Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Fri, 01 Mar 2019 14:01:33 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Bệnh lỵ amip https://benh.vn/benh-ly-amip-4054/ https://benh.vn/benh-ly-amip-4054/#comments Sat, 25 Aug 2018 04:48:44 +0000 http://benh2.vn/benh-ly-amip-4054/ Lỵ amip là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già do Entamoeba histolytica. Hầu hết ở dạng mang mầm bệnh không triệu chứng, một số biểu hiện ở dạng tiêu chảy nhẹ kéo dài, hoặc trầm trọng hơn là lỵ tối cấp. Biểu hiện lâm sàng ngoài ruột là màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim.

Bài viết Bệnh lỵ amip đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Định nghĩa

Lỵ amip là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già do Entamoeba histolytica. Hầu hết ở dạng mang mầm bệnh không triệu chứng, một số biểu hiện ở dạng tiêu chảy nhẹ kéo dài, hoặc trầm trọng hơn là lỵ tối cấp. Biểu hiện lâm sàng ngoài ruột là màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim.

lỵ amip

Tác nhân gây bệnh

1. Hình thể

Trong cơ thể, Entamoeba histolytica tồn tại dưới 3 dạng:

  • Thể hoạt động ăn hồng cầu: lớn, đường kính 30-40m, sống trong vách đại tràng, tăng trưởng tốt dưới điều kiện kỵ khí, có thêm các vi khuẩn khác, tìm thấy trong phân bệnh nhân lỵ cấp tính. Soi tươi thấy amip di động nhanh theo chiều nhất định. Nguyên sinh chất ngoại vi có màu trắng trong, còn nội nguyên sinh chất chứa nhiều hạt nhỏ mịn và hồng cầu. Số hồng cầu này có kích thước không đồng đều vì mức độ tiêu hóa khác nhau. Sau khi nhuộm, nhân hiện rõ, có kích thước 5 – 6m, nhiễm sắc thể ngoại vi đều đặn và một nhân thể ở trung tâm.
  • Thể không ăn hồng cầu: tìm thấy trong phân, ngoài giai đoạn cấp tính, kích thước 15-25m, nhân giống như nhân của thể ăn hồng cầu: ngoại nguyên sinh chất không phân biệt rõ với nội nguyên sinh chất và không chứa hồng cầu.
  • Thể bào nang:
    • Không di động, nhỏ, kích thước 10-14m,  gặp trong  phân của người mang trùng không triệu chứng hay bệnh nhẹ. Bào nang còn non có một nhân, đến khi trưởng thành có 4 nhân, có một  màng đôi bảo vệ chúng chống lại các dịch tiêu hoá khi bị nuốt vào.
    • Bào nang sống rất lâu đó là thể chịu đựng của amip trong những điều kiện không thuận lợi. Ở nơi khô ánh nắng mặt trời, bào nang sống được vài ngày. Ở 500C sống được 5 phút. Ở chỗ ẩm thấp trong bóng mát, trong nước bào  nang có thể sống 1-4 tuần.
    • Bào nang có sức đề kháng với các hoá chất tương đối cao, do đó vấn đề diệt bào nang trong nước là vấn đề khó. Dùng Clo hay Iode đến mức có thể diệt được bào nang thì nước không thể uống được.

2. Sinh học

Amip có 2 chu trình phát triển:

2.1. Ở người lành

Chu trình phát triển không gây bệnh, chỉ đảm bảo sự lây lan bệnh. Amip sinh sản bằng phương thức phân đôi, sẽ hoá nang khi điều kiện sinh sống không thuận lợi và được thải ra ngoài. Một ký chủ mới ăn phải bào nang; đến ruột bào nang 4 nhân biến thành 8 nhân, từ đó biến thành 8 amip. Chu trình tiếp tục cho đến khi có đủ điều kiện sinh bệnh thì amip bắt đầu ăn hồng cầu.

2.2. Ở người bệnh

– Nhờ tác động của các enzyme tiêu protein, amip xâm nhập vào niêm mạc ruột, gây tổn thương ở manh tràng, đại tràng lên, đại tràng sigma, ruột thừa. Sang thương đầu tiên là những lở loét nhỏ ở niêm mạc, phía trên hẹp, bên dưới mở rộng. Giữa các vết loét niêm mạc bình thường khác với tổn thương trong lỵ trực trùng (niêm mạc đỏ, xung huyết). Sau đó các vết loét ăn sâu vào niêm mạc gây chảy máu trầm trọng, một số trường hợp loét xuyên lớp cơ gây thủng ruột, áp – xe tại chỗ.

– Ở manh tràng và đại tràng sigma nhiễm trùng mãn tính có thể dẫn đến việc thành lập các bướu amip (amoebome). Amip cũng có thể xâm nhập vào tuần hoàn cửa gây hoại tử tế bào gan, tạo thành ổ áp – xe. Hiếm khi áp – xe phổi, não hoặc lách.

Dịch tế học

1. Sự phân phối Entamoeba histolyca trên thế giới

– Nhiễm trùng với E. histolyca có thể xảy ra khắp nơi trên thế giới, với tỉ lệ trung bình 10%. Ở Mỹ 1 -5%, các xứ nhiệt đới 25 – 40%. Ở Việt Nam tỉ lệ người lành mang mầm bệnh có nơi lên đến 25%. Theo thống kê gần đây ở TP. Hồ Chí Minh tỉ lệ trung bình là 8%.

– Ngoài ra, trên người Việt Nam các loại vi trùng sẵn có là yếu tố phối hợp với amip để gây biến chứng. Theo Blanc và Siguier, trong một nghiên cứu trước đây, cho thấy trên 2.000 người mắc bệnh amip ở Việt Nam có đến 500 người có biến chứng gan (25%).

– Ở phần lớn các nước phát triển bệnh amip thường có hai nguồn gốc: nội địa và “nhập khẩu”. Thường bệnh “nhập khẩu” do sự di dân hay do khách du lịch mang lại.

