Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Sat, 14 Sep 2019 17:40:46 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Phòng tránh hiệu quả viêm khớp tái phát do bệnh Gút https://benh.vn/phong-tranh-hieu-qua-viem-khop-tai-phat-do-benh-gut-2503/ https://benh.vn/phong-tranh-hieu-qua-viem-khop-tai-phat-do-benh-gut-2503/#respond Tue, 26 Jul 2016 04:15:22 +0000 http://benh2.vn/phong-tranh-hieu-qua-viem-khop-tai-phat-do-benh-gut-2503/ Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số người mắc các bệnh lý chuyển hóa liên quan đến thói quen sinh hoạt và chế độ ăn uống như bệnh tiểu đường, rối loạn chuyển hóa mỡ, Gút ... ngày càng tăng và trở thành một vấn đề rất quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Bài viết Phòng tránh hiệu quả viêm khớp tái phát do bệnh Gút đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số người mắc các bệnh lý chuyển hóa liên quan đến thói quen sinh hoạt và chế độ ăn uống như bệnh tiểu đường, rối loạn chuyển hóa mỡ, Gút … ngày càng tăng và trở thành một vấn đề rất quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Gút là gì ?

Gút là một bệnh do rối loạn chuyển hoá các nhân purines, với đặc trưng là tăng acid uric trong máu và lắng đọng các tinh thể monosodium urate ở các tổ chức, các mô biểu hiện bằng viêm khớp; tích luỹ vi tinh thể ở khớp, xương, mô phần mềm, sụn khớp, được gọi là tophi; lắng đọng vi tinh thể ở thận, gây bệnh thận do gút; sỏi tiết niệu.

Gút là một bệnh  liên quan rất nhiều đến chế độ ăn uống, sinh hoạt, thường gặp ở nam giới và tuổi trung niên. Tuy bệnh  được biết đến từ rất lâu nhưng thực tế việc  điều trị  bệnh vẫn còn nhiều bất cập. Điều trị cơn Gút cấp thường không khó nhưng dự phòng tái phát bệnh, tránh những đợt viêm khớp tái phát và ngăn chặn bệnh chuyển sang mạn tính thường không dễ.

Rất nhiều bệnh nhân và ngay cả nhiều thầy thuốc chỉ điều trị viêm khớp cấp tính, sau vài ngày hết viêm khớp tưởng đã khỏi nên không có điều trị duy trì tiếp theo. Hậu quả là sau một thời gian ngắn một đợt viêm khớp cấp tính mới lại xuất hiện và bệnh diễn biến nhanh chóng  đến gút mạn tính với nhiều biến chứng nặng nề như phá hủy khớp, nổi u cục dưới da (cục tophi), sỏi  thận, suy thận…Do đó việc điều trị tốt dự phòng cơn Gút tái phát đóng vai trò vô cùng quan trọng nhằm hạn chế tối đa tác hại của bệnh đối với hệ xương khớp và hệ tiết niệu.

4 nguyên nhân chính gây tăng acid uric máu là:

– Do tăng tổng hợp purines và tăng cung cấp qua đường ăn uống

– Tăng dị hoá các acides  nhân nội sinh (tiêu tế bào, dùng thuốc điều trị ung thư).

– Giảm thải trừ acid uric qua thận (suy thận)

– Dùng  thuốc: Lợi  tiểu, pyrazynamid, corticoid, aspirin  liều thấp

Mục đích của điều trị dự phòng cơn Gút tái phát

Làm hạ thấp acid uric xuống dưới mức bình thường, bằng cách tác  động trên các nguyên nhân gây bệnh kể trên thông qua các biện pháp sau:

+ Chế độ ăn uống, sinh hoạt đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phòng và chữa bệnh và cần phải duy trì lâu dài gần như suốt  đời nên thực tế có nhiều bệnh nhân đã không tuân thủ tốt, do đó không đạt được mục đích điều trị.

– Chế độ ăn cho bệnh nhân Gút là ăn giảm đạm (100-150g thịt/ngày) ăn giảm kalo, giữ trọng  lượng cơ thể ở mức hợp lý. Đảm bảo uống đủ nước để thận có thể lọc tốt (2-2,5l/ngày). Kiềm hoá nước tiểu để tăng đào thải acid uric qua thận bằng các loại nước khoáng  có  kiềm  cao  hoặc  nước kiềm 14 %.

– Những thực phẩm không nên ăn: tránh thức ăn giàu purine (phủ tạng  động vật như gan, óc, tim, lòng, bầu dục, một số loại nấm, măng tây, tôm, cua, cá béo, cá hộp, thịt bê, đậu hạt các loại…). Có thể ăn trứng, sữa, hoa quả. Bỏ thức uống có cồn như rượu, bia…

– Tránh lao động quá mức, tránh các yếu tố có thể khởi phát cơn gút như chấn thương…

– Khi cần phải phẫu thuật hoặc mắc một bệnh toàn thân nào đó, phải chú ý theo dõi sát lượng acid uric máu để điều chỉnh kịp thời.

