Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Sun, 08 Oct 2023 07:07:49 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Bạc – Kim loại kháng khuẩn bí ẩn ngoài trái đất trị bệnh từ Đông Y tới Tây Y https://benh.vn/bac-kim-loai-khang-khuan-bi-an-voi-kha-nang-tri-benh-tu-dong-y-toi-tay-y-77484/ https://benh.vn/bac-kim-loai-khang-khuan-bi-an-voi-kha-nang-tri-benh-tu-dong-y-toi-tay-y-77484/#respond Mon, 17 Jul 2023 15:11:38 +0000 https://benh.vn/?p=77484 Bạc là kim loại quý trong tự nhiên, mặc dù người ta hiện nay biết tới Bạc chủ yếu với tác dụng trang trí, trang sức. Tuy nhiên, Bạc thực sự là một thần dược ngoài trái đất được ban cho con người với nhiều tác dụng chữa bệnh hiệu quả, đặc biệt là khả […]

Bài viết Bạc – Kim loại kháng khuẩn bí ẩn ngoài trái đất trị bệnh từ Đông Y tới Tây Y đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bạc là kim loại quý trong tự nhiên, mặc dù người ta hiện nay biết tới Bạc chủ yếu với tác dụng trang trí, trang sức. Tuy nhiên, Bạc thực sự là một thần dược ngoài trái đất được ban cho con người với nhiều tác dụng chữa bệnh hiệu quả, đặc biệt là khả năng kháng khuẩn mạnh.

Nano-bac-3d-1
Các hạt nano bạc – ảnh minh họa

Tìm hiểm về kim loại Bạc

Bạc hiện nay được biến đến là một kim loại dùng chủ yếu trong chế tác thủ công mỹ nghệ, làm đồ trang sức. Ít ai biết về lịch sử Bạc tới trái đất như thế nào và tác dụng chữa bệnh ra sao.

Lịch sử khám phá ra Bạc

Bạc là một trong năm loại kim loại cổ xưa nhất trên trái đất được loài người phát hiện theo thứ tự: Đồng, Chì, Vàng, Bạc, Sắt. Mặc dù, cùng nhóm kim loại nặng như Chì, Cadimi, Thủy Ngân, nhưng Bạc không hề độc hại mà rất an toàn cho người. Sau khi phát hiện ra Bạc, người ta cũng phát hiện ra nhiều đặc tính của Bạc với các ứng dụng to lớn trong cuộc sống.

Nguồn gốc của Bạc trên trái đất

Về nguồn gốc của Bạc, các nhà khoa học cho rằng, kim loại Bạc không phải là loại kim loại hình thành sẵn trên trái đất mà có nguồn gốc trong vũ trụ tương tự như Vàng. Do đó, Vàng, Bạc đều là các kim loại hữu hạn trên trái đất, không có khả năng hình thành thêm trong tự nhiên. Một số nghiên cứu công bố cho thấy, các phân tử Bạc có mặt trên trái đất hiện nay tới từ các vụ nổ những ngôi sao bé trong vũ trụ từ thời kỳ sơ khai. Và khi tới trái đất, kim loại Bạc đã thực sự trở thành một món quà vô giá của “Thượng đế” ban tặng cho con người nhờ khả năng dẫn điện, dẫn nhiệt, sát khuẩn, trị bệnh vô cùng mạnh mẽ và kỳ diệu.

kim-loai-bac-ngoai-trai-dat
Kim loại Bạc được cho rằng đã tới trái đất từ vụ nổ các ngôi sao nhỏ trong vũ trụ

Ứng dụng của kim loại Bạc trong sức khỏe

Kim loại Bạc được sử dụng trong y khoa rất nhiều lĩnh vực, có thể bạn chưa biết.

Sử dụng kim loại Bạc trong Đông Y

Đông Y sử dụng đồng bạc xòe, thìa bạc, dây chuyền bạc để cạo gió, đánh cảm từ lâu đời. Cách làm rất đơn giản. Đối với người bị trúng gió, nhiễm lạnh, bôi một chút dầu lên khu vực cần cạo gió, thường là vùng lưng, khu vực các khớp, sau đó sử dụng đồng bạc, dây chuyền bạc di chuyển từ trên xuống dưới. Sau khi thấy đồng bạc bị xỉn đen và cơ thể thấy dễ chịu hơn là được.

Ngoài ra, các thầy thuốc ở phương Bắc còn sử dụng một loại dung dịch có chứa nguyên tố bạc gọi là keo bạc trong nhiều bài thuốc trị bệnh bí truyền có tác dụng đặc trị các chứng bệnh tiêu hóa, hô hấp, nhiễm trùng, lở loét…. Tác dụng này sau đã được chứng minh là nhờ tính kháng khuẩn cực mạnh của nguyên tố bạc và lành tính với cơ thể người.

Trong dân gian và nhiều sách Đông Y cũng cho rằng, đeo trang sức Bạc có tác dụng nâng cao sức khỏe, trị bệnh. Đeo nhẫn bạc ở ngón trỏ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh thấp khớp. Đeo vòng bạc ở người lớn và trẻ em giúp giảm nguy cơ mắc bệnh do nhiễm cảm… Và còn rất nhiều những lợi ích khác cho sức khỏe từ Bạc.

cao-gio-bang-dong-bac-1
Cọa gió bằng đồng bạc cực kỳ hiệu quả trong Đông Y

Ứng dụng của kim loại Bạc trong Tây Y

Ông tổ ngành Y phương Tây là Hypocrate đã từng ghi chép lại và khẳng định “Bạc có tính chất ngăn ngừa và chống lại một số loại bệnh”. Tuy nhiên, phải tới những năm 1920, FDA mới chính thức thông qua cho phép sử dụng muối bạc như chất kháng khuẩn. Tuy nhiên, sau này muối bạc không được ứng dụng phổ biến vì độc tính với tế bào, gây bỏng rát cho cơ thể. Thay vào đó, bạc nguyên chất, keo bạc, Nano bạc nguyên chất được sử dụng rất phổ biến. Trong thế chiến thứ hai, năm 1942, bác sỹ người Anh R. Benton đã cho binh lính ở Miến Điện uống dung dịch keo bạc để điều trị bệnh tả và thương hàn. Thầy thuốc phương Tây trước đây cũng từng sử dụng bạc theo đường tiêm tĩnh mạch và đường uống để điều trị nhiều nhiễm trùng nguy hiểm. Tuy nhiên, hiện nay, dạng dùng chủ yếu được cho phép của Bạc là dùng ngoài da, niêm mạc như chế phẩm cao bôi bạc nguyên tố cho vết thương hở, rửa tay khô kháng khuẩn, nước súc miệng họng nano bạc….

pho-khang-khuan-cua-nano-bac_result
Nano bạc 20nm ức chế được nhiều loại vi khuẩn khác nhau