2. Tuổi mắc bệnh

Nhiều nhất 20 -30 tuổi.

Trẻ dưới 5 tuổi ít mắc bệnh.

3. Tình hình kinh tế – xã hội và vệ sinh

– Amip dễ hoành hành trong điều kiện sinh hoạt thấp kém ăn uống thiếu vệ sinh (ăn rau sống, uống nước lã), vệ sinh ngoại cảnh thấp, rác rến gần nhà tạo điều kiện cho ruồi phát triển nhiều và nhanh.

4. Phương thức lây bệnh

– Lây gián tiếp: qua thức ăn, nước uống, nước rửa rau quả, thú vật mang mầm bệnh (chó, mèo), côn trùng trung gian, trong đó ruồi là một trung gian truyền bệnh nguy hiểm. Các thí nghiệm của Frye và Meleney (1936) cho thấy 3/4 ruồi trong nhà người bệnh lỵ amip có mang bào nang.

– Lây trực tiếp: thường do tay bẩn, bào nang dính dưới móng tay, từ đó được đưa vào miệng qua thức ăn.

Bệnh nhân có bệnh nặng ít gây nhiễm trùng hơn người mang trùng không triệu chứng vì thải ra nhiều dưỡng bào hoạt động (dễ chết) trong phân. Do đó, dịch tễ học bệnh amip phức tạp vì những người truyền bệnh quan trọng lại ít hoặc không có triệu chứng, vì vậy ít được sự quan tâm của các tổ chức y tế.

– Ngoài ra bệnh amip có thể lây qua hoạt động tình dục, và đây là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng ở những quần thể đồng tình luyến ái.

5. Yếu tố thuận lợi sinh bệnh

Một cá thể có thể mang mầm bệnh trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm mà không hề có triệu chứng lâm sàng. Amip sẽ chuyển từ không gây bệnh thành thể gây bệnh dưới tác động của những yếu tố chưa hoàn toàn được biết rõ. Nhưng người ta biết được có 3 yếu tố sau, chắc chắn có ảnh hưởng đến quá trình này:

– Chủng amip: nhiều tác giả cho rằng chủng amip ở vùng Đông Nam Á có độc tính cao hơn các chủng vùng Bắc Phi. Các chủng amip nội địa vùng ôn đới thường không có độc lực.

– Tạp khuẩn ruột, kết hợp: Vai trò của tạp khuẩn kết hợp được chứng minh bằng thử nghiệm của Westphal: 8 tháng sau khi nuốt bào nang amip, ông vẫn không hề gì, nhưng để tiếp tục thử nghiệm, ông nuốt thêm một số vi trùng thì 20 ngày sau ông bị lỵ amip thực sự.

– Sức đề kháng của cơ thể: Dịch nhày của niêm mạc đại tràng bình thường chứa glycoprotein, ngăn chặn sự kết dính của amip trên tế bào niêm mạc. Khi có biến đổi ở niêm mạc đại tràng hoặc khi sức đề kháng cơ thể giảm; amip sẽ ăn hồng cầu và gây bệnh.

Lâm sàng

Bệnh amip là một bệnh đa dạng. Phần lớn người nhiễm amip có ít hoặc không có triệu chứng. Khi có triệu chứng, bệnh biểu hiện ở nhiều thể:

1. Cấp tính

Triệu chứng thường gặp là hội chứng lỵ: đau bụng, mót rặn, tiêu phân nhày máu.

– Đau bụng thường ở manh tràng (hố chậu phải, dễ lầm với viêm ruột thừa) dọc theo khung đại tràng (dễ lầm với loét dạ dày) và nhất là hố chậu trái do tổn thương đại tràng sigma.

– Mót rặn: đau rát hậu môn kèm cảm giác đòi hỏi đại tiện một cách bức thiết.

– Tiêu phân nhày máu, đôi khi xen kẽ với tiêu lỏng, số lượng không nhiều, nhưng đi đại tiện nhiều lần trong ngày.

  • Thể nhẹ: toàn trạng tốt, tiêu đàm máu ngày vài lần, phân có ít dưỡng bào.
  • Thể trung bình: mệt nhọc, tiêu đàm máu 5 -15 lần, phân có nhiều dưỡng bào, niêm mạc có nhiều vết loét điển hình.
  • Thể nặng: Toàn trạng suy nhược, mất nước, rối loạn điện giải, có thể truỵ tim mạch, bụng chướng, mót rặn, đi ngoài phân nhày máu 15 lần/ngày. Niêm mạc trực tràng tổn thương nặng, đầy vết loét xuất huyết.

2. Bán cấp

Ít khi mót rặn, đau bụng ít, tiêu chảy phân lỏng, ít nhày, đôi khi có táo bón, có thể diễn biến thành thể cấp.

3. Mạn tính

Sau một giai đoạn cấp tính hay bán cấp, bệnh trở thành mãn tính với nhiều đợt bệnh cách nhau. Không còn amip ăn hồng cầu trong ruột, thậm chí không còn amip. Vách ruột xơ chai, đầu tận cùng hệ thần kinh thực vật bị phá huỷ, chức năng đại tràng không còn bình thường nữa. Triệu chứng lâm sàng như viêm đại tràng mạn.

– Đau bụng liên tục hay từng cơn, có thể không khu trú hay tập trung ở khung đại tràng, manh tràng.

– Rối loạn tiêu hóa: Thường là tiêu chảy, đầy hơi, ăn không tiêu đối với một số thức ăn như sữa, chất bột. Bệnh nhân suy nhược, biếng ăn, sụt cân.

4. U amip

Thường thấy ở manh tràng, đại tràng ngang, trực tràng, đại tràng sigma, có thể gây lồng ruột.