– Cố gắng loại bỏ mọi thuốc có thể làm tăng acid uric máu nếu có thể (corticosteroid, lợi  tiểu…)  hoặc thay bằng các thuốc khác.

– Nếu chế độ ăn đạt hiệu quả, tức là không có các cơn thường xuyên, acid uric máu dưới 60  mg/L(360 mmol/L), không có hạt tô phi và tổn thương thận, thì ta chỉ cần duy trì chế độ sinh hoạt và ăn uống như trên là đủ. Nếu không, chúng ta phải dùng thêm các thuốc làm giảm acid uric máu.

+ Biện pháp dùng thuốc:

–  Colchicin: Ngoài chỉ định trong điều trị cơn Gút cấp, Colchicin còn được sử dụng với mục đích dự phòng các cơn Gút tái phát. Thuốc không làm thay đổi nồng độ acid uric máu và sử dụng liều thấp (0;5-1 mg/ngày). Cần theo dõi tác dụng phụ (ỉa lỏng…) của thuốc để điều chỉnh hay kết hợp thuốc kịp thời.

– Thuốc làm hạ nồng độ acid uric máu:

+ Các thuốc ức chế tổng hợp acid uric do ức chế men xanthineoxydase, gây hạ acid uric máu và niệu. Thuốc hay được sử dụng nhất là Allopurinol (Zyloric) được chỉ định trong mọi trường hợp gút, nhất là trường hợp có tăng acid uric niệu, sỏi thận, suy thận. Song không nên dùng Allopurinol ngay trong khi đang có cơn cấp, mà nên đợi khoảng một tháng sau mới bắt đầu. Nếu đang dùng Allopurinol mà có đợt cấp, thì ta vẫn tiếp tục dùng thuốc bình thường. Liều thường dùng từ 100-300 mg/ngày, và tuỳ theo lượng acid uric máu mà chỉnh liều. Trị liệu này có tác dụng ngăn các cơn gút cấp, và làm các hạt tô phi, sỏi tiết niệu nhỏ dần và có thể biến mất. Chú ý thuốc hay gây dị  ứng và nếu xảy ra thì các tổn thương thường nặng.

– Một số thuốc khác như các thuốc tăng thải acid uric qua thận và ức chế hấp thụ acid uric  ở ống thận (Benémid, Anturan, Amplivix …) làm giảm acid uric máu, song làm tăng acid  uric niệu, nên có thể gây sỏi thận. Thuốc tiêu acid uric (Uricozyme): là enzym uricase có tác dụng chuyển acid uric thành allantoine dễ hoà tan. Các thuốc này ít  được sử dụng hơn.

Tóm lại

Bệnh Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa đòi hỏi phải điều trị và theo dõi lâu  dài nhưng cho kết quả tốt nếu bệnh nhân tuân thủ tốt chế độ sinh hoạt và ăn uống và thầy thuốc sử dụng phối hợp các thuốc một cách hợp lý. Chúng ta có thể hoàn toàn phòng tránh được các biến chứng nặng nề của bệnh.

TS.BS. Đào Hùng Hạnh, Bệnh viện Bạch Mai

Bài viết Phòng tránh hiệu quả viêm khớp tái phát do bệnh Gút đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phong-tranh-hieu-qua-viem-khop-tai-phat-do-benh-gut-2503/feed/ 0
Một số bệnh khớp hay gặp trong mùa rét https://benh.vn/mot-so-benh-khop-hay-gap-trong-mua-ret-2188/ https://benh.vn/mot-so-benh-khop-hay-gap-trong-mua-ret-2188/#respond Fri, 04 Mar 2016 04:09:17 +0000 http://benh2.vn/mot-so-benh-khop-hay-gap-trong-mua-ret-2188/ Miền Bắc nước ta hay trải qua những ngày rét đậm, rét hại có cường độ mạnh và thời gian kéo dài kỷ lục, ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ con người và hoạt động lao động, sản xuất. Tại các phòng khám, ngay trước và sau Tết, số lượng bệnh nhân đến khám bệnh đã tăng nhiều so với mọi năm. Người bệnh thuộc đủ các lứa tuổi nhưng tập trung nhiều nhất là trẻ em và người cao tuổi, tập trung nhiều ở các nhóm bệnh hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi; bệnh lý tim mạch như đột quỵ, tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim; bệnh lý cơ xương khớp như đợt tiến triển của các bệnh khớp mạn tính như viêm khớp, thoái hoá khớp...

Bài viết Một số bệnh khớp hay gặp trong mùa rét đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Miền Bắc nước ta hay trải qua những ngày rét đậm, rét hại có cường độ mạnh và thời gian kéo dài kỷ lục, ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ con người và hoạt động lao động, sản xuất. Tại các phòng khám, ngay trước và sau Tết, số lượng bệnh nhân đến khám bệnh đã tăng nhiều so với mọi năm. Người bệnh thuộc đủ các lứa tuổi nhưng tập trung nhiều nhất là trẻ em và người cao tuổi, tập trung nhiều ở các nhóm bệnh hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi; bệnh lý tim mạch như đột quỵ, tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim; bệnh lý cơ xương khớp như đợt tiến triển của các bệnh khớp mạn tính như viêm khớp, thoái hoá khớp…

Trời rét kèm theo độ ẩm tăng cao do mưa phùn, gây co các mạch máu ngoại vi làm giảm cung cấp máu cho các cơ quan ngoại biên trong đó có da, cơ, khớp gây các triệu chứng như đau mỏi cơ xương khớp, co cứng cơ vùng vai gáy, thắt lưng. Xin giới thiệu một số bệnh khớp thường gặp và chịu ảnh hưởng nhiều khi thời tiết giá lạnh.