Ngày nay, Bạc Sulfadiazin 1% được công nhận là thuốc sử dụng trong điều trị các vết bỏng độ 2, độ 3. Không chỉ có tác dụng diệt khuẩn phổ rộng, kháng virus, kháng nấm, ion bạc trong các chế phẩm trị bỏng, vết thương còn giúp kích thích mau liền các vết thương, vết loét như vết thương hở ngoài da, vết loét miệng…

Ứng dụng công nghệ Plasma tạo Bạc siêu phân tử kích thước Nano – Nano Bạc chuẩn hóa

Công nghệ nano chuẩn hóa nano bạc ứng dụng nâng cao giá trị của Bạc kim loại

Tác dụng kháng khuẩn của kim loại bạc có được là nhờ ion bạc tự do. Khả năng kháng khuẩn và tác dụng của bạc phụ thuộc vào diện tích tiếp xúc của bạc với mầm bệnh. Do đó, để gia tăng khả năng kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm và các tác dụng bề mặt khác của Bạc, người ta tìm cách phân tán nhỏ các ion bạc ở kích thước nano. Nhờ công nghệ hiện đại, hiện nay, Nano bạc rất phổ biến trong vô số các lĩnh vực từ công nghiệp, sức khỏe, nha khoa, y sinh, dệt may… Kích thước hạt nhỏ, diện tích bề mặt tiếp xúc tăng lên tối đa, khả năng diệt khuẩn, kháng virus và vi nấm cũng vượt trội.

Nano-bac-tieu-diet-vi-khua-e-coli-1
Nano Bạc phá vỡ cấu trúc của vi khuẩn, điển hình là E. Coli

Mặc dù nguyên tố bạc rất an toàn với cơ thể, nhưng muối bạc hầu như đều độc và có thể gây bỏng rát nguy hiểm. Do đó, cần có phương pháp chuẩn hóa nano bạc trong chế tạo Nano bạc hay còn gọi là Nano bạc chuẩn hóa, ưu việt vượt trội.

Lần đầu tiên, ứng dụng Nano bạc chuẩn hóa cho chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam

Hiện nay, tại Việt Nam, các nhà khoa học tại Việt Nam kết hợp cùng các nhà dược học đã chuẩn hóa được nano bạc sử dụng trong y tế, có khả năng bào chế nhiều chế phẩm dùng trên người, mang hiệu quả y tế cao.

  • Hoàn toàn không chứa muối bạc nên rất an toàn với cơ thể.
  • Kích thước hạt Nano bạc được chuẩn hóa từ 5-30nm
  • Hiệu quả diệt khuẩn, diệt virus cao.
  • Có khả năng biến tính để tăng cường hoạt tính kháng virus, kháng viêm, liền loét, tăng độ an toàn khi sử dụng trên người.
  • Độ ổn định của nano bạc cao, ổn định ngay cả trong các môi trường khó ổn định như trong muối ăn.

Công ty Dược phẩm Innocare đã kết hợp cùng các nhà khoa học Việt Nam, cho ra đời thương hiệu PlasmaKare với thành phần Nano bạc chuẩn hóa kết hợp thành phần Tannic acid tạo thành phức hệ nano bạc TSN có khả năng kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm, hỗ trợ lành, kháng viêm các vết loét hiệu quả. Các sản phẩm mang thương hiệu PlasmaKare gồm.

  • Bộ sản phẩm bảo vệ mũi họng: Súc họng miệng PlasmaKare, Xịt mũi xoang PlasmaKare X-Spray.
  • Các sản phẩm chăm sóc da: Gel PlasmaKare No5 đa năng cho da – niêm mạc, Xịt da chống muỗi PlasmaKare giúp xua muỗi và bảo vệ da.

Bài viết Bạc – Kim loại kháng khuẩn bí ẩn ngoài trái đất trị bệnh từ Đông Y tới Tây Y đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/bac-kim-loai-khang-khuan-bi-an-voi-kha-nang-tri-benh-tu-dong-y-toi-tay-y-77484/feed/ 0
Nano bạc, tác dụng nổi bật và những lưu ý khi sử dụng https://benh.vn/tac-dung-nano-bac-luu-y-khi-su-dung-va-phan-biet-nano-bac-that-gia-75632/ https://benh.vn/tac-dung-nano-bac-luu-y-khi-su-dung-va-phan-biet-nano-bac-that-gia-75632/#respond Fri, 17 Mar 2023 02:14:19 +0000 https://benh.vn/?p=75632 Nano bạc là gì? Tại sao Nano bạc lại được quan tâm và ứng dụng phổ biến trong một vài năm trở lại ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nano bạc và bạc khác nhau như thế nào mà giá trị của Nano bạc cao hơn nhiều so với bạc nguyên chất? Nano bạc được sử dụng để làm gì và lưu ý gì khi sử dụng, chọn mua sản phẩm Nano bạc?

Bài viết Nano bạc, tác dụng nổi bật và những lưu ý khi sử dụng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nano bạc là gì? Tại sao Nano bạc lại được quan tâm và ứng dụng phổ biến trong một vài năm trở lại ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nano bạc và bạc khác nhau như thế nào mà giá trị của Nano bạc cao hơn nhiều so với bạc nguyên chất? Nano bạc được sử dụng để làm gì và lưu ý gì khi sử dụng, chọn mua sản phẩm Nano bạc?

nano-bac-3d-hinh-cau
Các hạt nano bạc – ảnh minh họa

Nano bạc là gì?

Nano bạc là dạng tồn tại của kim loại bạc ở kích thước Nano, nhờ đó diện tích bề mặt đặc hiệu của bạc tăng lên hàng triệu lần so với bạc thông thường. Kích thước phổ biến của các phân tử Nano bạc nằm trong khoảng từ 10-100 nm.

Dạng tồn tại của Nano bạc

Trên thực tế, người ta thường gọi là keo bạc Nano, tuy nhiên, dung dịch Nano bạc không hề nhớt như dạng keo mà dung dịch Nano bạc thật sẽ có độ nhớt tương đương như nước thông thường nếu chỉ nhìn bằng mắt thường. Dung dịch Nano bạc thật luôn có màu từ vàng tới đỏ sẫm, thậm chí gần như đen nếu nồng độ lên tới 5,000 ppm. Cho nên những dạng dung dịch trong suốt có trên thị trường mà quảng cáo là Nano bạc thì hầu như không có chút Nano bạc nào hoặc có cũng như không. Nano bạc cũng không tồn tại ở thể rắn, nên một số loại “Nano bạc” dạng bột trên thị trường thực tế cũng không có Nano.

mau-sac-nano-bac-chuan
Nano bạc chuẩn luôn có màu, màu sắc thay đổi theo nồng độ nano bạc và theo kích thước hạt Nano bạc

Phương pháp sản xuất Nano bạc

Nói chung có hai phương pháp chế tạo Nano bạc chính là phương pháp vật lý và phương pháp hóa học. Mỗi phương pháp lại có thể sử dụng những cách khác nhau hoặc kết hợp giữa vật lý, hóa học, sinh học. Các biện pháp chế tạo hạt Nano bạc cụ thể như sau.