Chẩn đoán khó, dễ lầm với các khối u thực sự của đại tràng. Điều trị đặc hiệu chống amíp có thể cho kết quả tốt. Ngoài các biểu hiện tại ruột, amíp còn có thể xâm nhập vào gan qua tĩnh mạch cửa gây áp-xe gan, thường ở thuỳ phải hơn là thuỳ trái. Ngoài ra, nhiễm trùng có thể lan đến phổi, màng ngoài tim hoặc di căn đến các vị trí xa hơn như hệ thần kinh trung ương.

Biến chứng

1. Thủng ruột

Thủng ruột dẫn đến viêm phúc mạc là biến chứng gây tử vong thường gặp nhất. Ở các thể trung bình hay thể nặng, niêm mạc và lớp dưới niêm mạc đại tràng bị phá huỷ nặng nề gây thủng ruột. Bệnh nhân đau bụng dữ dội, sốt cao, co cứng thành bụng. Cần xử trí ngoại khoa khẩn cấp.

2. Xuất huyết tiêu hóa

Do tổn thương mạch máu, đôi khi trầm trọng, cần truyền máu ngay và dùng thuốc diệt amip.

3. Lồng ruột

Thường gặp nhất ở vùng manh tràng.

4. Viêm loét đại tràng sau lỵ

Không tìm thấy amip trong ruột nhưng phản ứng huyết thanh (+) với hiệu giá cao.

5. Viêm ruột thừa do amip

6. Các biến chứng hiếm

Nhiễm trùng tiền liệt tuyến, nhiễm trùng âm đạo, áp-xe não, áp xe lách.

Chẩn đoán

1. Chẩn đoán xác định

1.1. Khai thác bệnh sử và tiền sử

– Tiền sử đau bụng, đi ngoài phân nhày máu.

– Di chuyển đến vùng có bệnh lỵ amip lưu hành.

– Có tiếp xúc với người đi ngoài phân nhày máu, đau bụng hoặc có nhiều người cùng mắc bệnh tương tự ở chung một tập thể hoặc quanh vùng cư ngụ.

1.2. Xét nghiệm phân tìm amip

– Dưỡng bào amip có thể tìm thấy trong phân tươi ngay sau khi đi ngoài, thường ở phần nhày máu dưới dạng hoạt động ăn hồng cầu. Nếu không tìm thấy, cần làm lại xét nghiệm nhiều lần.

– Đây là xét nghiệm dễ làm nhưng rất khó đánh giá. Những kỹ thuật viên thiếu kinh nghiệm có thể cho kết quả dương tính giả do lầm amip với bạch cầu hoặc các loại amip khác (Entamoeba coli, Entamoeba hartmanni), đại thực bào ăn hồng cầu, hoặc âm tính giả do các chất che đậy ký sinh trùng (barium sulfate, bisthmuth, hợp chất kaolin), chất làm ly giải thể hoạt động (xà phòng) và kháng sinh làm giảm số lượng amip trong phân (Tetracyclin, sulfonamide).

– Có thể tìm amip trong mủ, chất tiết khi soi trực tràng, đại tràng sigma. Kết quả thu được:

  • Amip ăn hồng cầu (E. histolytica histolytica) bệnh cấp.
  • Amip không ăn hồng cầu: (E. histolytica minuta), thể bào nang, người lành mang mầm bệnh, người bệnh đã điều trị không đến nơi đến chốn.

1.3. Cấy amip

Có thể nuôi amip trong ống kính ở điều kiện yếm khí tương đối pH=6.5 -7, trong môi trường trứng đông hay huyết thanh ngựa đông và một ít tinh bột gạo pha dung dịch Ringer. Để có thể tăng trưởng amip đòi hỏi kết hợp với một vi khuẩn như Clostridium perfringens hay một đơn bào như Trypanosoma cruzi.

1.4. Nội soi

Cần thực hiện khi khảo sát phân âm tính. Soi trực tràng và đại tràng sigma sẽ thấy niêm mạc viêm, rải rác có những ổ loét hình miệng núi lửa phủ một lớp nhày có chứa amip ăn hồng cầu. Nếu gặp u amip khó phân biệt với ung thư, có thể làm sinh thiết khảo sát giải phẫu bệnh.

1.5. X quang ruột già

Phát hiện thủng ruột, lồng ruột, hẹp lòng ruột già, u amip.

1.6. Huyết thanh chẩn đoán

Nhạy cảm nhất là phản ứng ngưng kết gián tiếp cho tỉ lệ (-) > 80% trên bệnh nhân lỵ amip và 96 – 100% trên bệnh nhân nhiễm amip ngoài ruột. Phản ứng huyết thanh âm tính ở người mang bào nang không triệu chứng. Điều này chứng tỏ mô bị xâm nhập cần thiết cho việc tạo kháng thể. Ở vùng nhiễm amip phổ biến, hiệu giá kháng thể cao ít có giá trị vì kháng thể cao trong nhiều năm tiếp theo sau giai đoạn nhiễm trùng cấp.

2. Chẩn đoán phân biệt

2.1. Lỵ trực khuẩn

Lỵ amip Lỵ trực khuẩn
Dịch tễ học Lẻ tẻ, ít người mắc cùng lúc Lan rộng có thể thành dịch lớn
Tiến triển Mạn tính Cấp tính
Lâm sàng – Không sốt (trừ ở trẻ em có BC gan)

– Phân nhày máu 5 – 15 lần/ngày

– ít khi mất nước nặng

– Sốt cao

– Nhiều lần hơn

– Mất nước nặng, nhiễm trùng nặng.

Biến chứng Dễ xảy ra Không có
Cận lâm sàng Soi trực tiếp phân tươi Cấy phân Shigella (+)

2.2. Ung thư đại tràng

khó phân biệt với u amip. Cần nội soi, sinh thiết, giải phẫu bệnh, điều trị thử với thuốc chống amip.

2.3. Viêm loét đại tràng

Không đáp ứng với thuốc chống amip.

2.4. Áp – xe gan

do cần phân biệt áp – xe gan do vi khuẩn, đôi khi khó nếu áp – xe amip bị bội nhiễm thêm vi khuẩn.

