây trồng thường bị chẩn đoán sai. Có thể bị nhầm lẫn với:

Viêm da dị ứng

Bỏng hóa học

Viêm tế bào

Nhiễm nấm da

Các dạng viêm da tiếp xúc khác

Cháy nắng

Những lựa chọn điều trị bệnh

Áp lạnh cho da có thể giúp điều trị bệnh phytophotodermatitis.

Các lựa chọn điều trị

Hầu hết các trường hợp viêm da do tiếp xúc ánh sáng và cây trồng đều chỉ cần can thiệp tối thiểu. Điều trị nhằm giảm đau và rút ngắn thời gian các triệu chứng.

Tránh tiếp xúc lại – điều quan trọng là phải thực hiện các biện pháp để tránh cây trồng gây ra phản ứng trên da. Đối với nhiều người, điều này có thể đủ để làm dịu các triệu chứng.

Tránh các chất kích thích da khác – bạn nên mặc quần áo bằng bông và tránh sử dụng các chất tẩy rửa, xà phòng và các sản phẩm chăm sóc cá nhân có thể gây ra các triệu chứng tồi tệ hơn.

Áp lạnh – đặt một khăn lạnh vào vùng da bị tiếp xúc.

Các loại kem đặc trị – sử dụng thuốc mỡ, kem dưỡng da và kem cho da có thể làm giảm sưng và ngứa.

Corticosteroid – các loại steroid tại chỗ sẽ làm giảm chứng viêm và ngứa.

Thuốc giảm đau không cần kê toa – thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), chẳng hạn như aspirin và ibuprofen, có thể giúp giảm đau và sưng tấy.

Các loại thuốc kê toa – bác sĩ có thể kê toa thuốc corticosteroids hoặc thuốc kháng histamine cho các triệu chứng nặng.

Giảm tiếp xúc với ánh nắng mặt trời – dành ít thời gian hơn cho ánh nắng mặt trời, đặc biệt là khi tia UV ở mức cao nhất, có thể giúp ngăn ngừa sự tăng sắc tố trở nên tối hơn. Cũng mặc kem chống nắng khi bạn không thể tránh ánh nắng mặt trời.

Không có cách chữa trị cho da tăng sắc tố, ngoại trừ để chờ cho nó tự biến mất.

Các trường hợp nặng của bệnh viêm da do tiếp xúc ánh sáng và cây trồng, hoặc những người có vùng tổn thương lên đến hơn 30 phần trăm da, có thể cần điều trị tại bệnh viện bao gồm điều trị bằng corticosteroid và tiêm truyền tĩnh mạch (IV).

Quang trị liệu là một loại điều trị bằng tia cực tím được sử dụng cho một số bệnh về da như bệnh vẩy nến. Tuy nhiên, nó không được khuyến cáo cho viêm da do tiếp xúc cây trồng, ánh sáng do nó có thể làm cho sắc tố thậm chí còn sậm màu hơn.

Các biện pháp làm trắng da cũng nên tránh trong các trường hợp viêm da do tiếp xúc cây trồng, ánh sáng bởi vì phương pháp này này đã không được chứng minh có thể giúp thay đổi tình trạng.

Trong một số trường hợp, viêm da do tiếp xúc cây trồng, ánh sáng có thể dẫn đến những biến chứng sau:

Nhiễm khuẩn và nấm da

Phản ứng dị ứng nghiêm trọng

Sự tái phát của các triệu chứng khi phơi nhiễm tiếp theo

Tâm lý lo ngại

Có thể ngăn ngừa bệnh được không được

Phản ứng da viêm kết hợp với viêm da do tiếp xúc cây trồng, ánh sáng có thể được ngăn ngừa bằng cách:

Xác định các loài thực vật gây dị ứng da hoặc chất kích thích và thực hiện các biện pháp để tránh tiếp xúc với chúng.

Rửa tay với xà bông và nước sau khi nấu nướng, thời gian ngoài trời kéo daif, hoặc tiếp xúc với thực vật. Rửa giúp loại bỏ các chất hoá học của thực vật khỏi da.

Bảo vệ da với quần áo phù hợp khi ở ngoài trời và trong khu vực rừng cây, cánh đồng.

Mang găng tay khi làm vườn.

Mang găng tay chuẩn bị thức ăn khi nấu hoặc cắt trái cây có múi.

Sử dụng kem chống nắng trước khi để da tiếp xúc với ánh mặt trời.