(1) Phương pháp chế tạo nano bạc bằng ăn mòn laze

Phương pháp này sử dụng chùm tia laze với bước sóng ngắn bắn lên vật liệu khối đặt trong dung dịch có chứa chất hoạt hóa bề mặt. Các hạt 7 nano được tạo thành với kích thước khoảng 10 nm và được bao phủ bởi chất hoạt hóa bề mặt.

Che-tao-nano-bac-bang-tia-laser
Sử dụng phương pháp laser để chế tạo Nano bạc

(2) Phương pháp khử hóa học chế tạo nano bạc

Phương pháp này sử dụng các tác nhân hóa học để khử ion kim loại thành kim loại. Để các hạt phân tán tốt trong dung môi mà không bị kết tụ thành đám, người ta sử dụng phương pháp tĩnh điện để làm cho bề mặt các hạt nano có cùng điện tích và đẩy nhau hoặc dùng phương pháp bao bọc bằng chất hoạt hóa bề mặt. Các hạt nano tạo thành bằng phương pháp này có kích thước từ 10 nm đến 100 nm.

(3) Phương pháp khử vật lý chế tạo nano bạc sạch

Phương khử vật lí dùng các tác nhân vật lí như điện tử, sóng điện từ năng lượng cao như tia gamma, tia tử ngoại, tia laser khử ion kim loại thành kim loại. Dưới tác dụng của các tác nhân vật lí, có nhiều quá trình biến đổi của dung môi và các phụ gia trong dung môi để sinh ra các gốc hóa học có tác dụng khử ion thành kim loại.

phuong-phap-che-tao-nano-bac
Các phương pháp chế tạo Nano bạc

(4) Phương pháp khử hóa lý bào chế nano bạc

Đây là phương pháp trung gian giữa hóa học và vật lí. Nguyên lí là dùng phương pháp điện phân kết hợp với siêu âm để tạo hạt nano. Phương pháp điện phân thông thường chỉ có thể tạo được màng mỏng kim loại. Trước khi xảy ra sự hình thành màng, các nguyên tử kim loại sau khi được điện hóa sẽ tạo các hạt nano bàm lên điện cực âm. Lúc này người ta tác dụng một xung siêu âm đồng bộ với xung điện phân thì hạt nano kim loại sẽ rời khỏi điện cực và đi vào dung dịch.

(5) Phương pháp khử sinh học bào chế nano bạc xanh

Dùng vi khuẩn là tác nhân khử ion kim loại. Người ta cấy vi khuẩn MKY3 vào trong  dung dịch có chứa ion bạc để thu được hạt nano bạc. Phương pháp này đơn giản, thân thiện với môi trường và có thể tạo hạt với số lượng lớn.

(6) Chế tạo Nano bạc bằng phương pháp Plasma

Nano bạc được chế tạo trực tiếp từ điện cực bạc 99,99% bằng phương pháp plasma điện hoá. Ion Ag+ được giải phóng từ điện cực dưới tác dụng của quá trình ăn mòn điện hoá sẽ được khử ngay bằng plasma tạo các hạt nano bạc.

nano-bac-plasma
Cơ chế tạo Nano bạc plasma

Giá bán của Nano bạc

Dân gian có câu nói “Tiền nào của nấy” có lý của nó. Trong thời buổi khoa học kỹ thuật và thông tin truyền thông phát triển như hiện nay, sẽ rất khó để có được một mức giá hời khi bạn tìm mua một sản phẩm có chất lượng cao. Qua khảo sát sơ bộ trên một số trang thông tin TMĐT quốc tế, có thể thấy Nano bạc khá cao để có thể đưa vào các sản phẩm giá bình dân tại Việt Nam. Giá một số sản phẩm Nano bạc đang được chào hàng tới các công ty như sau.

Bạc hạt: 530 USD/kg (khoảng 12.000 đồng/gam)

Muối bạc: 600 USD/kg  (khoảng 21.000 đồng/gam)

Nano bạc công nghiệp 500 ppm (Nga) 200 EU/lít, (khoảng 10.200.000 đồng/gam)

Nano bac công nghiệp 1.000 ppm (Hàn Quốc): 800 USD/L, (khoảng 17.900.000 đồng/gam)

Keo nano bạc 20 ppm dùng cho nghiên cứu (Mỹ): 215 SD/25 ml, (khoảng 6 tỷ đồng/gam)

Các tác dụng, tính chất Nano bạc

Tác dụng kháng khuẩn của nano bạc là nổi bật hơn cả. Tuy nhiên, ngoài tác dụng kháng khuẩn, Nano bạc còn sở hữu nhiều tác dụng vô cùng hữu ích cho khoa học, không phải ai cũng biết.

Tác dụng của Nano bạc trên quang học

Khi các hạt nano bạc tiếp xúc với ánh sáng  sẽ khiến các electron tự do dao động, gây ra sự phân tách điện tích đối với mạng lưới ion, tạo thành một dao động lưỡng cực dọc theo hướng của điện trường của ánh sáng. Biên độ dao động đạt cực đại tại một tần số cụ thể, được gọi là cộng hưởng plasmon bề mặt.

Các tính chất hấp thụ và tán xạ của các hạt Nano bạc có thể thay đổi nếu kiểm soát được kích thước hạt, hình dạng hạt Nano bạc và chỉ số khúc xạ gần bề mặt hạt Nano bạc. Ví dụ, các hạt Nano bạc nhỏ chủ yếu hấp thụ ánh sáng và có các cực đại gần 400nm, trong khi các hạt nano lớn hơn thì sự tán xạ tăng lên, có các đỉnh mở rộng và dịch chuyển sang các bước sóng dài hơn.

Pho-hap-thu-anh-sang-cua-nano-bac-chuan_result
Nano bạc có phổ hấp thụ ánh sáng đặc trưng

Tác dụng kháng khuẩn của Nano bạc

Nano bạc thể hiện tính chất kháng khuẩn mạnh nhất trên trái đất là sự thừa hưởng tính chất kháng khuẩn của nguyên tố Bạc và diện tích hoạt động bề mặt cực lớn. Trong thực tế, Nano bạc đã  được sử dụng để kháng khuẩn trong nhiều ứng dụng như Nha khoa, Phẫu thuật, Điều trị vết thương và bỏng, và các thiết bị y sinh. Cơ chế diệt khuẩn của Nano bạc cũng dần được sáng tỏ, các hạt Nano bạc có thể gây ra thay đổi cấu trúc và hình thái vi khuẩn và tiêu diệt tế bào vi khuẩn. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng tác dụng kháng khuẩn của các hạt nano bạc chủ yếu là do sự giải phóng các ion bạc tự do từ các hạt nano, và các hạt Nano bạc đóng vai trò là phương tiện lưu giữ các ion bạc.