Đau vai gáy hay đau thắt lưng

– Đau vai gáy hay đau thắt lưng do co cứng các cơ cạnh cột sống hay viêm các điểm bám tận của các gân vào đầu xương trong chứng bệnh đau cân cơ (fibromyalgia). Bệnh thường gặp ở những nhân viên văn phòng, đánh máy tính… Do trời lạnh, các cơ thưòng co lại để sinh nhiệt (rét run), tư thế “so vai, rụt cổ” để hạn chế tối đa trao đổi nhiệt với môi trưòng lạnh xung quanh. Các tư thế này phải duy trì trong thời gian dài làm cho các cơ cạnh cột sống bị giữ ở một tư thế lâu, gây mệt và mỏi cơ. Các triệu chứng hay đi kèm là trạng thái mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ…

Bệnh thấp khớp cấp

Bệnh thấp khớp cấp hay còn gọi là bệnh thấp tim, sốt do thấp, hay gặp ở lứa tuổi học đường, xuất hiện sau nhiễm trùng đường hô hấp trên, đặc biệt là viêm họng do nhiễm liên cầu khuẩn beta nhóm A vùng hầu họng. Đây là một bệnh toàn thân có tổn thương nhiều bộ phận (khớp, tim, da, thần kinh…), trong đó tổn thương khớp rất thường gặp. Bệnh phổ biến ở các nước chưa phát triển mà điều kiện kinh tế, văn hoá nói chung và y tế nói riêng còn chưa tốt. ở nước ta tỷ lệ mắc bệnh từ khoảng 4- 7%.

Nguyên nhân:

Nguyên nhân bệnh viêm khớp cấp do thấp là do nhiễm một loại vi khuẩn được gọi là liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A (Streptococcus pyogenes). Loại vi khuẩn này thường cư trú ở vùng hầu họng. Khi trẻ bị viêm họng, ngoài tình trạng viêm tại họng, vi khuẩn này không gây tổn thương tại chỗ mà thông qua một “tác động gây bệnh từ xa”

(thuật ngữ chuyên môn gọi là phản ứng miễn dịch), từ đó khởi phát các tổn thương ở khớp, tim, da, thần kinh… Cần lưu ý còn có một nhóm liên cầu khuẩn khác thường khu trú ở vùng da gây các bệnh da như chàm, chốc…, hoặc gây viêm cầu thận nhưng không gây bệnh viêm khớp do thấp.

Biểu hiện:

Trẻ ban đầu thường có biểu hiện viêm họng như sốt cao, mệt mỏi, đau rát họng, nuốt khó, ho khan hoặc có đờm. Khám thấy họng đỏ, amidan có thể sưng to, hạch góc hàm sưng to, đau. Viêm họng có thể tự khỏi hoặc nếu không được điều trị tích cực có thể gây biến chứng viêm phổi hoặc viêm tai giữa… Sau 2 đến 4 tuần kể từ khi bị viêm họng, ở một số trẻ (chứ không phải tất cả các trẻ bị viêm họng) có thể xuất hiện các triệu chứng của bệnh viêm khớp cấp do thấp.

Biểu hiện bệnh tại khớp thường là viêm nhiều khớp với đặc điểm: thường xảy ra đột ngột, hay gặp ở các khớp to vừa như khớp gối, cổ chân, khuỷu tay, cổ tay. ít gặp viêm các khớp nhỏ ở bàn tay, bàn chân. ít khi gặp viêm một khớp đơn độc. Các khớp bị viêm sưng to, nóng, đỏ, đau, có thể có dịch nhưng không bao giờ bị hóa mủ. Khớp viêm thường không đối xứng, hay di chuyển từ khớp này sang khớp khác. Thời gian viêm một khớp thường từ 3- 5 ngày. Viêm khớp có thể tự khỏi nhưng thường khỏi nhanh hơn khi dùng thuốc chống viêm. Trường hợp không điển hình khớp chỉ đau, không sưng, nóng, đỏ.

Trong khi biểu hiện ở khớp thường khỏi nhanh, khỏi hoàn toàn không để lại di chứng thì biểu hiện ở tim thường nặng nề và là biểu hiện nguy hiểm nhất của bệnh. Bệnh nhân bị viêm các bộ phận của tim (cơ tim, màng trong hoặc màng ngoài tim) dẫn đến các bệnh lý tim do thấp, có thể gây suy tim cấp và mạn tính. Đặc biệt hay gặp các bệnh lý di chứng van tim do thấp như hẹp hở van hai lá, van ba lá, van động mạch chủ…

Ngoài các triệu chứng ở khớp, ở tim… trẻ còn có thể có các triệu chứng thần kinh như múa giật, liệt, hôn mê; hoặc các triệu chứng đau bụng, tiểu ra máu… Tóm lại, ở trẻ lứa tuổi học đường (thường từ 6- 15 tuổi), nếu hay bị viêm họng kèm  đau khớp hoặc có các biểu hiện như kể trên, cần đến khám ngay tại các cơ sở y tế để phát hiện bệnh viêm khớp cấp do thấp (bệnh thấp tim). Việc phát hiện bệnh sớm, điều trị bệnh tốt có thể tránh các di chứng van tim sau này.