Điều trị

1. Các loại thuốc

1.1. Thuốc diệt amip khuếch tán trong mô theo đường máu đến mô, diệt amip ăn hồng cầu.

– Emetine:

  • Alkaloid chiết suất từ cây Ipecac.
  • Vì có nhiều độc tính nên hiện nay rất ít dùng

– Dehydroemetin (Dametin, Mebadin)

  • Là dẫn xuất tổng hợp của emetin, có tác dụng dược lý tương tự nhưng ít độc hơn emetin.
  • Thuốc có tác dụng diệt amip ở trong các mô, ít có tác dụng trên amip ở ruột.
  • Liều lượng: Người lớn: 1 mg/ kg/ ngày, không dùng quá 60 mg/ ngày. Cần giảm liều ở người cao tuổi và người bị bệnh nặng (có thể giảm tới 50%). Đợt điều trị 4 – 6 ngày. Trẻ em: 1mg/ kg/ ngày, không dùng quá 5 ngày.
  • Thuốc nên dùng qua đường tiêm bắp sâu, không tiêm tĩnh mạch vì dễ gây độc cho tim, không dùng đường uống vì kích ứng gây nôn. Các đợt điều trị phải cách nhau ít nhất 6 tuần.

– Metronidazol

  • Là một dẫn xuất 5- nitro- imidazol, có phổ hoạt tính rộng, ít tan trong nước, không ion hóa ở pH sinh lý, khuếch tán rất nhanh qua màng sinh học.
  • Metronidazol có hiệu quả cao trong điều trị nhiễm amip ngoài ruột (áp xe gan, amip ở não, phổi- lách) và amip ở thành ruột. Thuốc có tác dụng diệt amip thể hoạt động nhưng ít ảnh hưởng đến thể kén.
  • Liều lượng: Metronidazol có thể uống dưới dạng viên nén (250 mg, 500 mg) hoặc dung dịch treo metronidazol benzoat. Trường hợp bệnh nhân không uống được, có thể truyền tĩnh mạch (dung dịch 5 mg/ mL), tốc độ truyền 5 mL/ phút.
    • Điều trị lỵ amip cấp: có thể dùng đơn độc hoặc tốt hơn nên phối hợp với iodoquinol hoặc với diloxanid furoat. Liều thường dùng cho người lớn là 750 mg, ngày uống 3 lần trong 5- 10 ngày, uống sau bữa ăn.
    • Áp xe gan do amip: người lớn uống 500- 750 mg/ lần, ngày 3 lần trong 5- 10 ngày. Đối với trẻ em liều thường dùng là 30- 40 mg/ kg/ 24 giờ, chia làm 3 lần, uống liền 5 – 10 ngày.

– Tinidazol (Fasigyne)

  • Là dẫn xuất thế của imidazol (C8H13N3O4). Tác dụng và cơ chế tác dụng tương tự metronidazol
  • Liều lượng: liều duy nhất 2g. Hoặc điều trị các nhiễm khuẩn kỵ khí dùng ngày đầu 2g; ngày sau 1g (hoặc 500 mg x 2 lần) trong 5- 6 ngày.

1.2. Thuốc diệt amip trong lòng ruột (diệt amip do tiếp xúc)

Thuốc tập trung ở trong lòng ruột và có tác dụng với thể minuta (sống hoại sinh trong lòng ruột) và bào nang (thể kén).

– Diloxanid (Furamid)

  • Diloxanid Furoat là dẫn xuất dicloro acetamid có tác dụng chủ yếu với amip trong lòng ruột. Diloxanid có hiệu lực cao đối với bào nang amip. Không có tác dụng đối với amip ở trong các tổ chức.
  • Liều lượng: Diloxanid chỉ dùng theo đường uống.
    • Điều trị cho người bệnh mang kén amip không triệu chứng: Người lớn: mỗi lần uống 500 mg, ngày uống 3 lần trong 10 ngày. Nếu cần, điều trị có thể kéo dài đến 20 ngày. Trẻ em: 20 mg/ kg/ ngày, chia làm 3 lần, uống liền 10 ngày.
    • Điều trị lỵ amip cấp: cần điều trị bằng metronidazol trước, sau đó tiếp theo bằng diloxanid furoat liều như trên.

– Iodoquinol (Yodoxin, Moebequin)

  • Iodoquinol (diiodohydroxyquin) là một dẫn xuất halogen của hydroxyquinolein có tác dụng diệt amip ở trong lòng ruột nhưng không ảnh hưởng đến amip ở thành ruột và trong các tổ chức.
  • Liều lượng: Uống 650 mg/ lần, ngày 3 lần, trong 10- 20 ngày. Nên uống thuốc sau bữa ăn.

Benh.vn

Bài viết Bệnh lỵ amip đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-ly-amip-4054/feed/ 2
Phân biệt bệnh kiết lỵ trực trùng và kiết lỵ amíp https://benh.vn/phan-biet-benh-kiet-ly-truc-trung-va-kiet-ly-amip-3136/ https://benh.vn/phan-biet-benh-kiet-ly-truc-trung-va-kiet-ly-amip-3136/#respond Wed, 18 Jul 2018 04:27:32 +0000 http://benh2.vn/phan-biet-benh-kiet-ly-truc-trung-va-kiet-ly-amip-3136/ Bệnh kiết lỵ là bệnh đường ruột liên quan mật thiết đến vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Bệnh kiết lỵ có thể là bệnh kiết lỵ trực trùng và bệnh kiết lỵ amíp, cả 2 loại lỵ này đều có thể lây lan thành dịch nhưng đặc biệt là lỵ trực trùng nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể có nguy cơ tử vong.