Nano-bac-tieu-diet-vi-khuan
Nano bạc tiêu diệt được nhiều loại vi khuẩn hiệu quả bậc nhất

Nano bạc và Ứng dụng trong thực tế

Nano bạc có rất nhiều ứng dụng trong thực tế từ các lĩnh vực y dược, tới nông lâm nghiệp, chẩn đoán hình ảnh… Tuy nhiên, tùy từng ứng dụng mà sử dụng loại nano bạc khác nhau.

Nano bạc ứng dụng trong cảm biến

Peptide được phủ nano bạc dành cho cảm biến đo màu được nghiên cứu nhiều năm qua. Nghiên cứu này dựa trên tương tác peptide và bạc, cũng như ảnh hưởng của peptide đến sự hình thành nano bạc. Cảm biến huỳnh quanh có hạt nano bạc có độ đặc hiệu rất cao, vượt qua các giới hạn phát hiện thông thường khác.

Nano bạc ứng dụng trong đầu dò quang học

Các hạt nano bạc được sử dụng rộng rãi trong đầu dò quang học nhờ tán xạ Raman tăng cường bề mặt (SERS) và huỳnh quang tăng cường kim loại (MEF). So với các kim loại quý khác, các hạt nano bạc thể hiện nhiều lợi thế hơn khi ứng dụng cho đầu dò.

ong-noi-soi-co-the-su-dung-nano-bac_result
Nano bạc có thể ứng dụng trong sản xuất các ống nội soi

Nano bạc ứng dụng là chất kháng khuẩn

Nano bạc được ứng dụng phổ biến nhất trong các sản phẩm Y tế và tiêu dùng với tác dụng kháng khuẩn. Ví dụ, hàng dệt may, túi bảo quản thực phẩm, bề mặt tủ lạnh và các sản phẩm chăm sóc cá nhân. Tác dụng kháng khuẩn của Nano bạc được chứng minh là do sự giải phóng các ion Bạc tự do. Ở dạng Nano, các hạt ion Bạc được bảo vệ trong hạt Nano với bề mặt tiếp xúc rất lớn nên hiệu quả diệt khuẩn cũng vì thế trở nên nhanh và mạnh mẽ.

Tuy nhiên, hạt Nano bạc tạo theo các phương pháp khác nhau, với kích thước khác nhau, hình dạng khác nhau, và chất bảo vệ khác nhau sẽ có những tác dụng kháng khuẩn, diệt virus, diệt nấm khác nhau rất nhiều. Ngoài ra, độ an toàn của Nano bạc khi sử dụng trên người cũng rất khác nhau ở các hạt Nano bạc có đặc điểm khác nhau nên khi sử dụng Nano bạc làm sản phẩm sử dụng cho người cần đặc biệt lưu ý các tính chất trên của hạt Nano bạc.

Nano bạc ứng dụng làm chất xúc tác

Các hạt nano bạc đã được chứng minh là có tính chất oxi hóa khử xúc tác cho các tác nhân sinh học như thuốc nhuộm, cũng như các tác nhân hóa học như benzen. Môi trường hóa học của hạt nano đóng vai trò quan trọng trong tính chất xúc tác của chúng. Ngoài ra, quá trình xúc tác diễn ra bằng cách hấp phụ các chất phản ứng với chất nền xúc tác. Khi các polyme, phối tử hoặc chất hoạt động bề mặt được sử dụng làm chất ổn định hoặc để ngăn chặn sự kết tụ của các hạt nano, khả năng xúc tác thường bị giảm do khả năng hấp phụ giảm. Nhìn chung, các hạt nano bạc chủ yếu được sử dụng với titan dioxide làm chất xúc tác cho các phản ứng hóa học.

Nano bạc và khả năng kháng khuẩn tuyệt vời

Khả năng kháng khuẩn của Nano bạc được bắt nguồn từ nguyên tố Bạc. Truyền thống sử dụng bạc với tác dụng kháng khuẩn đã có từ xa xưa trong cả y học phương đông và y học phương tây. Tuy nhiên, càng về gần đây, ứng dụng nano bạc kháng khuẩn ngày càng được mở rộng trong nhiều lĩnh vực cuộc sống.

Bạc diệt khuẩn và lịch sử ứng dụng kéo dài

Vào cuối thế kỷ 18 các nhà khoa học Ph­ương Tây đã công nhận keo bạc mà Đông Y đã sử dụng hàng nghìn năm trước đó có hiệu quả sát trùng cực kỳ hiệu quả. Thời kỳ đó ở phương Tây, huyết thanh ng­ười được coi là một dịch keo và keo bạc đã được sử dụng từ đó, và kể từ đó keo bạc đư­ợc xem là một trong những chất sát khuẩn tốt nhất.

Cuối thế kỷ 19, dung dịch keo bạc bắt đầu được sử dụng hết sức rộng rãi trong y học dưới tên gọi Collargol và keo bạc oxyd gọi là Protargol đã được các bác sỹ sử dụng cho đến tận ngày nay.

lich-su-su-dung-bac-tren-the-gioi_result
Bạc có một lịch sử sử dụng rất lâu đời trên thế giới

Keo bạc còn đã được sử dụng dạng thuốc tiêm để điều trị bệnh viêm khớp, viêm phế quản, các bệnh đường hô hấp, cúm, viêm phổi, các vết thương có mủ; dưới dạng uống – các bệnh đường tiêu hóa, loét dạ dày…. Keo bạc dùng ngoài da để điều trị các vết thương có mủ – hoại tử, bệnh da liễu, bỏng, mụn nhọt; một số bệnh khác như viêm tuyến vú, giang mai, hủi, đau mắt hột, viêm màng não, tiền đình….

Đối với các bệnh viêm phổi do nhiễm Staphylococcus, Streptococcus, Klebsiella và nấm các bác sỹ trước kia đã từng cho bệnh nhân uống dung dịch keo bạc. Khi đó Penicillins không có hiệu quả điều trị các bệnh này.

Thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II (năm 1942) bác sỹ người Anh R. Benton đã ngăn chặn được hoàn toàn bệnh dịch tả và thương hàn trong một đơn vị lính đang xây đường Miến Điện – Assam bằng cách cho họ uống nước chứa keo bạc (10mg/lít). Loại keo bạc này thu được bằng phương pháp điện phân nước uống sử dụng điện cực từ bạc kim loại.

Nano bạc có tính kháng khuẩn mạnh vượt trội

Bạc là một kim loại có khả năng kháng khuẩn tuyệt vời nhất trên thế giới nhờ ion Bạc (Ag+). Mặc dù, ion kim loại qúy khác như­ Au, Pt, Pd, Ir và một số kim loại chuyển tiếp khác như­ Cu, Zn, Fe, Co, Ni cũng đều có khả năng diệt khuẩn, nhưng chỉ có ion bạc thể hiện tính năng đó mạnh nhất cho tới nay.