Điều trị bệnh:

Nếu viêm khớp đơn thuần thì người bệnh có tiên lượng tốt, khỏi hoàn toàn không để lại di chứng. Tình trạng viêm khớp có thể tự khỏi, nhưng khỏi nhanh hơn khi dùng thuốc chống viêm. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, tổn thương ở tim mới là hậu quả nguy hiểm nhất. Do đó khi nghi ngờ thấp tim cần đến ngay các cơ sở y tế chuyên khoa để phát hiện sớm, điều trị bệnh kịp thời. Việc điều trị bao gồm chống nhiễm khuẩn nhằm loại bỏ  liên cầu khuẩn (thường dùng các chế phẩm Penicillin), chống viêm (nhóm không Steroid như Aspirin, nhóm không Steroid như Prednisolon), điều trị triệu chứng như suy tim (nếu có).

Phòng bệnh:

Thấp tim là một bệnh có thể phòng có hiệu quả nếu chúng ta quan tâm đúng mức.

Việc dự phòng gồm phòng thấp ban đầu và phòng thấp tái phát. Phòng thấp ban đầu áp dụng cho trẻ chưa bao giờ bị thấp tim. Trẻ cần thực hiện vệ sinh răng miệng hàng ngày bằng đánh răng, xúc họng, ngậm họng bằng nước muối. Tránh cho trẻ tiếp xúc với người bị viêm nhiễm đường hô hấp trên. Các nhân viên y tế cần phát hiện sớm dịch viêm họng trong cộng đồng (nhà trẻ, mẫu giáo, trường học) để tránh lan tràn dịch, tránh bỏ sót bệnh nhân không được điều trị. Nếu cha mẹ phát hiện con mình bị viêm họng cần phải cho trẻ đi khám bệnh, làm xét nghiệm để phát hiện, điều trị sớm, đúng cách.

Những trẻ mắc các bệnh mạn tính vùng hầu họng cần được điều trị một cách triệt để. Viêm họng do liên cầu cần được điều trị bằng Penicillin trong khoảng 10 ngày. Trường hợp dị ứng Penicillin có thể dùng thuốc nhóm Cyclin như Erythromycin thay thế. Nếu có điều kiện thì tiêm vaccin dự phòng mắc liên cầu khuẩn. Ngoài ra cần cải thiện điều kiện sống nhằm tăng cường sức khỏe, tăng sức đề kháng bệnh.

Phòng thấp thứ phát áp dụng cho người đã bị thấp tim, đặc biệt khi đã có tổn thương van tim. Những bệnh nhân này cần được tiêm dự phòng thuốc Penicillin chậm, bán chậm tại các cơ sở phòng thấp. Nếu dị ứng Penicillin có thể dùng thuốc Erythromycin thay thế. Căn cứ vào từng tình trạng bệnh cụ thể, tuổi bệnh nhân mà bác sỹ chuyên khoa sẽ quyết định liều lượng và thời gian dùng thuốc.

Bệnh viêm khớp dạng thấp

Bệnh viêm khớp dạng thấp là bệnh có biểu hiện viêm nhiều khớp và có sự mặt của “yếu tố dạng thấp” trong máu. Đây là một trong các bệnh khớp viêm mạn tính thường gặp nhất ở Việt nam cũng như ở nhiều nước thế giới, chiếm khoảng 0,5-1% dân số.  Nguyên nhân gây bệnh còn chưa rõ. Bệnh được xếp vào nhóm bệnh “tự miễn dịch” với sự có mặt của yếu tố dạng thấp trong máu, do đó bệnh có tên gọi là bệnh VKDT.

Biểu hiện bệnh: Bệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, tuổi trung niên, song cũng có thể gặp ở các lứa tuổi khác. Nam giới cũng có thể mắc bệnh song hiếm hơn nhiều. Bệnh gây viêm khớp kéo dài (mạn tính) với các đợt sưng đau khớp cấp tính. Trong đợt cấp tính, bệnh nhân thường sưng đau nhiều khớp, sốt, có thể có các biểu hiện ở các cơ quan khác. Mỗi đợt cấp tính thường kéo dài khoảng 1- 2 tuần. Sau đợt cấp, có thể các khớp hết hẳn sưng đau cho đến khi có đợt mới, hoặc các khớp chỉ bớt sưng đau, và tình trạng này kéo dài liên tục. Nếu không được điều trị, các khớp nhanh chóng bị biến dạng, dính khớp. Các khớp thường gặp nhất là các khớp nhỏ ở bàn tay, khớp cổ tay, khuỷu, gối, cổ chân, bàn ngón chân, cả 2 bên. ở giai đoạn  muộn, thường biểu hiện ở các khớp vai, háng, cột sống cổ.