Bài viết Phân biệt bệnh kiết lỵ trực trùng và kiết lỵ amíp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh kiết lỵ là bệnh đường ruột liên quan mật thiết đến vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Bệnh kiết lỵ có thể là bệnh kiết lỵ trực trùng và bệnh kiết lỵ amíp, cả 2 loại lỵ này đều có thể lây lan thành dịch nhưng đặc biệt là lỵ trực trùng nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể có nguy cơ tử vong.

cô gái bị kiết lỵ đi toilet

Đặc điểm của kiết lỵ

Nói đến bệnh kiết lỵ là nói đến lỵ vi khuẩn mà thường gọi là lỵ trực trùng (còn gọi là lỵ trực khuẩn) và lỵ do ký sinh trùng gây ra là lỵ amíp (do ký sinh trùng amíp). Bệnh kiết lỵ trực trùng là bệnh do vi khuẩn lỵ (Shigella) gây ra khác với bệnh kiết lỵ do ký sinh trùng amíp.

Bệnh kiết lỵ trực khuẩn lây theo đường ăn uống và rất có khả năng gây thành dịch lớn bởi vì chúng có khả năng tồn tại trong thiên nhiên khá lâu.

Thời gian tồn tại của vi khuẩn lỵ

Vi khuẩn lỵ có thể sống và phát triển trong nước ngọt, rau sống, thức ăn tối thiểu từ 7 – 10 ngày và cũng có thể sống lâu hơn nữa. Ở các quần áo, đồ dùng trong ăn uống của người bệnh kiết lỵ trực khuẩn hoặc trong đất có khi chúng tồn tại tới từ 6 -7 tuần lễ.

Hình thức đào thải

Nguồn đào thải trực khuẩn lỵ là chất thải (phân), thức ăn, nước uống, dụng cụ ăn uống của người đang mắc bệnh kiết lỵ trực khuẩn và người lành mang trực khuẩn lỵ. Đối với những đối tượng là người lành mang vi khuẩn lỵ, khi sức khỏe tốt thì chúng coi như sống cộng sinh nhưng khi sức đề kháng kém chúng trở nên gây bệnh.

Điều quan trọng nhất của người lành mang vi khuẩn lỵ là luôn luôn đào thải mầm bệnh ra môi trường theo phân làm ô nhiễm môi trường, đặc biệt là những vùng mà quản lý phân người chưa thật tốt hoặc không đảm bảo vệ sinh. Từ những đối tượng này lỵ trực khuẩn sẽ theo phân, theo thức ăn, nước uống bị nhiễm trực trùng lỵ đi ra ngoài làm ô nhiễm môi trường xung quanh nhất là ô nhiễm nguồn nước, từ đây trực khuẩn lỵ được lan theo các loại thức phẩm có dùng nước bị ô nhiễm để rửa (rau, thịt, cá…) và lây sang cho người lành bằng con đường ăn, uống. Lỵ trực khuẩn có trong nước ô nhiễm nếu người nào uống nước chưa được đun sôi thì nguy cơ mắc bệnh kiết lỵ do trực khuẩn lỵ là điều rất khó tránh khỏi.

Phân nhóm lỵ trực khuẩn

Người ta chia lỵ trực khuẩn thành 4 nhóm: S. dysentriae, S. Flexnerie, S. Boydii và S. sonnei. Trong 4 nhóm lỵ trực khuẩn này thì nhóm hay gặp nhất ở Việt Nam là lỵ trực khuẩn nhóm S. flexneri.

Qua nhiều nghiên cứu người ta thấy rằng, nhóm lỵ trực khuẩn gây bệnh kiết lỵ nặng nhất là lỵ nhóm 1, trong đó týp S. shiga gây bệnh nặng, nguy kịch hơn cả và rất dễ đưa đến tử vong nếu không phát hiện, điều trị kịp thời. S. shiga gây bệnh nặng và nguy hiểm bởi vì chúng vừa gây bệnh bằng nội độc tố và ngoại độc tố. Đối với các loại vi khuẩn thì loại nào gây bệnh bằng ngoại độc tố cũng có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng. Và nếu vi khuẩn vừa gây bệnh bằng nội độc tố và vừa gây bệnh ngoại độc tố, bệnh cảnh lâm sàng càng trầm trọng hơn.

Các triệu chứng của hai loại lỵ này

Mọi người có thể mắc bệnh kiết lỵ trực khuẩn đặc biệt là những người chưa có miễn dịch chống lại trực khuẩn lỵ. Sau khi có một lượng lớn trực khuẩn lỵ vào trong cơ thể khoảng vài ba ngày là bắt đầu xuất hiện các triệu chứng sốt cao, rối loạn tiêu hóa như đau bụng, buồn nôn, nôn, đi lỏng nhiều lần, phân có máu. Giai đoạn đầu phân còn có khuôn nhưng sau một thời gian ngắn phân sẽ lỏng kèm theo có chất nhầy như mũi và có máu. Máu xuất hiện là do độc tố vi khuẩn lỵ làm tổn thương niêm mạc ruột. Máu chảy ra trộn lẫn với phân. Lúc đầu là máu tươi, dần dần phân lỏng ra và máu hòa lẫn với phân, chất tiết dịch của ruột cho nên màu của phân lúc này lờ lờ như máu cá nhất là phân của bệnh nhân bị lỵ trực khuẩn týp S. shiga.

Với thể bệnh do lỵ S.shiga, giai đoạn đầu còn biết số lần đi ngoài trong ngày nhưng vài ba ngày sau thì không thể đếm được số lần đi ngoài do phân cứ tự chảy ra ở hậu môn. Đồng thời thể rạng suy sụp do nhiễm độc độc tố nặng. Song song với nhiễm độc độc tố thì đối với bệnh kiết lỵ trực khuẩn thường là đi ngoài nhiều lần cho nên xảy ra hiện tượng mất nước và chất điện giải có khi rất trầm trọng. Nhiễm độc độc tố nặng và mất nước, chất điện giải dễ đưa đến tử vong đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi già yếu nếu không cấp cứu kịp thời.