Bài viết Lạ mà quen: bệnh viêm da do tiếp xúc cây trồng và ánh sáng tự nhiên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-viem-da-do-tiep-xuc-cay-trong-anh-sang-9866/feed/ 0
Vết thương liền như thế nào trong bệnh ngoại khoa https://benh.vn/vet-thuong-lien-nhu-the-nao-trong-benh-ngoai-khoa-4372/ https://benh.vn/vet-thuong-lien-nhu-the-nao-trong-benh-ngoai-khoa-4372/#respond Mon, 16 Oct 2023 01:55:12 +0000 http://benh2.vn/vet-thuong-lien-nhu-the-nao-trong-benh-ngoai-khoa-4372/ Vết thương là các thương tổn gây rách, đứt da hoặc niêm mạc và các phần khác của cơ thể. Sự liền vết thương là một quá trình phục hồi cơ bản trong bệnh lý ngoại khoa, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mức độ, tính chất thương tổn, sức chống đỡ của cơ thể và cách xử trí.

Bài viết Vết thương liền như thế nào trong bệnh ngoại khoa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Trong bệnh lý ngoại khoa, liền vết thương đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó thể hiện thành công hay thất bại của việc điều trị. Vết thương là các thương tổn gây rách, đứt da hoặc niêm mạc và các phần khác của cơ thể. Sự liền vết thương là một quá trình phục hồi cơ bản trong bệnh lý ngoại khoa, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mức độ, tính chất thương tổn, sức chống đỡ của cơ thể và cách xử trí.

vet-thuong-mo-khau-chi

Diễn biến của vết thương trải qua 2 quá trình: liền vết thương kỳ đầu và liền vết thương kỳ hai.

Liền vết thương kỳ đầu

Khi vết thương gọn sạch, được xử trí sớm và đúng nguyên tắc, đúng kỹ thuật, được khâu kín kỳ đầu, hai bờ miệng vết thương áp sát vào nhau, không bị viêm nhiễm, không có hoại tử tổ chức. Chất tơ huyết đọng ở 2 mép vết thương có tác dụng như keo: kết dính. Các mô bào, nguyên bào sợi, bạch cầu tập trung lấp đầy khe giữa 2 mép vết thương và mô hạt được hình thành.

Quá trình tổng hợp chất collagen do nguyên bào sợi được tiến hành từ ngày thứ hai sau khi bị thương, đạt cao điểm ở ngày thứ năm, thứ bảy sau khi bị thương.

Quá trình mô hoá ở lớp biểu bì hoặc ở lớp niêm mạc hoàn thành trong 6 đến 8 ngày, như vậy vết thương liền ngay ở kỳ đầu. Mức độ liền chắc của 2 mép và vết thương cũng đạt kết quả cao ở ngày thứ 5, thứ 7.

Liền vết thương kỳ hai

Khi vết thương tổn thương nhiều tổ chức, hai bờ miệng vết thương cách xa nhau, bị nhiễm khuẩn thì quá trình liền vết thương sẽ diễn biến dài hơn, nếu thể tích thương tổn lớn thì cơ thể phải huy động các nguồn dự trữ đến để bảo vệ và tái tạo vết thương. Quá trình này trải qua 3 giai đoạn sinh học.

Giai đoạn viêm (Giai đoạn tự tiêu, giai đoạn dị hoá, giai đoạn tiềm):

Giai đoạn viêm diễn ra trong 5 ngày đầu với các triệu chứng được nhà danh y cổ đại Celsus (25 trước CN-45 sau CN) mô tả: “đỏ, nóng, xưng, đau”. Về sinh bệnh học thể hiện bằng: rối loạn cục bộ tuần hoàn máu do các kích thích gây ra từ vết thương. Vài giờ sau khi bị thương có sự thâm nhập các bạch cầu đa nhân, các đại thực bào (bạch cầu đơn nhân và các tế bào thuộc hệ thống lưới nội mô). Chúng tiết ra các men phân hủy các tế bào bị thương tổn thành các phân tử lớn rồi tiêu hoá chúng. Các đại thực bào bài tiết chất lactat và các yếu tố điều chỉnh sự tăng sinh và khả năng tổng hợp của các nguyên bào sợi, các nguyên bào sợi di chuyển tới từ 1 đến 3 ngày sau khi bị thương, sự phân chia nguyên bào sợi từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6 sau khi bị thương.