Các người bệnh có cảm giác đau tại khớp, thường đau cả ngày lẫn đêm, nhất là nửa đêm về sáng. Các buổi sáng, khi mới ngủ dậy, người bệnh thấy có cảm giác cứng tại khớp, khó vận động. Dấu hiệu này rõ nhất ở các khớp cổ tay và bàn tay, khiến người bệnh phải làm các động tác như gấp, xoay cổ tay… một hoặc vài tiếng, mới giảm bớt cảm giác cứng khớp. Bản thân người bệnh có thể tự nhận thấy khớp sưng to, đặc biệt là các khớp gối. Có thể thấy bùng nhùng tại khớp (do khớp bị tràn dịch). Nếu sờ vào tại khớp có thể thấy nóng, đôi khi có khớp có màu đỏ. Ngoài ra, trong các đợt cấp tính có thể sốt (thường 38-39).

Một số người có các cơn rối loạn thần kinh thực vật (cơn bốc hỏa…). da có thể xanh do thiếu máu… Sau nhiều đợt cấp tính hoặc sưng đau khớp kéo dài (vài thàng hoặc vài năm), các khớp có thể biến dạng: bàn tay bị vẹo, cổ tay sưng, các ngón tay ngón chân cũng bị biến dạng, các cơ teo, khiến cho chức năng vận động của bệnh nhân bị giảm sút, thậm chí, ở giai đoạn muộn, bệnh nhân trở thành tàn phế, phải có người phục vụ.

Một đặc điểm trong điều trị của bệnh viêm khớp dạng thấp là phải dùng nhiều loại thuốc kết hợp, (khi ổn định bệnh, sẽ giảm dần số lượng thuốc và liều lượng thuốc), duy trì lâu dài, hàng năm, có khi suốt đời. Do đó người bệnh phải kiên trì, tin tưởng vào thầy thuốc, không nên lạm dụng các thuốc chống viêm, cũng như tiêm tại khớp. Ngoài ra, người bệnh cần cố gắng giữ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, tham gia công tác xã hội, nhằm vận động các khớp cũng như nâng cao tinh thần, bệnh mới mau ổn định. Mặc dù chưa chữa được khỏi hẳn bệnh viêm khớp dạng thấp, vẫn có thể kiểm soát tốt được bệnh, sinh hoạt bình thường nhờ sự nỗ lực của bản thân người bệnh và nhân viên y tế.

Những điều gì người mắc bệnh viêm khớp nên làm và không nên làm?

– Trước hết, người bị bệnh VKDT phải nhận thức bệnh VKDT là bệnh mạn tính, kéo dài, có thể phải điều trị suốt đời. Điều này không có nghĩa là tất cả các người bệnh luôn phải sống trong tình trạng đau đớn suốt đời, mà càng điều trị sớm và đúng cách, càng bảo tồn được chức năng vận động của khớp, song việc điều trị (dùng thuốc, tập luyện) phải kéo dài suốt đời và liên tục.

– Phải nhớ rằng các thuốc điều trị bệnh VKDT gồm nhiều loại, cần tuân thủ giờ uống và thời gian tăng, hoặc giảm thuốc theo đúng chỉ định của thầy thuốc.

Gút

Gút là một bệnh do rối loạn chuyển hoá các nhân purines, trong đó, tăng acit uric (AU) máu là đặc điểm chính. Hậu quả là mô có lắng đọng các tinh thể monosodium urate do chúng bị bão hoà ở dịch ngoài tế bào. Do vậy mà gây nên một hoặc nhiều triệu chứng lâm sàng sau:

–   Viêm khớp và cạnh khớp cấp và mạn tính, thường được gọi là viêm khớp do gút.

–   Tích luỹ vi tinh thể ở khớp, xương, mô phần mềm, sụn khớp, được gọi là tophi.

–   Lắng đọng vi tinh thể ở thận, gây bệnh thận do gút

–   Gây bệnh sỏi tiết niệu do acide urique.

Bệnh thường gặp ở các nước phát triển, chiếm khoảng 0,02-0,2 dân số, 95 % là nam giới, trung niên (30-40 tuổi) ở Việt nam, gần đây, do hoàn ảnh kinh tế đã phát triển, lại được quan tâm chẩn đoán, tỉ lệ bệnh gút phát hiện cao hơn. Theo số liệu của bệnh viện Bạch mai trong 10 năm (1978-1989), viêm khớp do gút chiếm 1,5 % các bệnh về khớp, 94% là nam giới trên 30 tuổi. Song phần lớn phát hiện muộn, ở giai đoạn đã có biểu hiện ở các nội tạng (thận, da…)