Với bệnh kiết lỵ amíp thì tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng amíp (Entamoeba histolitica), chúng thuộc loại đơn bào, khả năng tồn tại trong môi trường tự nhiên tuy có ngắn ngày hơn so với trực khuẩn lỵ nhưng vai trò gây bệnh của chúng cũng không thể xem thường. Bệnh kiết lỵ amíp chủ yếu là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già.

Khi bị bệnh thường có 2 loại: cấp tính và mạn tính:

Thể cấp tính: thường gặp là những hội chứng lỵ, bao gồm đau bụng, mót rặn và đi ngoài phân có máu lẫn với chất nhầy như chấttiết ở mũi (nhầy máu mũi). Đi ngoài nhiều lần trong ngày nhưng mỗi lần đi ngoài không có nhiều phân. Đối với một số bệnh nhân thỉnh thoảng có tiêu chảy nhưng không rầm rộ, ồ ạt như bệnh kiết lỵ trực khuẩn. Người bệnh thường xuất hiện đau quặn bụng từng cơn, đau dọc theo khung đại tràng trước khi đi ngoài. Song song với đau bụng là mót rặn. Người bệnh đau bụng rất muốn đi ngoài nhưng khi ngồi vào nhà vệ sinh rất lâu nhưng không đi ngoài được (đi nhanh về chậm). Nếu ở thể nhẹ thì sức khỏe ít bị ảnh hưởng nhưng khi bệnh nặng thì bệnh nhân có thể bị suy kiệt (đi ngoài ra máu nhiều lần trong ngày), rối loạn chất điện giải, bụng trướng.

Thể mãn tính: Khi bị lỵ amíp không được điều trị hoặc điều trị không dứt điểm, không đúng phác đồ thì bệnh sẽ chuyển thành mạn tính và khi đó lỵ amíp sẽ chui vào trong niêm mạc ruột tạo thành các kén amíp, từng đợt chúng lại xuất hiện gây đau bụng, đi ngoài ra máu tươi nhất là khi ăn các loại thức ăn lạ, nhiều mỡ… Hậu quả của lỵ amíp mạn tính là gây nên viêm đại tràng mạn tính làm cho người bệnh rất khó chịu và dễ bị suy kiệt do rối loạn tiêu hóa kéo dài. Mắc bệnh kiết lỵ amíp còn có một nguy cơ lan truyền ngược dòng gây nên hiện tượng ápxe gan.

Phòng bệnh kiết lỵ như thế nào?

Muốn phòng bệnh kiết lỵ (lỵ trực khuẩn và lỵ amíp) có hiệu quả thì cần đảm bảo vệ sinh môi trường, quản lý chất thải và phân của người bệnh đúng quy định như cho vào hố xí, có các chất sát khuẩn mạnh kèm theo như vôi bột, cloramin đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Không được xả phân và giặt quần áo của người bệnh kiết lỵ ra sông, suối, ao, hồ. Không nên ăn rau sống không hợp vệ sinh, không uống nước chưa được đun sôi, không ăn tiết canh, gỏi, nem chạo, nem chua… Cần phải rửa tay sạch bằng xà phòng sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn.

Trong gia đình có người mắc bệnh kiết lỵ nên cách ly các dụng cụ ăn uống và đồ dùng trong sinh hoạt. Các dụng cụ ăn uống cần luộc bằng nước đun sôi. Đối với các cơ sở buôn bán, kinh doanh thực phẩm và các nhà hàng, khách sạn có liên quan đến ăn, uống cần kiểm tra sức khỏe nhân viên phục vụ, đặc biệt là xét nghiệm phân định kỳ nhằm phát hiện người lành mang lỵ amíp hoặc lỵ trực khuẩn.

Đối với người lành mang mầm bệnh cần được điều trị dứt điểm và cần xét nghiệm phân theo định kỳ. Những vùng có nguy cơ mắc lỵ trực khuẩn cần được sử dụng vắc-xin phòng bệnh kiết lỵ trực khuẩn theo chỉ dẫn của cán bộ y tế địa phương.

Xem thêm: Bệnh lỵ amip

Benh.vn

Bài viết Phân biệt bệnh kiết lỵ trực trùng và kiết lỵ amíp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phan-biet-benh-kiet-ly-truc-trung-va-kiet-ly-amip-3136/feed/ 0
Bệnh lỵ do amip và thuốc điều trị https://benh.vn/benh-ly-do-amip-va-thuoc-dieu-tri-3176/ https://benh.vn/benh-ly-do-amip-va-thuoc-dieu-tri-3176/#respond Mon, 04 Jun 2018 04:28:15 +0000 http://benh2.vn/benh-ly-do-amip-va-thuoc-dieu-tri-3176/ Viêm đại tràng mạn tính do amip thường dai dẳng với những biểu hiện đau bụng, phân sệt, bóng, cứ vài tuần hoặc vài tháng lại xảy ra một đợt cấp tính.

Bài viết Bệnh lỵ do amip và thuốc điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hỏi: Tại sao bị lỵ do amip và uống thuốc gì để điều trị?

Trả lời:

Viêm đại tràng do amip có triệu chứng từ 2 – 6 tuần sau khi ăn phải kén lây nhiễm. Đau bụng dưới và tiêu chảy là triệu chứng có sớm, sau đó thì mệt mỏi và chán ăn, đau quặn bụng từng cơn ở vùng hố chậu phải (vùng hồi manh tràng), nếu bệnh kéo dài có thể đau cả hố chậu phải do tổn thương đại trực tràng; mót rặn và đi ngoài giả (mót đi ngoài nhưng không đi ngoài được) đau lan tỏa bụng dưới hoặc ra sau lưng. Trong thời kỳ toàn phát, người bệnh có thể đi đại tiện từ 10 – 15 lần/ngày, có cảm giác mót rặn muốn đi đại tiện mãi. Phân chủ yếu là máu và nhầy nhớt. Bệnh nhân bị lỵ amip thường không sốt, đây là điểm để phân biệt với lỵ trực khuẩn (shigella) thường sốt nhiều, sốt cao.