Ion Ag+ trong bạc chính là yếu tố trực tiếp có tác dụng tiêu diệt vi sinh vật. Khi ở dạng muối bạc, dung dịch có Ag+ nên có tác dụng diệt khuẩn mạnh. Ở dạng Nano bạc, diện tích tiếp xúc của Bạc trở nên lớn hơn rất nhiều so với dạng thông thường chính vì vậy khả năng diệt khuẩn hiệu quả gấp bội.

Cơ chế kháng khuẩn của Nano bạc

Hiện nay, cơ chế kháng khuẩn của các ion Bạc chưa rõ ràng nhưng, đa số các nhà khoa học đồng thuận với 03 cơ chế kháng khuẩn của ion Bạc như sau.

(1) ion Bạc chúng phá hủy chức năng hô hấp.

(2) ion Bạc phá hủy chức năng của thành tế bào.

(3) ion Bạc liên kết với DNA của tế bào vi sinh vật và phá hủy chức năng của chúng.

Cho tới thời điểm hiện tại, trong giới khoa học đang tồn tại một số quan điểm giải thích cơ chế diệt khuẩn của bạc. Cơ chế diệt khuẩn của Bạc chủ yếu dựa trên sự tương tác tĩnh điện giữa ion bạc mang điện tích dương và bề mặt tế bào vi khuẩn mang điện tích âm. Ngoài ra còn dựa trên khả năng vô hiệu hóa nhóm thiol trong men vận chuyển Oxy, hoặc trên sự tương tác của ion bạc với DNA dẫn đến sự dime hóa pyridin và cản trở quá trình sao chép DNA của tế bào vi khuẩn.

co-che-diet-khuan-cua-nano-bac
Các đích tác dụng lên vi khuẩn của nano bạc

Các nhà khoa học thuộc hãng Inovation Hàn Quốc cho rằng Bạc tác dụng lên màng bảo vệ của tế bào vi khuẩn. Màng này là một cấu trúc gồm các glycoprotein được liên kết với nhau bằng cầu nối axit amin để tạo độ cứng cho màng. Các ion bạc tương tác với các nhóm peptidoglican và ức chế khả năng vận chuyển oxy của chúng vào bên trong tế bào, dẫn đến vi khuẩn bị tê liệt.

Cơ chế tác động của các ion bạc lên vi khuẩn được các nhà khoa học Trung Quốc tại ANSON mô tả như sau: khi ion Ag+ tác dụng với lớp màng của tế bào vi khuẩn nó sẽ phản ứng với nhóm sunphohydril –SH của phân tử men chuyển hóa oxy và vô hiệu hóa men này dẫn đến ức chế quá trình hô hấp của tế bào vi khuẩn. Ngoài ra, các ion bạc còn có khả năng ức chế quá trình phát triển của vi khuẩn bằng cách sản sinh ra Oxy nguyên tử siêu hoạt tính trên bề mặt của hạt bạc theo phương trình hóa học sau.

2Ag+ + O-2 ® 2Ag0 + O0

Theo một số nhà khoa học Nga, lý thuyết hấp phụ giải thích khả năng diệt khuẩn của ion Bạc hiện đang được chấp nhận rộng rãi hơn cả. Theo đó, tế bào vi khuẩn bị vô hiệu hóa là do kết quả của quá trình tương tác tĩnh điện giữa bề mặt mang điện tích âm của tế bào và ion Ag+ được hấp phụ lên đó, các ion này sau đó xâm nhập vào bên trong tế bào vi khuẩn và vô hiệu hóa chúng. Đối với hạt nano bạc tác dụng trên vi khuẩn sẽ phải chuyển đổi từ hạt nano bạc sang ion Ag+ tự do và các ion tự do này sau đó tác dụng lên các vị trí mang điện tích âm trên vi khuẩn.

Khả năng diệt khuẩn của ion bạc không dựa trên đặc tính gây nhiễm của vi khuẩn như là đối với các chất kháng sinh, mà dựa trên cơ chế tác dụng lên cấu trúc tế bào. Bất cứ tế bào nào không có màng bền hóa học bảo vệ (vi khuẩn và virut thuộc cấu trúc loại này) đều chịu tác động của bạc. Các tế bào động vật máu nóng không chứa các lớp peptidoglycan, nên bạc không tác động được.

Nano bạc diệt được nhiều loại vi khuẩn

Nano bạc có thể tác động lên 650 loài vi khuẩn. Trong khi phổ tác động của bất kỳ chất kháng sinh nào cũng chỉ từ 5 – 10 loài. Hầu hết các chủng vi khuẩn gây bệnh thường gặp như vi khuẩn gây viêm họng, viêm phổi, vi khuẩn uốn ván, gây bệnh ngoài da, viêm khuẩn hiếm khí và kỵ khí, gram âm và gram dương đều bị tiêu diệt bởi ion Bạc có trong Nano bạc. Nhờ cơ chế tác động không phân biệt giữa vi khuẩn này với vi khuẩn khác nên Nano bạc hầu như không bị kháng giống như kháng sinh, do đó, thường là một giải pháp hiệu quả thay thế kháng sinh khi không thực sự cần thiết, nhất là các nhiễm trùng tại chỗ, trên da, niêm mạc.

pho-khang-khuan-cua-nano-bac_result
Nano bạc 20nm ức chế được nhiều loại vi khuẩn khác nhau

Nano bạc có tác dụng trên virus

Ion bạc trong các hạt Nano bạc có khả năng vô hiệu hóa các loài virut gây bệnh đậu mùa, bệnh cúm A-1, B, adenovirus và HIV. Nano bạc cũng có điều trị hiệu quả các bệnh virus Marburg, virus bệnh đường ruột (enterit) và virut bệnh dại. Tuy nhiên, để có thể vô hiệu hóa hoàn toàn virut bacteriophage đường ruột N163, virut Koksaki serotyp A-5, A-7, A-14 cần đến nồng độ bạc cao hơn (0.5 – 5.0mg/lít – tương đương 5ppm Nano bạc plasma tinh khiết) so với trường hợp xử lý Escherichia, Salmonella, Shigellia và các loài virut đường ruột khác (0.1 – 0.2 mg/lít – tương đương 0.1-0.2ppm Nano bạc Plasma tinh khiết).