Trong giai đoạn viêm có sự tăng sản chất mucopolysaccarit do các nguyên bào sợi tiết ra tại vết thương. Khi có các tế bào viêm xâm nhập. Lượng hexosamin toàn phần tăng cao và các biểu hiện dương tính dị sắc (merachromasia) từ ngày thứ 1 và đạt đỉnh cao ở ngày thứ 5, thứ 6 sau khi bị thương. Khi mà các sợi collagen bắt đầu hình thành và thể hiện rõ về hoá tổ chức.

Trong giai đoạn viêm này các tế bào bị thương tổn tiết ra những chất sinh học: leukotoxin (làm tăng tính thấm thành mạch, làm bạch cầu chuyển động qua thành mạch), necrosin (men tiêu các mô hoại tử), các yếu tố kích đông bạch cầu… Các tế bào chuyên biệt còn tiết ra fibronectin có ảnh hưởng đến cơ chế kháng tại chỗ của vết thương đối với các tế bào bị tiêu hủy và các chất ngoại lai. Có sự tăng nồng độ histamin do các tế bào bón và các tế bào ái kiềm tiết ra.

Trong giai đoạn này, môi trường vết thương toan hoá, pH: 5,4 – 7. Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 4 xuất hiện hiện tượng tân tạo mạch máu.

Giai đoạn tăng sinh (Giai đoạn đồng hoá, giai đoạn collagen):

Bắt đầu từ ngày thứ 6 đến khi vết thương liền khỏi hoàn toàn.

Về mặt sinh học:

Các mầm mao mạch được mọc lên thành các quai mao mạch có nội mạc tương đối dày, phát triển mọc thẳng lên và song song với nhau từ các tế bào liên kết trẻ, đa số là nguyên mô bào và mô bào (histioblast, histiocyt) rồi đến các bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái toan, các tương bào, các nguyên bào sợi.

Giữa các tế bào liên kết và các quai mao mạch có các sợi keo và các chất căn bản (dịch quánh gồm nước 80 – 90%, chất đạm 7 – 15%, chất mucopolysaccarit 3%).

Mô hạt:

Gồm các tế bào liên kết non mới được phân chia, các tơ, sợi liên kết và chất cơ bản (có chứa nhiều glucoaminoglycan).

– Các thành phần của mô liên kết đều có nhiệm vụ sinh học trong việc tái tạo tổ chức, tỷ lệ tăng sinh các đại thực bào và nguyên bào sợi là sự phản ánh của sức đề kháng và khả năng tái tạo thuận lợi của vết thương. Việc ngừng tăng sinh của nguyên bào sợi là do mật độ của chúng ở trong vết thương quyết định; mật độ của chúng cao nhất ở tuần lễ thứ tư.

– Các nguyên bào sợi có chức năng tổng hợp các phần tử tạo keo protocollagen và tiết chúng vào chất căn bản của mô liên kết. Các tơ collagen được tạo thành do quá trình trùng hợp các phân tử protocollagen, lúc đầu được phân bố thành một lưới hỗn độn giữa các quai mạch và các tế bào. Sau đó được định hướng thành 2 lớp:

– Lớp nông: xếp dọc thẳng đứng so với nền vết thương.

– Lớp sâu: xếp song song với nền vết thương.

Khi đã định hướng xong vị trí, các tơ collagen phát triển và hợp với nhau thành các sợi collagen nhờ các mucopolysaccarit của chất căn bản trở thành bền dai và không hoà tan. Tùy theo tính chất mô bị thương tổn mà có một sự chuyên biệt hoá các nguyên bào sợi: nguyên bào sợi cơ (myofibroblast), nguyên bào sụn (chondroblast), nguyên bào xương (osteoblast), sự sắp xếp các tơ và sợi collagen cũng phụ thuộc vào tính chất mô.

Sự tổng hợp chất collagen của nguyên bào sợi đòi hỏi các điều kiện sau: môi trường hơi axit và có chất khử và có phân áp oxy 10 – 20 torre.

Sự tổng hợp các chất glycoaminoglycan được tiến hành tại vết thương cùng với sự tổng hợp chất collagen từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 16 sau khi bị thương.

Quá trình tổng hợp collagen từ dạng nguyên sinh đầu tiên đến dạng hoàn chỉnh cuối cùng ở ngày thứ 40 – 50.

– Mô hạt là hàng rào đề kháng; các tế bào liên kết giữ vai trò đội quân diệt các vi khuẩn.