Diễn tiến của đợt cấp tính kéo dài từ vài ngày đến vài tuần tùy theo việc điều trị được tiến hành sớm hay muộn. Bệnh lỵ amip dễ bị tái nhiễm và tiến triển thành mạn tính.

Viêm đại tràng mạn tính do amip thường dai dẳng với những biểu hiện đau bụng, phân sệt, bóng, cứ vài tuần hoặc vài tháng lại xảy ra một đợt cấp tính. Trong các trường hợp đau bụng, đi ngoài phân có nhầy nhớt và có máu, nhất thiết người bệnh phải vào nằm viện để được theo dõi và điều trị kịp thời. Người bệnh sẽ được soi phân tươi (soi phân vừa mới đi ngoài xong) để tìm amip dạng hoạt động trong phân, đây là cách để chẩn đoán xác định. Ngoài ra còn có thể nội soi đại tràng hoặc Xquang đại tràng, hay xét nghiệm máu để tìm nguyên nhân gây bệnh.

Một số thuốc điều trị lỵ do amip là: Emetin, Nhóm Imidazole (metronidazole, tinidazole, ornidazole), Nhóm di-iodohydroxyquinolin.

Bạn có thể tham khảo thêm bài Nguyên nhân kiết lỵ cho amíp và hướng điều trị.

Benh.vn

Bài viết Bệnh lỵ do amip và thuốc điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-ly-do-amip-va-thuoc-dieu-tri-3176/feed/ 0
Nguyên nhân kiết lỵ do amip và hướng điều trị https://benh.vn/nguyen-nhan-kiet-ly-do-amip-va-huong-dieu-tri-3131/ https://benh.vn/nguyen-nhan-kiet-ly-do-amip-va-huong-dieu-tri-3131/#respond Fri, 16 Feb 2018 04:27:26 +0000 http://benh2.vn/nguyen-nhan-kiet-ly-do-amip-va-huong-dieu-tri-3131/ Kết lỵ do amip gây ra là một bệnh truyền nhiễm tại đường tiêu hóa, nguyên nhân gây bệnh là trùng amip. Biểu hiện bệnh gây đau bụng, tiêu chảy, phân có thể có dính máu. Người bệnh cần sử dụng các loại thuốc để điều trị nguyên nhân kết hợp bảo vệ đường ruột và phục hồi sức khỏe trong điều trị bệnh.

Bài viết Nguyên nhân kiết lỵ do amip và hướng điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Kết lỵ do amip gây ra là một bệnh truyền nhiễm tại đường tiêu hóa, nguyên nhân gây bệnh là trùng amip. Biểu hiện bệnh gây đau bụng, tiêu chảy, phân có thể có dính máu. Người bệnh cần sử dụng các loại thuốc để điều trị nguyên nhân kết hợp bảo vệ đường ruột và phục hồi sức khỏe trong điều trị bệnh.

lỵ amip

Vài nét về bệnh lỵ do amíp

Viêm đại tràng do amíp có triệu chứng  từ 2-6 tuần sau khi ăn phải kén lây nhiễm. Đau bụng dưới và tiêu chảy là triệu chứng có sớm, sau đó thì mệt mỏi và chán ăn, đau quặn bụng từng cơn ở vùng hố chậu phải (vùng hồi manh tràng), nếu bệnh kéo dài có thể đau cả hố chậu phải do tổn thương đại trực tràng; mót rặn và đi ngoài giả (mót đi ngoài nhưng không đi ngoài được) đau lan tỏa bụng dưới hoặc ra sau lưng. Trong thời kỳ toàn phát, người bệnh có thể đi đại tiện từ 10-15 lần/ngày, có cảm giác mót rặn muốn đi đại tiện mãi. Phân chủ yếu là máu và nhầy nhớt. Bệnh nhân bị lỵ amíp thường không sốt, đây là điểm để phân biệt với lỵ trực khuẩn (shigella) thường sốt nhiều, sốt cao.

Diễn tiến của đợt cấp tính kéo dài từ vài ngày đến vài tuần tùy theo việc điều trị được tiến hành sớm hay muộn. Bệnh lỵ amíp dễ bị tái nhiễm và tiến triển thành mạn tính.

Viêm đại tràng mạn tính do amíp thường dai dẳng với những biểu hiện đau bụng, phân sệt, bóng, cứ vài tuần hoặc vài tháng lại xảy ra một đợt cấp tính. Trong các trường hợp đau bụng, đi ngoài phân có nhầy nhớt và có máu, nhất thiết người bệnh phải vào nằm viện để được theo dõi và điều trị kịp thời. Người bệnh sẽ được soi phân tươi (soi phân vừa mới đi ngoài xong) để tìm amíp dạng hoạt động trong phân, đây là cách để chẩn đoán xác định. Ngoài ra còn có thể nội soi đại tràng hoặc Xquang đại tràng, hay xét nghiệm máu để tìm nguyên nhân gây bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh kiết lỵ cần phân biệt

Kiết lỵ do amip

là nguyên nhân thông thường nhất, do ký sinh vật amip gây nên những ổ loét ở đại, trực tràng, kích thích niêm mạc đại trực tràng nên có những dấu hiệu rất điển hình.

  • Dấu hiệu nhiễm khuẩn nhẹ.
  • Đau quặn và mót rặn, phân nhiều, lẫn nhiều niêm dịch.
  • Trong phân có amip (soi tươi). Rất hay táiphát, kéo dài.

Kiết lỵ trực khuẩn

  • Dấu hiệu nhiễm khuẩn rõ rệt.
  • Đau quặn và mót rặn, phân nhiều, lẫn nhiều niêm dịch, ít khi có máu (đại tiện giống như khạc đờm).
  • Phân có trực khuẩn lỵ (cấy).

Ung thư trực tràng

Nên chú ý khi hội chứng kiết lỵ kéo dài những người bệnh già.