Biểu hiện: Cơn điển hình: Vị trí các khớp tổn thương: các khớp ở chi dưới: ngón chân cái, gối, bàn ngón và các khớp khác. Cơn xuất hiện tự phát hoặc sau khi ding một bữa ăn hoặc uống rượu quá mức, chấn thương, can thiệp phẫu thuật, dùng thuốc: aspirine, lợi tiểu ( thiazides, furosemmides, acide éthacrinique); éthambutol, thuốc gây huỷ tế bào, pénicilline… Cơn thường được báo trước bởi các tiền triệu sau, ở những bệnh nhân đã có các cơn trước đó có thể tự nhận biết, điều này cho phép điều trị phòng ngừa cơn.
Các tiền triệu đó là: Rối loạn thần kinh: đau đầu, trạng thái kích thích, mệt mỏi. Rối loạn tiêu hoá: đau thượng vị, táo bón, ợ hơi. Rối loạn tiết niệu: đái nhiều, đái rắt.
Đặc biệt là các triệu chứng tại chỗ: khó cử động chi dưới, nổi tĩnh mạch, tê bì ngón chân cái.

Cơn gút cấp điển hình:

–   Thởi điểm khởi phát: Cơn khởi phát đột ngột vào nửa đêm.

–   Tính chất: Khớp đau ghê gớm, bỏng rát, thường xuyên đau đến cực độ, đau làm mất ngủ, mất ngủ càng tăng thêm do tăng cảm giác đau của da. Đau chủ yếu về đêm, ban ngày có giảm đau.

–   Thường kèm theo cảm giác mệt mỏi, đôi khi sốt 38-38,5 độ C, có thể kèm rét run.

–   Khám: khớp bị tổn thương sưng, da trên đó hồng hoặc đỏ. Nếu là khớp lớn thường kèm tràn dịch, khớp nhỏ thì là phù nề. Nếu có tràn dịch, có thể chọc dò để lấy dịch xét nghiệm để chẩn đoán.

–   Đáp ứng với điều trị: nhạy cảm với colchicine. Đây là một đấu hiệu tốt để chẩn đoán những cơn đầu tiên. Điều trị này còn tránh được  sự tấn công của gút với đặc điểm đau ban đêm trong 5-6 đêm tiếp đó. Ban ngày đau giảm dần, có thể hết đau hoàn toàn vào ban ngày.

Cơn không điển hình:

Khá thường gặp. Do vị trí tổn thương và đặc điểm của thể này, mà vấn đề chẩn đoán phân biệt phải đặt ra.

– Biểu hiện tại chỗ chiếm ưu thế: dễ nhầm với viêm khớp nhiễm khuẩn.

– Biểu hiện tràn dịch chiếm ưu thế: thường ở khớp gối, diễn biến bán cấp, dễ nhầm với lao khớp.

– Biểu hiện toàn thân là chính: cơ thể suy nhược, trong khi hiện tượng viêm tại chỗ không đáng kể.

– Biểu hiện bằng viêm nhiều khớp cấp: Dấu hiệu gợi ý là khởi phát đột ngột, viêm 3-4 khớp, thường là ở chi dưới. Thể này thường gặp trong giai đoạn tiến triển của bệnh.

– Biểu hiệu cạnh khớp cấp tính: biểu hiện cạnh khớp có thể đơn độc hoặc kèm theo cơn gút cấp có triệu chứng khớp điển hình. Biểu hiện chính là viêm gân do gút, nhất là viêm gân Achille, viêm túi thanh mạc khuỷu tay, hoặc hiếm hơn, có thể gặp viêm tĩnh mạch.

Gút mạn tính:

Thời gian tiến triển thành gút mạn tính thường sau vài năm đến vài chục năm. Nếu không được điều trị, cơn gút có thể diễn biến như sau:

– Cơn thưa, hoặc là vài tháng, thậm chí vài năm mới có một cơn.

– Hoặc cơn liên tiếp:  cơn càng mau, mức độ cơn càng trầm trọng, Tổn thương có thể ở khớp ban đầu, song thường gặp là tổn thương thêm các khớp khác: ngón chân cái bên đối diện, khớp bàn-ngón, khớp cổ chân, gối. khớp khuỷu, cổ tay hiếm gặp hơn; các khớp ở bàn tay càng hiếm. Không gặp khớp vai, háng, cột sống. Lúc này, các biểu hiện lâm sàng, sinh hoá, X quang là biểu hiện của sự tích luỹ urate ở các mô, chứng tỏ quá trình mạn tính.

– Hoặc nếu sưng đau khớp lại kèm theo da dày lên, khó há miệng, hay lạnh hoặc tê các đầu ngón chân tay (đặc biệt trong mùa lạnh), thì lại là bệnh xơ cứng bì

Bài viết Một số bệnh khớp hay gặp trong mùa rét đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/mot-so-benh-khop-hay-gap-trong-mua-ret-2188/feed/ 0
Chẩn đoán và điều trị bệnh Gút https://benh.vn/chan-doan-va-dieu-tri-benh-gut-4724/ https://benh.vn/chan-doan-va-dieu-tri-benh-gut-4724/#respond Sat, 22 Aug 2015 05:09:18 +0000 http://benh2.vn/chan-doan-va-dieu-tri-benh-gut-4724/ Bệnh gút (hay còn gọi là thống phong) là bệnh do rối loạn chuyển hoá các nhân purin, có đặc điểm chính là tăng acid uric trong máu. Tình trạng viêm khớp trong bệnh gút là do sự lắng đọng các tinh thể urate trong dịch khớp và các mô khi nồng độ acid uric trong máu bị bão hoà.