– Hiện tượng biểu mô hoá từ các tế bào biểu mô của lớp biểu bì tăng sinh sẽ lan phủ, che kín diện mô hạt và vết thương thành sẹo.

Nếu mô hạt không được che phủ bởi lớp biểu mô thì việc tiến triển liền sẹo của vết thương sẽ không thuận lợi, kéo dài, mô hạt sẽ già, trở thành một khối xơ chắc (fibrocyte), các quai mạch máu giảm dần, các sợi collagen xơ hoá.

Giai đoạn tái tạo tổ chức (Giai đoạn tái lập mô collagen):

Là quá trình tái tạo tổ chức sẹo mới hình thành trong đó có sự tái lập và sự giảm bớt mô tạo keo, sự tạo lại mô xơ thành lớp đệm mỡ.

– Chất collagen được tái xây dựng bằng các quá trình phân nhỏ ở mức độ cao nhất vào thời gian 40 – 60 ngày sau khi bị thương được sắp xếp một cách có thứ tự, định hướng và kết hợp chặt chẽ với chất glycoaminoglycan để thành các bó mô tạo keo và sẽ giảm dần trong tổ chức sẹo. Thời kỳ này tương ứng với các triệu chứng lâm sàng. Trong thời gian đầu thể tích của sẹo lớn ra (ngày thứ 25 đến 50 sau khi thành sẹo), sẹo hơi chắc, dày, bề mặt sẹo cao hơn mặt da, sẹo dính vào các tổ chức lân cận, ít di động (2 – 3 tháng đầu). Nếu theo dõi sẽ thấy sau đó là thời kỳ sẹo co.

– Dần dần các quai mao mạch trong sẹo giảm về số lượng, có sự tạo lại mô xơ với sự xuất hiện tổ chức mỡ trong sẹo, các nguyên bào sợi còn rất ít, các bó xơ trở nên dẹt và mỏng. Thời kỳ này tương ứng với trạng thái sẹo không co nữa khi theo dõi lâm sàng. Lớp đệm mỡ được hình thành; tính đàn hồi được phục hồi, sẹo trở thành mềm mại di động được.

Quá trình phục hồi cảm giác theo thời gian: từ 3 tháng trở đi có xu hướng phục hồi xúc giác. Trong năm đầu có thể phục hồi 95% cảm giác đau. Cuối năm thứ hai phục hồi cảm giác nhiệt. Sau 6 tháng đến 1 năm sẹo sẽ tiến triển theo hướng ổn định hoặc hướng bệnh lý.

– Sẹo ổn định: các bó sợi collagen được phân bố có trật tự sắp xếp theo các hướng dọc, nghiêng nhất định có sự phát triển của các tế bào mỡ xen kẽ giữa các bó sợi, làm cho tính di động và tính bền cơ học của sẹo được hình thành.

– Sẹo phì đại: do sự phát triển không ổn định, không bình thường của chất tạo keo và mô xơ. Sẹo trở nên dày chắc, gây cảm giác căng, cao hơn mặt da bình thường, ít di động, diện sẹo thu hẹp lại so với khởi điểm (30% – 40%). Có nhiều khả năng tự khỏi sau 3 – 4 tháng tiến triển. Nếu phẫu thuật lấy sẹo đi thì thường ít tái phát.

– Sẹo lồi: do sự phát triển không ổn định, không bình thường của chất tạo keo và mô xơ. Sẹo lồi phát triển to, dày, chắc, căng máu, tím đỏ, ngứa, có khi đau, không thể tự khỏi, khi phát triển thì có tính chất lan sang các tổ chức da lân cận. Trên cơ thể đã có sẹo lồi thì các nơi có sẹo đều phát triển thành sẹo lồi (bệnh sẹo lồi).

Nguyên nhân gây sẹo lồi đến nay vẫn chưa xác định được rõ rệt. Về tiến triển, sẹo lồi không tự khỏi mà có su hướng phát triển, tỷ lệ tái phát cao sau mổ và điều trị (tới trên 40 – 50%).

– Sẹo bị lo t lâu liền: do quá trình biểu mô hoá không hoàn chỉnh, từ các đám mô hạt không được phủ kín, hoặc từ các sẹo bỏng đã liền nhưng bị chấn thương phụ, bị căng nứt. Tiến triển của lo t k o dài nhiều năm có thể bị thoái hoá ung thư.