Một nghiên cứu công bố năm 2021 của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy Nano bạc ở kích thước nhỏ <20nm có khả năng tiêu diệt hiệu quả virus Sars-CoV-2, giúp ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm loại virus gây bệnh đang hoành hành này.

nano-bac-khang-virus
Nano bạc có thể ngăn không cho virus bám lên bề mặt của tế bào vật chủ

Nano bạc có tác dụng chống Nấm

Số liệu công bố của Kulskii A. L. cho thấy khả năng diệt nấm của ion bạc. Tại nồng độ 0.1mg/lít (tương đương 0.1ppm) bạc thể hiện rõ khả năng diệt nấm. Với mật độ 105 tb/lít nấm Candida albicans bị vô hiệu hóa hoàn toàn sau 30 phút tiếp xúc. Nấm Candida albicans thường gây bệnh trên người, đặc biệt là viêm nhiễm phụ khoa sinh dục, viêm miệng lở loét. Ngoài ra, Nano bạc cũng có phổ tác dụng trên nhiều loại nấm khác đã được thử nghiệm sử dụng hiệu quả.

nano-bac-diet-nam
Nano bạc ức chế và phá hủy tế bào nấm

Độ an toàn của Nano bạc và lưu ý khi sử dụng

Nano bạc được cho là an toàn và có thể sử dụng lâu dài đặc biệt là ở các dạng dùng ngoài, trên niêm mạc. FDA quy định cả liều tối đa sử dụng keo bạc an toàn theo đường uống vào trong cơ thể. Y văn trên thế giới không có quy định về chống chỉ định sử dụng nano bạc.

Độ an toàn của Nano bạc đã được thử nghiệm

Tác dụng của ion bạc lên tế bào động vật cấp cao luôn được quan tâm đặc biệt. Người ta phát hiện ra rằng khi ủ các tế bào não của chuột và của vi sinh vật vào dung dịch có ion bạc hình thái của hồng cầu và bạch cầu hoàn toàn không thay đổi, trong khi các tế bào vi khuẩn bị tiêu diệt hoàn toàn. Các tế bào chuột dưới tác động của ion bạc chuyển thành dạng hình cầu nhưng không bị phá hủy và thành tế bào giữ nguyên dạng. Các tế bào não chuột này sau đó sinh sản bình thường và cấu trúc tế bào cũng như khả năng sinh sản vẫn được giữ nguyên.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã xác định liều lượng bạc tối đa không gây ảnh hưởng đối với sức khỏe con người là 10g (nếu hấp thụ từ từ). Nghĩa là, nếu một người trong toàn bộ cuộc đời của mình (70 tuổi) ăn và uống vào 10g bạc, đảm bảo không có vấn đề gì về sức khỏe. Trên cơ sở đó Tổ chức EPA của Mỹ (Cục bảo vệ môi sinh Hoa Kỳ) đã xác lập tiêu chuẩn tối đa cho phép của bạc trong nước uống của Mỹ là 0.05mg/lít, trong khi Cộng đồng châu Âu áp dụng tiêu chuẩn tối đa cho phép là 0.01mg/lít và tại LB Nga là 0.05mg/lít.

Nhằm đánh giá độc tính của bạc năm 1991 Cục Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ EPA đưa ra khái niệm liều chuẩn RFD (reference dose) là lượng bạc được phép hấp thụ mỗi ngày mà không tác động xấu cho sức khỏe trong suốt cuộc đời. Liều chuẩn được EPA chấp nhận là 0,005mg/kg/ngày. Như vậy, một người có trọng lượng 70kg được phép tiếp nhận vào người tối đa 350mg bạc mỗi ngày. Nồng độ bạc tối đa cho phép trong nước uống của Mỹ là 100mg/lít (EPA 1991). Nếu mỗi ngày uống 2lít nước thì con người nhận vào 200mg bạc, các loại thực phẩm ăn vào mỗi ngày chiếm trung bình 90mg và phần còn lại dành cho việc khác không quá 60mg. Do đó, nhiều phương pháp điều trị bệnh bằng bạc trước đây đã bị hủy bỏ như: bệnh động kinh – cho uống dung dịch nitrat bạc, bệnh giang mai – tiêm ven dung dịch arsphenamin bạc; nhiều bệnh nhiễm trùng – cho uống keo bạc.

nano-bac-co-an-toan-khong
Nano bạc được xem xét độ an toàn trong nhiều tài liệu của WHO, EPA Hoa Kỳ và Châu Âu

Theo Vainar A. I. bạc là một nguyên tố vi lượng cần thiết cho sự hoạt động của các tuyến nội tiết, não và gan, tuy nhiên với nồng độ cho phép không được vượt quá 0.05mg/lít dịch cơ thể. Cũng theo ông, khẩu phần cho người mỗi ngày trung bình 80mg ion bạc. Tổng hàm lượng bạc trong cơ thể người và động vật được xác định là 0.2mg/kg trọng lượng khô, trong đó não, các tuyến nội tiết, gan, thận và xương chứa hàm lượng cao nhẩt. Khi có mặt ion bạc cường độ phosphoryl hóa ôxy hóa trong các ty thể não cũng như hàm lượng axit nucleic tăng lên đáng kể giúp cải thiện chức năng não. Khi ngâm các mô khác nhau vào dung dịch sinh lý có nồng độ ion bạc 0.001mg/lít mức độ hấp thụ oxy của mô não tăng 24%, cơ tim – 20%, gan – 36%, thận – 25%. Nhưng nếu tăng nồng độ Ag+ lên 0.01mg/lít thì mức độ hấp thụ ôxy của các mô đó giảm xuống rõ ràng. Điều đó chứng tỏ các ion bạc đã tham gia vào việc điều chỉnh quá trình trao đổi năng lượng và tác dụng này thay đổi theo nồng độ bạc tham gia.

Brugdunov Брызгунов В.С. và các cộng sự công bố kết quả nghiên cứu lâm sàng khi cho bệnh nhân uống nước ion bạc thay nước uống với nồng độ 30 – 50 mg/lít trong thời gian 7 – 8 năm cho thấy hiện tượng tích tụ bạc dưới da làm cho da bệnh nhân có màu xám (bệnh argiria), hậu quả của quá trình khử quang hóa của các ion bạc. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu không phát hiện thấy bất kỳ thay đổi nào về chức năng các cơ quan nội tạng ở người sử dụng, không những thế các bệnh nhân còn có khả năng đề kháng đối với nhiều loại vi khuẩn và virus.

Vai trò sinh lý của bạc trong cơ thể con người hiện tại vẫn chưa được làm rõ. Nhiều ý kiến cho rằng bạc giữ vai trò như một chất ức chế men. Các kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng các ion bạc có thể tương tác với các bazơ nitơ timin và guanin của phân tử DNA làm rối loạn các chức năng của DNA, dẫn đến ức chế quá trình phát triển và sinh sản của vi sinh vật. Ion bạc có khả năng bao vây các nhóm –SH có mặt trong tâm hoạt động của rất nhiều loại men và ức chế hoạt tính của chúng.