Bài viết Chẩn đoán và điều trị bệnh Gút đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh gút (hay còn gọi là thống phong) là bệnh do rối loạn chuyển hoá các nhân purin, có đặc điểm chính là tăng acid uric trong máu. Tình trạng viêm khớp trong bệnh gút là do sự lắng đọng các tinh thể urate trong dịch khớp và các mô khi nồng độ acid uric trong máu bị bão hoà.

Bệnh gút thường gặp ở nam giới tuổi trung niên 30 – 50 tuổi, tuy nhiên có thể gặp ở người trẻ tuổi hoặc nữ giới. Tỷ lệ mắc bệnh là 0,7-1,4% ở nam giới và 0,5 – 0,6% ở nữ giới

Gút được chia làm hai loại là gút nguyên phát và gút thứ phát: Gút nguyên phát là do rối loạn chuyển hoá bẩm sinh hoặc giảm khả năng đào thải acid uric của thận mà không có tổn thương thực thể tại thận. Gút thứ phát có liên quan đến các bệnh lý khác như suy thận, suy tim hoặc sau dùng một số thuốc: thuốc lợi tiểu, thuốc chống lao, hoá chất điều trị ung thư…

Tinh thể urate trong bệnh gút thường lắng đọng tại khớp, bao gân, tổ chức phần mềm cạnh khớp gây nên tình trạng viêm khớp, phá huỷ cấu trúc khớp. Ngoài ra, tinh thể này còn lắng đọng trong nội tạng như: thận, gây bệnh lý thận (sỏi thận, viêm thận kẽ, suy thận), tim (viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim)…

Những dấu hiệu nhận biết bệnh gút

Dấu hiệu lâm sàng

– Dấu hiệu lâm sàng nghĩ đến bệnh gút khi người bệnh có cơn gút cấp điển hình với biểu hiện: sưng, nóng, đỏ, đau của một khớp ở chi dưới (hay gặp khớp bàn ngón chân cái),  khởi phát đột ngột thường vào ban đêm với tính chất đau dữ dội, thường khởi phát sau một bữa ăn giàu đạm, uống rượu bia nhiều, hoặc sau chấn thương, phẫu thuật… và triệu chứng sẽ khỏi hoàn toàn trong vòng 1- 2 tuần.

– Sau khi cơn gút cấp khởi phát và kết thúc, đợt cấp thứ hai có thể xuất hiện sau vài tháng đến vài năm, giữa các đợt cấp hoàn toàn không có triệu chứng lâm sàng nhưng tinh thể urate vẫn lắng đọng vào các tổ chức. Sau đó các đợt cấp xuất hiện ngày càng nhiều, khởi phát ít cấp tính hơn nhưng thời gian viêm khớp kéo dài hơn, tổn thương ở nhiều khớp hơn. Và cuối cùng sau 5-10 năm nếu bệnh không được kiểm soát tốt sẽ tiến triển thành gút mạn tính có hạt tô phi, phá huỷ cấu trúc khớp, tổn thương thận (suy thận)…

– Hạt tô phy là tổn thương bắt đầu ở dưới da xung quanh khớp và bao khớp, bao gân, thể hiện sự lắng đọng mạn tính các tinh thể urat vào tổ chức gây phá huỷ cấu trúc khớp. Vị trí thường gặp ở mắt cá ngoài cổ chân, khớp bàn ngón chân, quanh khớp gối, khớp khuỷu…

Dấu hiệu cận lâm sàng

Xét nghiệm acid uric máu

Acid uric máu tăng khi: nam giới trên 70 mg/l (420 µmol/l), nữ giới trên 60 mg/l (360µmol/l), tất cả người bệnh gút đều có tăng acid uric máu vào một vài thời điểm nào đó trong quá trình bệnh, hoặc tăng liên tục. Tuy nhiên, rất nhiều người có tăng acid uric mà không có biểu hiện gút (được gọi là tăng acid uric không triệu chứng chứ chưa phải là bệnh gút). Trong cơn gút cấp có đến 12-43% người bệnh có xét nghiệm acid uric máu bình thường, thậm chí thấp hơn bình thường, khi đó cần làm thêm xét nghiệm thêm ở vài thời điểm khác nhau.

Xét nghiệm dịch khớp

Hút dịch khớp làm xét nghiệm nhằm giúp cho chẩn đoán xác định bệnh khi soi kính hiển vi thấy được tinh thể urat hoặc nhằm chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khớp khác (viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm khớp do lao…).

Các xét nghiệm thông thường khác như

Chức năng gan, thận, mỡ máu, đường máu giúp cho chẩn đoán bệnh lý thuộc hội chứng chuyển hoá và giúp cho việc quyết định dùng thuốc điều trị.

Chụp Xquang, siêu âm khớp, siêu âm thận

Cần thực hiện để đánh giá mức độ tổn thương của bệnh.