– Sẹo bị ung thư hoá: thời gian chuyển sang ác tính có thể ngắn (vài tuần), nhưng thường rất dài (vài năm đến hàng chục năm). Thường gặp thể ung thư biểu mô dạng biểu bì, ít gặp thể ung thư biểu mô tế bào đáy.

Trên lâm sàng thấy vết loét có đáy sần sùi, cứng, bờ của loét nổi gờ cao, có những nốt sần tròn nhỏ. Tiến triển dai dẳng, kéo dài, loét tiết dịch hôi, thường bị nhiễm khuẩn, có khi thấy những kẽ nứt ở đám sẹo.

– Sẹo co kéo: do quá trình tăng sinh các nguyên bào sợi cơ, các sợi tạo keo, dẫn tới một quá trình giảm các thớ cơ, hình thành các dải xơ ở dưới sẹo, dưới lớp cân. Quá trình co kéo có thể chỉ do sẹo da đơn thuần hoặc có thể co kéo cả lớp cân, gân, cơ, bao khớp, dây chằng, do các dải xơ dưới sẹo gây nên. Sẹo co kéo không hồi phục lại được.

– Sẹo dính: khi có một diện mô hạt rộng ở các phần của cơ thể tiếp giáp nhau, khi thay băng không để tách nhau ra, mà cứ để thành một khối. Diện mô hạt phát triển thành một khối chung và được biểu mô che phủ khi hình thành sẹo, nên các phần cơ thể này dính vào nhau.

Điều trị liền vết thương

– Xử trí vết thương kỳ đầu: nhằm cầm máu, chống nhiễm khuẩn, giảm đau, dự phòng và điều trị các biến chứng cấp tính do các vết thương gây ra.

– Sơ cứu vết thương: băng bó, cầm máu, cố định, vận chuyển về tuyến điều trị.

– Tại tuyến điều trị: khám tại chỗ và toàn thân, chống sốc, thay băng xử trí phẫu thuật kỳ đầu vết thương đúng nguyên tắc và đúng kỹ thuật. Bất động chi thể có vùng bị thương.

– Tùy theo tính chất, vị trí và mức độ tổn thương mà đề ra chiến thuật và kỹ thuật xử trí khác nhau.

– Khi vết thương đã hết giai đoạn viêm nhiễm và đã loại bỏ sạch các tổ chức hoại tử, tùy theo kích thước và tính chất của giai đoạn tái tạo tổ chức mà quyết định khép kín miệng vết thương bằng khâu kín kỳ hai hoặc ghép da các loại.

Cần chú ý nuôi dưỡng và tăng cường sức đề kháng toàn thân. Cần theo dõi diễn biến tại chỗ và toàn thân trong quá trình điều trị để vết thương mau lành, hạn chế những biến chứng và di chứng sau này.

Bài viết Vết thương liền như thế nào trong bệnh ngoại khoa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/vet-thuong-lien-nhu-the-nao-trong-benh-ngoai-khoa-4372/feed/ 0
Bệnh nấm tóc https://benh.vn/benh-nam-toc-4774/ https://benh.vn/benh-nam-toc-4774/#respond Sun, 15 Oct 2023 14:10:17 +0000 http://benh2.vn/benh-nam-toc-4774/ Việt Nam là một nước khí hậu nhiệt đới, nóng, ẩm nên rất thuận lợi cho các chủng nấm phát triển. Các bệnh nấm ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú, trong đó có bệnh nấm tóc. Bệnh không nguy hiểm tới tính mạng nhưng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống.

Bài viết Bệnh nấm tóc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Việt Nam là một nước khí hậu nhiệt đới, nóng, ẩm nên rất thuận lợi cho các chủng nấm phát triển. Các bệnh nấm ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú, trong đó có bệnh nấm tóc. Bệnh không nguy hiểm tới tính mạng nhưng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống.

benh-nam-toc

Bệnh nấm tóc ảnh hưởng nặng tới chất lượng cuộc sống, thẩm mỹ (Ảnh minh họa)

Nấm gây các bệnh ở da, tóc, móng và niêm mạc được gọi là bệnh nấm nông. Nấm gây bệnh ở tóc chủ yếu do hai loại nấm sợi là Trichophyton và Microsporum. Các loại nấm tóc gồm nhiều loại khác nhau và có tỷ lệ mắc khác nhau tuỳ từng vùng. Những người lao động vất vả đầu tóc luôn đẫm mồ hôi, bụi bặm mà ít được tắm gội hoặc người tiếp xúc nhiều với gia súc thường hay bị nấm tóc hơn.