Mặc dù tính an toàn y học của nano bạc đã được nhiều công trình nghiên cứu xác nhận, người ta vẫn có thể tìm thấy trong các tài liệu công bố một số ý kiến không đồng quan điểm về tính năng sát khuẩn và độc tính của nano bạc. Một số ý kiến điển hình được dẫn ra dưới đây.

Theo Đại bách khoa toàn thư y học Liên Xô (T.23, 190-192, XB lần III), bạc là chất độc tế bào, là chất sinh học ngoại lai (xenobiotic), và theo quy định của Bộ Y tế Nga có độc tính bậc II, tương đương Pb. Cũng theo số liệu công bố này, gan là cơ quan chịu trách nhiệm bài tiết lượng bạc ra khỏi cơ thể với thời gian bán bài tiết 50 ngày, và dưới tác dụng lâu dài của bạc có thể xuất hiện bệnh đường tiêu hóa, gan to và đau. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là đánh giá trên các chế phẩm bạc uống vào cơ thể.

Ủy ban khoa học về thuốc và thiết bị y tế của Mỹ SCMPD (Sci. Committee on Med. Products and Devices) ngày 27-6-2000 đã công bố văn bản chính thức cấm sử dụng bạc làm thuốc uống cho người, chỉ được áp dụng tại chỗ trên da hoặc trên niêm mạc. Tuy nhiên trong khi đó Khối EEC lại ra văn bản Annex IV 94/36 E 174 cho phép sử dụng kim loại này làm chất tạo màu cho thực phẩm, đồng thời một số sản phẩm thực phẩm chức năng hiện đang được lưu hành ở Mỹ cho phép người sử dụng uống vào người mỗi ngày ≤ 0.03mg bạc.

Tác giả Fiona Gray cho rằng các hạt nano bạc chỉ có thể sử dụng an toàn và hiệu quả dưới dạng băng gạc, súc miệng họng, điều trị bên ngoài, trong khi đó các chuyên gia lo ngại rằng việc sử dụng bên trong có thể dẫn đến sự tích tụ nano bạc bên trong cơ thể, làm phá hủy các tế bào não, chức năng gan, làm xuất hiện các bệnh về máu v.v…

Một số nhà khoa học cho rằng dung dịch nano bạc dưới dạng nước uống, mặc dù cơ chế tác dụng của nó chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn nhưng vẫn đang được sử dụng rộng rãi đến mức đáng ngạc nhiên. Chẳng hạn, chính nữ GS. Vicki Stone thuộc trường Đại học Napier của Mỹ, là người chuyên nghiên cứu về hiệu ứng nano bạc đối với cơ thể người, đã được người làm đầu cho mình khuyên nhủ nên sử dụng nano bạc. Vị Giáo sư này đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên khi được biết người làm đầu cùng với mẹ mình thường xuyên uống nước nano bạc hàng ngày.

Một công bố năm 2005 của TS. Max Fung thuộc trường Đại học California cho thấy việc tiếp nhận nano bạc vào người có thể gây ra bệnh argiria và với liều lượng cao có thể dẫn đến hiện tượng thiếu máu, nhưng không cho biết liều lượng cao là bao nhiêu.

Chỉ có Nano bạc thật mới an toàn

Nano bạc tinh khiết tức là không có tồn dư các tạp chất, hóa chất, các loại muối bạc tự do trong dung dịch Nano bạc mà chỉ có các ion bạc tồn tại trong các hạt Nano, tỷ lệ >99%. Trên thực tế, có rất nhiều sản phẩm cũng ghi Nano bạc nhưng thực tế lại gần như không có Nano bạc vì kích thước các tiểu phân quá lớn để có thể gọi là hạt Nano, hoặc có quá nhiều muối bạc trong đó. Việc sử dụng muối bạc để sát khuẩn cũng có hiệu quả nhưng rất nguy hiểm vì phải dùng ở nồng độ cao, có thể gây bỏng rát niêm mạc, gây độc với cơ thể, gây bệnh da xanh. Nano bạc thật sự rất tốt, một trong những chất kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm hiệu quả bậc nhất hiện nay và không bị nhờn thuốc, hiệu quả kéo dài, không gây hại cho tế bào của động vật bậc cao như con người. Tuy nhiên, người tiêu dùng thông thái cần lựa chọn các thương hiệu uy tín, phân biệt rõ Nano bạc thật và Nano bạc giả để không bị “tiền mất tật mang”

Cách phân biệt Nano bạc thật và Nano bạc giả

mau-sac-cua-nano-bac-chuan
Nano bạc chuẩn có màu thay đổi từ vàng xanh sang thẫm màu

Nano bạc thật có nhiều đặc điểm rất khác biệt với Nano bạc giả do đó người dùng thông thường bằng các quan sát thông thường có thể phần nào đoán được. Tuy nhiên, để biết chính xác sản phẩm của mình có chứa Nano bạc thật sự không, hàm lượng bao nhiêu, kích thước thế nào thì nhất định phải cần tới các phương pháp phân tích chuyên sâu. Bạn đọc có thể căn cứ một số đặc điểm sau đây để phân biệt sơ bộ nano bạc thật và nano bạc giả.

Phan-biet-nano-bac-that-nano-bac-gia
Cách phân biệt Nano bạc thật – Nano bạc giả

Nano bạc Plasma – Dòng Nano bạc chuẩn hóa đầu tiên tại Việt Nam

Nano bạc ngày càng trở nên phổ biến và ứng dụng rộng rãi. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng hiểu rõ tính chất ứng dụng và đặc điểm từng loại Nano bạc khi ứng dụng vào các mục đích khác nhau. Việc chuẩn hóa là điều vô cùng quan trọng, Nano bạc Plasma của Innocare Pharma là dòng Nano bạc đầu tiên chuyên biệt về Nano bạc ứng dụng trong chăm sóc sức khỏe với khả năng chuẩn hóa ở mức độ cao, ngay cả khi sản xuất trên quy mô lớn.

Nano bạc plasma là tên gọi dòng Nano bạc chuẩn hóa được sản xuất phục vụ chăm sóc sức khỏe trong các sản phẩm mang thương hiệu PlasmaKare. Cho dù được sản xuất bằng phương pháp nào thì việc chuẩn hóa nguyên liệu Nano bạc tạo sự khác biệt, đảm bảo hiệu quả như mong muốn, tính chất hạt nano chuẩn là điều quan trọng nhất. Chính vì vậy, PlasmaKare chỉ sử dụng nguyên liệu Nano bạc Plasma các dòng chuẩn hóa khác nhau.

plasmakare_nano-bac-sat-trung

Hiện tại, Innocare Pharma là một trong những đơn vị đi đầu trong việc phát triển Nano bạc Plasma đã được ứng dụng trong các chế phẩm PlasmaKare với các sản phẩm như Súc họng miệng PlasmaKare, Xịt da chống muỗi PlasmaKare, Nước súc miệng PlasmaKare, Gel rửa tay khô PlasmaKare, Xịt mũi xoang PlasmaKare….