Chẩn đoán bệnh

Chẩn đoán chắc chắn bệnh gút khi tìm thấy tinh thể urat trong dịch khớp hoặc trong hạt tô phi. Việc tìm thấy tinh thể urate đôi khi rất khó khăn do đó chẩn đoán bệnh gút hiện nay vẫn dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán: Tiêu chuẩn Bennett và Wood 1968 (độ nhạy 70%, độ đặc hiệu 82,7%).

a. Hoặc tìm thấy tinh thể urat trong dịch khớp hay trong hạt tô phi.

b. Hoặc tối thiểu có trên 2 trong số các tiêu chuẩn sau:

– Tiền sử hoặc hiện tại có tối thiểu 2 đợt sưng đau của một khớp với tính chất khởi phát đột ngột, đau dữ dội và khỏi hoàn toàn trong vòng hai tuần.

– Tiền sử hoặc hiện tại có sưng đau khớp bàn ngón chân cái với tính chất như trên.

– Có hạt tô phy.

– Đáp ứng tốt với colchicin (giảm viêm, giảm đau trong 48 giờ) trong tiền sử hoặc hiện tại.

Chẩn đoán xác định khi có tiêu chuẩn a hoặc 2 yếu tố của tiêu chuẩn b

Điều trị bệnh Gút

Mục đich điều trị bệnh

– Điều trị viêm khớp trong cơn gút cấp.

– Dự phòng tái phát cơn gút, dự phòng sự lắng đọng urat trong các tổ chức và dự phòng biến chứng.

Điều trị cơn gút cấp

Cần khám và tư vấn bác sĩ chuyên khoa để được sử dụng thuốc chống viêm không steroid và/ hoặc phối hợp với colchicin, thuốc giảm đau nếu cần.  Không nên lựa chọn đầu tiên thuốc chống viêm corticoid như: prednisolon, dexamethason, chỉ được sử dụng thuốc này khi bác sĩ chuyên khoa thấy thật cần thiết.

Kiểm soát chế độ ăn uống, sinh hoạt

– Tránh thức ăn giàu purine: phủ tạng động vật (lòng lợn, tiết canh, gan, thận, óc, dạ dày), các loại thịt đỏ (thịt chó, bò, dê, bê), hải sản (tôm, cua, cá béo), đậu hạt các loại, nấm khô, socola.

– Ăn vừa phải thức ăn có chứa ít purine (thịt lợn, thịt gà, ngan, vịt, cá), hàng ngày ăn không quá 100 – 1500g thịt.

– Uống nhiều nước hàng ngày, tốt nhất dùng nước khoáng có kiềm (2-3 lít/ngày).

– Ăn nhiều rau xanh, củ, quả.

– Có thể ăn trứng, sữa và các chế phẩm của sữa, phomat trắng không lên men.

– Ngoài chế độ ăn kiêng cần duy trì một chế độ sinh hoạt điều độ, tránh mệt mỏi cả tinh thần và thể chất.

– Kiểm soát cân nặng, đường máu, lipid máu, acid uric máu, huyết áp.

– Khi cần phải thực hiện một phẫu thuật hoặc mắc một bệnh toàn thân nào đó cần điều chỉnh acid uric máu ổn định.

– Loại bỏ yếu tố nguy có như: hút thuốc lá, uống rượu, bia.

Sử dụng các thuốc điều trị giảm acid uric máu

– Nên chỉ định thuốc này sau 1-2 tuần  khởi phát cơn gút cấp để tránh làm nặng cơn gút cấp.

– Mục tiêu điều trị là kiểm soát acid uric máu dưới 360 µmol/L (60 mg/L) với gút chưa có hạt tô phi và dưới 320 µmol/L (50 mg/L) khi gút có hạt tô phi.

– Thuốc: Allopurinol, febuxostat hay probenecid, lưu ý tác dụng phụ gây dị ứng của thuốc.

Điều trị bằng phẫu thuật

Việc chỉ định phẫu thuật cắt hạt tô phi trong gút mạn tính rất hạn chế vì lý do khó liền vết thương bởi sự lắng đọng tinh thể urate là liên tục. Do đó, phẫu thuật hạt tô phi  khi hạt tôphi có biến chứng nhiễm trùng hoặc hạt quá to ảnh hưởng đến chức năng vận động và biến dạng khớp, hạt tô phi làm đau đớn nhiều.

Phòng bệnh Gút

Các biện pháp phòng bệnh nên được áp dụng ngay từ khi còn rất trẻ để dự phòng ngay từ giai đoạn tăng acid uric máu không triệu chứng, tránh khởi phát cơn gút cấp, không để xảy ra gút mạn tính.

Phòng bệnh là thực hiện tốt lối sống lành mạnh, loại bỏ các yếu tố nguy cơ (hạn chế rượu bia, thức ăn có chứa nhiều nhân purin…). Xử trí và điều trị kịp thời khi có cơn gút cấp và các bệnh phối hợp khác.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai.

Bài viết Chẩn đoán và điều trị bệnh Gút đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chan-doan-va-dieu-tri-benh-gut-4724/feed/ 0