Bệnh nấm tóc nếu không được điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của người bệnh và là nguồn lây nhiễm trong cộng đồng.

Các thể nấm tóc và chẩn đoán bệnh

Các loại nấm nông có thể gây bệnh ở da đầu, chân tóc làm tóc bị khô, gãy hoặc xén tóc. Các hình thái bệnh Nấm tóc sau hay gặp trên thực tế.

Bệnh Favus

Căn nguyên: do Trichophyton schonleini, Trichophyton quynckeanum, Trichophyton gypseum.

Triệu chứng lâm sàng: trên da đầu có các đám vảy tiết nhỏ màu vàng và có mùi hôi đặc biệt (mùi chuột chù). Nếu cạy vảy sẽ để lại một hố lõm. Thương tổn khu trú ngay dưới chân tóc. Sợi tóc trong vùng thương tổn không rụng nhưng khô, mất vẻ bóng nhoáng.

Xét nghiệm thấy bào tử nấm trong lòng sợi tóc.

Nấm tóc gây thâm nhiễm và mưng mủ (Kerion de celse – Nấm tổ ong)

Căn nguyên: do Trichophyton canis, Trichophyton verrucosum, Microsporum mentagrophytes.

Triệu chứng lâm sàng: bệnh hay gặp ở trẻ em nông thôn có tiếp xúc với các loại gia súc, chủ yếu là mèo. Thương tổn cơ bản đầu tiên là các mụn mủ ở một số chân tóc, sau đó lan dần ra xung quanh, tạo thành một mảng lớn nổi cao, thâm nhiễm. Bề mặt thương tổn ghồ ghề, có nhiều vảy. Nếu cạy vảy thấy lỗ chỗ như tổ ong chứa nhiều mủ. Tại đám thương tổn tóc bị rụng.

Xét nghiệm: thấy bào tử nấm thành chuỗi bao quanh sợi tóc.

Bệnh nấm làm trụi tóc

Căn nguyên: Trichophyton violaceum, Trichophyton tonsurarans, Trichophyton sondaneuse.

Triệu chứng lâm sàng: bệnh có thể gặp ở cả trẻ em và người lớn. Thương tổn cơ bản là các đám bong vảy ở da đầu.Tóc trong vùng bị bệnh gãy sát da đầu, nhìn kỹ thấy các chấm đen. Có thể các mảng bong vảy liên kết tạo thành mảng lớn tóc gãy không đều. không thấy ngứa.

Xét nghiệm thấy các bào tử nấm xếp thành chuỗi trong lòng sợi tóc.

Nấm xén tóc

Căn nguyên do Microsporum andouini, Microsporum langeroni, Microsporum canis.

Triệu chứng lâm sàng: bệnh hay gặp ở trẻ em và lây truyền do dùng chung mũ, nón, lược. Thương tổn là các mảng da bong vảy ở đầu, hình tròn hay bầu dục. Tóc trong vùng đó bị xén cách da đầu khoảng 5 – 8 cm. Chân tóc còn lại được phủ một lớp trắng như “ đi bít tất”.

Xét nghiệm thấy các bào tử nấm bao quanh sợi tóc.

Điều trị và phòng bệnh nấm tóc

Nấm tóc là bệnh có nhiều nguyên nhân nên cần được điều trị theo đơn của bác sĩ. Bệnh nhân cần hiểu rõ về bệnh tật để dùng thuốc một cách phù hợp, không tự dùng các loại thuốc kháng nấm vì có thể gây ảnh hưởng tới gan, thận.

Các thuốc sử dụng trong điều trị bệnh nấm tóc

  • Thuốc bôi tại chỗ: dung dịch BSI, kem nizoral, kem clotrimazol…Tuy nhiên, các thuốc bôi tại chỗ thường ít tác dụng vì nấm theo sợi tóc ăn xuống sâu.
  • Toàn thân: có thể dung một trong các loại thuốc sau đây: griseofulin, itraconazol, ketoconazol.
  • Riêng với nấm tổ ong (Kerion de celse): chích rạch mủ, bôi thuốc chống nhiễm khuẩn, phối hợp thuốc chống nấm. Có thể cho kháng sinh chống nấm đường toàn thân.