Ung thư kích thích niêm mạc trực tràng gây nên.

  • Ít khi đau nhưng mót rặn nhiều.
  • Phân có máu và niêm dịch, có khi ra máu tươi.
  • Thăm trực tràng thấy khối u cứng, chảy máu; nếu nghi ngờ, nên sờ trực tràng và làm sinh thiết.

Ung thư đại tràng sigma

  • Mót rặn nhiều có khi đại tiện có máu và niêm dịch.
  • Có dấu hiệu bán tắc hoặc tắc ruột.
  • Khám thấy khối u, soi và  chụp đại tràng sẽ phát hiện được chính xác.

Các khối u xung quanh trực tràng. U tiền liệt tuyến, u cổ tử cung… có thể kích thích niêm mạc trực tràng gây nên phản xạ mót rặn và tiết nhiều niêm dịch.

Các xét nghiệm phải làm khi mắc bệnh lỵ

– Các xét nghiệm về phân tìm ký sinh vật, vi khuẩn, tế bào.

– Soi trực tràng và nếu cần thì sinh thiết niêm mạc trực tràng.

– Chụp khung đại tràng, trực tràng có thuốc cản quang.

Chẩn đoán bệnh kiết lỵ

– Tiền căn đau bụng, tiêu đàm máu.

– Di chuyển đến vùng có bệnh kiết lỵ.

– Có tiếp xúc với người tiêu đàm máu, đau bụng hoặc có nhiều người cùng mắc bệnh tương tự ở chung một tập thể hoặc quanh vùng cư ngụ.

– Xét nghiệm qua phân.

– Qua nội soi.

– X quang ruột già.

– Huyết thanh.

Điều trị bệnh kiết lỵ amíp

Amíp là những nguyên sinh động vật, chỉ là một tế bào nhưng có khả năng di chuyển định hướng nhờ các chân giả. Đa số các amíp sống tự do ở môi trường bên ngoài, một số ít sống ký sinh. Khi vào cơ thể sẽ gây ra các tổn thương (lỵ amíp) hoặc các tổn thương ngoài ruột như gan, não, da…

Trong ruột già của người có khoảng 6-7 loài amíp sống ký sinh, trong đó Entamoeba histolytica là tác nhân gây bệnh quan trọng. Hầu hết các trường hợp nhiễm amíp đều không có triệu chứng, vì vậy người bệnh thường ít khi tự phát hiện mình bị bệnh, nên bệnh có xu hướng chuyển thành mạn tính và kéo dài, khiến việc điều trị gặp không ít khó khăn. Do đó việc dùng thuốc điều trị bệnh do amíp như thế nào cho hiệu quả?

Những thuốc thường được sử dụng trong điều trị

– Emetin:

Đây là alkaloid chiết xuất từ cây Ipeca. Thuốc có nhiều độc tính và tích tụ trong cơ thể gây độc tính ở tim, thận, hệ thần kinh nên hiện nay ít dùng và được thay thế bằng dẫn chất tổng hợp là dehydroemetin ít độc hơn. Thuốc có tác dụng cản trở không hồi phục quá trình tổng hợp protein của amíp. Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai.

– Nhóm Imidazole (metronidazole, tinidazole, ornidazole):

Thuốc khuếch tán, thâm nhập sâu vào bên trong và phá hủy hay ức chế sự tổng hợp AND của ký sinh trùng. Loại thuốc này có ưu điểm diệt được cả thể kén và thể đơn bào amíp, nhưng khi dùng thuốc kéo dài cần lưu ý vì có thể gặp tác dụng phụ như chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, nổi mày đay… các dấu hiệu này thường nhẹ và hết sau khi cơ thể đào thải hết. Đặc biệt, đối với bệnh nhân có tiền sử rối loạn huyết động học khi sử dụng dài ngày loại thuốc này nhất thiết phải được theo dõi công thức bạch cầu. Thuốc này không được dùng cho phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc trong thời kỳ cho con bú.

– Nhóm di-iodohydroxyquinolin:

Là những thuốc trị amíp bằng cách tiếp xúc. Không nên dùng phối hợp các thuốc nhóm này với nhau hay dùng liều cao liên tục  vì  thuốc gây viêm tủy bán cấp, viêm dây thần kinh ngoại  biên và tổn  thương thị  giác. Thuốc này không dùng cho phụ nữ có thai, trẻ còn bú, bệnh nhân cường giáp. Tác dụng phụ có thể gặp là buồn nôn, đau dạ dày, dị ứng da, có thể gây rối loạn chức năng tuyến giáp.

Ngoài ra, trong dân gian còn dùng một số thuốc Đông y như hạt và vỏ của cây mộc hoa trắng, thừng mực lá to, sừng trâu, vỏ cây hậu phác, chiêu liêu, hoàng cầm… trong điều trị bệnh lỵ do amíp.

Để điều trị bệnh do amíp đạt hiệu quả cao, việc chọn lựa loại thuốc gì, hàm lượng cụ thể như thế nào nhất thiết phải do thầy thuốc chỉ định cụ thể, người bệnh không được tự ý dùng thuốc để tránh những tác dụng không mong muốn của các loại thuốc diệt amíp. Phòng bệnh chủ yếu là ăn chín uống sôi, rửa rau nhiều nước và kỹ dưới vòi nước chảy, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, nên cắt móng tay ngắn và không dùng phân tươi bón cho các loại rau.

Có thể gây rối loạn chức năng vận động của ruột, viêm đại tràng, trĩ, sa hậu môn. Nặng nhất là ký sinh trùng amibe lên gan gây ápxe gan do amibe.

Benh.vn

Xem thêm: Phân biệt bệnh kiết lỵ trực trùng và kiết lỵ amíp

Bài viết Nguyên nhân kiết lỵ do amip và hướng điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nguyen-nhan-kiet-ly-do-amip-va-huong-dieu-tri-3131/feed/ 0