Phòng bệnh nấm tóc

Để phòng tránh bệnh Nấm tóc, ngoài việc vệ sinh cá nhân sạch sẽ, vệ sinh nơi ở, bạn cần chú ý tới các nguồn lây nhiễm. Một số điều cần ghi nhớ trong phòng bệnh Nấm tóc như sau:

  • Không gội quá nhiều, không dùng nước gội có độ tẩy gầu cao, không cào gãi mạnh làm xây xước da đầu.
  • Luôn giữ tóc khô, sạch. Nên xả nhiều nước sau khi gội đầu, làm khô tóc sau khi gội hay đi ngoài trời mưa. Không đội mũ quá chật và ủ quá lâu, sẽ làm cho tóc ẩm, dễ bị bệnh..
  • Tránh gội đầu quá nhiều và dùng chung khăn, lược, mũ với người khác, đặc biệt là những người tóc có nhiều gàu hoặc các biểu hiện của bệnh nấm tóc.
  • Khi thấy ngứa và nổi sẩn ở da đầu, cần kịp thời đến khám bệnh ở thầy thuốc chuyên khoa Da liễu. Việc tự ý bôi thuốc không những không có tác dụng mà còn làm bệnh trở nên nặng thêm.

Nếu được phát hiện và điều trị sớm, đúng phương pháp, có chế độ gội đầu hợp lý, bệnh viêm chân tóc có thể chữa khỏi.

Nấm tóc là bệnh lây, nên cần lưu ý để phòng tránh lây nhiễm cho các thành viên trong gia đình.

Bài viết Bệnh nấm tóc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-nam-toc-4774/feed/ 0
Biến chứng từ bệnh áp xe cơ – Nguy hiểm chớ coi thường https://benh.vn/bien-chung-tu-benh-ap-xe-co-nguy-hiem-cho-coi-thuong-5890/ https://benh.vn/bien-chung-tu-benh-ap-xe-co-nguy-hiem-cho-coi-thuong-5890/#respond Sat, 05 Aug 2023 05:35:38 +0000 http://benh2.vn/bien-chung-tu-benh-ap-xe-co-nguy-hiem-cho-coi-thuong-5890/ Trong cuộc sống, đôi khi vì một lý do nào đó trên cơ thể xuất hiện những vùng nhức nhối, đau đớn…Đi khám, bác sỹ chuyên môn kết luận bị bệnh áp-xe. Vậy áp-xe là gì? Biến chứng từ bệnh áp-xe nguy hiểm như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này.

Bài viết Biến chứng từ bệnh áp xe cơ – Nguy hiểm chớ coi thường đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Trong cuộc sống, đôi khi vì một lý do nào đó trên cơ thể xuất hiện những vùng nhức nhối, đau đớn…Đi khám, bác sỹ chuyên môn kết luận bị bệnh áp-xe. Vậy áp-xe là gì? Biến chứng từ bệnh áp-xe nguy hiểm như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này.

Thế nào là áp-xe cơ

Áp-xe là một vùng tụ mủ ở bất cứ nơi nào trên cơ thể con người do vi trùng, ký sinh trùng hoặc nấm gây nên.

Có những ổ áp-xe ngoài da rất dễ nhận thấy (áp-xe da), ngược lại, có những ổ áp-xe nằm trong cơ thể (áp-xe cơ) có thể âm thầm gây ra những tổn thương nghiêm trọng.

apxe-tai-co

Áp-xe là vùng tụ mủ do vi trùng, ký sinh trùng hoặc nấm gây nên.

Triệu chứng áp xe cơ

Triệu chứng của áp xe sẽ khác nhau ở từng giai đoạn bệnh, cụ thể như sau.

Giai đoạn 1 áp xe

  • Sưng cơ, có thể đỏ hoặc đau nhẹ.
  • Sau từ 2-4 tuần thấy cơ sưng tấy đỏ rất đau.
  • Có cảm giác bùng nhùng khi ấn, chọc hút ra mủ.

Giai đoạn 2 áp xe

  • Xuất hiện các biến chứng như áp-xe xa, viêm khớp lân cận, sốc nhiễm khuẩn…
  • Hội chứng nhiễm khuẩn: sốt cao 39-40oC, sốt liên tục, dao động.

Lưu ý phân biệt: Viêm cơ thắt lưng chậu đau ở vùng hạ sườn,  không duỗi được chân bên có cơ bị viêm, (xảy ra sau nhiễm khuẩn ở đường tiết niệu sinh dục hoặc các phẫu thuật ở vùng bụng) hay bị nhầm với viêm khớp háng.

Nguyên nhân gây áp-xe cơ

  • Do viêm nhiễm ở da, vết thương.
  • Do các thủ thuật tiêm chích, châm cứu… không đảm bảo vô khuẩn…

cham-cuu

Nguyên nhân gây áp-xe do vết thương hở, thủ thuật châm cứu…không đảm bảo vô khuẩn.

Các vi khuẩn gây áp-xe cơ

  • Tụ cầu, lậu cầu, phế cầu, não mô cầu.
  • Vi khuẩn gram âm như trực khuẩn mủ xanh và các vi khuẩn yếm khí khác.

 Đường xâm nhập của vi khuẩn

  • Qua các tổn thương nhiễm khuẩn ở da.
  • Chấn thương gây dập rách cơ, viêm cơ, viêm gân, mụn nhọt.
  • Do viêm nhiễm bộ phận sinh dục, tiết niệu.
  • Do thực hiện các kỹ thuật tiêm chích, châm cứu, tiêm nội khớp, tiêm bắp… không đảm bảo vô khuẩn, nhiễm khuẩn huyết, viêm đa cơ, viêm các màng…

Các yếu tố nguy cơ gây áp-xe cơ

  • Bệnh nhân đái tháo đường.
  • Người sử dụng corticoid kéo dài.
  • Người già, trẻ em.
  • Người bị suy dinh dưỡng, cơ thể suy kiệt, suy giảm hệ miễn dịch.
  • Người bị mắc các bệnh lý ác tính…

Biến chứng từ áp-xe cơ, phương pháp điều trị và phòng ngừa

Áp xe cơ gây ra biến chứng nguy hiểm đối với cơ thể hơn các loại áp xe khác. Do đó, điều trị cần lưu ý tiến hành sớm và nên có các biện pháp phòng ngừa.

Biến chứng từ áp xe cơ

  • Gây nhiễm khuẩn máu.
  • Nguy cơ tử vong cao ở người già, trẻ em, người bị suy giảm miễn dịch…

Phương pháp điều trị áp xe cơ

  • Dùng kháng sinh sớm, mạnh, liều cao (dùng kháng sinh dựa theo kháng sinh đồ).
  • Chọc hút dẫn lưu mủ hoặc phẫu thuật dẫn lưu ổ mủ.
  • Chống sốc nhiễm khuẩn.
  • Phối hợp điều trị hạ sốt, giảm đau (dùng 4-6 viên paracetemol 0,5g/ngày).

Ngoài ra cần nâng cao thể trạng cho bệnh nhân bằng chế độ dinh dưỡng giàu đạm, bổ sung vitamin C, nhóm B…

Phương pháp phòng áp xe cơ

  • Đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn khi làm thủ thuật như tiêm chích, châm cứu…
  • Điều trị tích cực các ổ viêm nhiễm.
  • Vệ sinh cơ thể sạch sẽ trong mùa hè  (tránh viêm nhiễm da) dẫn đến áp-xe.
  • Bổ sung dinh dưỡng, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể…

kham-benh-va-dieu-tri

   Khám và điều trị tích cực các ổ viêm nhiễm.

Lời kết

Bệnh áp-xe cơ thường gặp vào mùa hè, ở trẻ em và người già do nắng nóng, cơ thể ra nhiều mồ hôi, tạo điều kiện cho vi khuẩn trên da phát triển và gây bệnh. Mặt khác, nguyên nhân gây áp-xe cơ do không đảm bảo vô khuẩn trong quá trình tiêm, truyền, châm cứu cho bệnh nhân…

Vì vậy, những người đang trong thời gian điều trị bệnh theo phương pháp tiêm chích, châm cứu… cần đảm bảo vô khuẩn để tránh nhiễm khuẩn và áp-xe cơ qua vết tiêm hay châm cứu. Trẻ em và người già trong những ngày nắng nóng cần ăn uống đầy đủ dưỡng chất, tắm rửa hàng ngày để giữ sạch da, tránh mụn nhọt phát triển.

Đặc biệt, đối với những người đang có vết thương trên da, người bị viêm nhiễm bộ phận sinh dục, tiết niệu, đái tháo đường… cần điều trị bệnh tích cực và tăng cường sức khỏe để phòng tránh áp-xe cơ.

Bài viết Biến chứng từ bệnh áp xe cơ – Nguy hiểm chớ coi thường đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/bien-chung-tu-benh-ap-xe-co-nguy-hiem-cho-coi-thuong-5890/feed/ 0