Không chỉ có tác dụng chống lại các tác nhân gây bệnh, ngăn ngừa lây nhiễm qua đường tay, miệng,… các chế phẩm có chứa Nano bạc plasma có khả năng giải phóng ion Ag+ lâu dài nên rất an toàn và có hiệu quả kéo dài với các hạt Nano bạc plasma bám trên da, niêm mạc sau khi sử dụng. Nhờ đó, các chế phẩm có khả năng bảo vệ vượt trội hơn so với các giải pháp thông thường.

Bài viết Nano bạc, tác dụng nổi bật và những lưu ý khi sử dụng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tac-dung-nano-bac-luu-y-khi-su-dung-va-phan-biet-nano-bac-that-gia-75632/feed/ 0
Phương pháp mới điều trị sâu răng ở trẻ em bằng nano bạc florua: Thử nghiệm lâm sàng https://benh.vn/phuong-phap-moi-dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-thu-nghiem-lam-sang-79497/ https://benh.vn/phuong-phap-moi-dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-thu-nghiem-lam-sang-79497/#respond Sun, 13 Jun 2021 13:02:30 +0000 https://benh.vn/?p=79497 Sâu răng là một trong những bệnh phổ biến nhất ở trẻ em. Ở những nơi có điều kiện khó khăn trên thế giới, bệnh sâu răng thường không được quan tâm. Những phương pháp mới điều trị sâu răng tiếp cận đến được những đối tượng cần nó là rất cần thiết. Mục tiêu […]

Bài viết Phương pháp mới điều trị sâu răng ở trẻ em bằng nano bạc florua: Thử nghiệm lâm sàng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Sâu răng là một trong những bệnh phổ biến nhất ở trẻ em. Ở những nơi có điều kiện khó khăn trên thế giới, bệnh sâu răng thường không được quan tâm. Những phương pháp mới điều trị sâu răng tiếp cận đến được những đối tượng cần nó là rất cần thiết. Mục tiêu phát triển ra những loại thuốc có thể điều trị bệnh sâu răng ở những nơi này vẫn là một thách thức với các nhà nghiên cứu và các bác sĩ.

Nhiều loại chất đã được thử nghiệm để ngăn chặn sâu răng bao gồm thuốc kháng sinh, ion kim loại và nhiều loại kem đánh răng khác nhau. Một đánh giá gần đây về việc sử dụng SDF (Bạc diammine fluoride) cho rằng chất này có khả năng ngăn chặn răng mới bị sâu và giúp điều trị răng cũ bị sâu hiệu quả hơn, sử dụng 1 lần/ năm. Tuy nhiên, những tác dụng ngược vẫn xảy ra trong một số trường hợp như đen răng bị sâu do quá trình oxy hóa của bạc ion có trong thành phần của sản phẩm hay bị đau ở lớp niêm mạc miệng do vô ý tiếp xúc phải dung dịch bạc diammine fluoride, có thể tự hết trong vòng 48 giờ.

Nano bạc florua là một công thức thử nghiệm mới có chứa nano bạc, chitosan và florua kết hợp mang lại đặc tính kháng khuẩn và có tiềm năng trở thành một sản phẩm chống sâu răng mà không làm đen răng bị sâu tương tự như như diamine florua và amalgam. Loại chất mới này an toàn khi sử dụng cho người và có những đặc tính kháng khuẩn tuyệt vời chống lại các loại vi khuẩn như mutans streptococci và lactobacilli – những nguyên nhân gốc rễ gây bệnh sâu răng. NSF (nano bạc florua) có bán dưới dạng dung dịch màu vàng cho hiệu quả lên tới 3 năm.

Bên cạnh đó NSF rẻ tiền và thân thiện với môi trường. Vì thế, thử nghiệm lâm sàng đối chứng này đã nghiên cứu tính hiệu quả của loại thuốc chống sâu răng mới này để ngăn chặn sâu răng ở trẻ em. Giả thuyết không đã được thử để chắc chắn không có bất kỳ sự thay đổi nào về tính hiệu quả dưới các dạng khác nhau của nano bạc florua trong điều trị bệnh sâu răng. Báo cáo này chỉ đưa ra kết quả của 12 tháng cuối cùng nghiên cứu.dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-01

2. Chuẩn bị và phương pháp

2.1. Nano bạc florua

Chuẩn bị keo bạc, 1,0g chitosan hòa trong 200 ml axit axetic 2% (V/V). Khuấy dung dịch, để qua đêm, sau đó lọc trong chân không. Tiếp theo, đặt 60 ml chitosan trong một xô đá và khuấy, thêm 4,0 ml chitosan vào dung dịch bạc nitrat 0,012 mol L1 trước khi thêm natri borohydrua 30 phút. Tỉ lệ giữa AgNO3 và NaBH4 là 1:6. Khử Ag+ do dung dịch chuyển từ không màu qua vàng nhạt và cuối cùng là đỏ nhạt. Các phân tử nano bạc có kích thước trung bình là 3,2 ± 1,2 nm và có hình cầu (Ảnh 1). Florua (NaF) chỉ được thêm vào giai đoạn cuối của thí nghiệm, điều này giúp cải thiện tính ổn định của dung dịch. Nồng độ của mỗi thành phần được đo bằng đơn vị mcg/ml, cụ thể như sau: Chitosan [28,585 mcg/ml]; Ag+ [376,5 mcg/mL] và natri florua [5028,3 mcg/ml].

2.2. Thử nghiệm lâm sàng

Nghiên cứu này đã được Ủy ban xét duyệt định chế (IRB) của Đại học Pernambuco (Protocol số. 119/12) theo Tuyên bố Helsinki của Hiệp hội Y tế thế giới. Những thông tin đưa ra giải thích về mục đích của nghiên cứu đã được gửi cho các bậc phụ huynh đồng ý cho con mình tham gia vào nghiên cứu này. Bên cạnh đó nghiên cứu này cũng cần đến sự đồng ý của trẻ trước khi điều trị.

Nghiên cứu này được tiến hành trong khoảng thời gian từ năm 2012-2013 tại một số khu vực kém phát triển thuộc Gravata, Pernambuco, phía Đông Bắc Brazil. Bữa ăn của trường học chứa rất nhiều đường, đơn giản là vì những loại đồ ăn này thường rẻ và phù hợp với điều kiện của những gia đình ở đây. Tất cả trẻ em đều được phát bàn chải đánh răng và kem đánh răng có chứa flo (1000 ppm F), chỉ nha khoa và hướng dẫn về chế độ ăn lành mạnh trước khi kiểm tra răng miệng. Những trẻ có biểu hiện các triệu chứng hoặc đang điều trị bệnh mãn tính, bệnh cấp tính đều bị loại khỏi thử nghiệm này. Để tránh sai sót do sự giảm tiết nước bọt, kích cỡ mẫu thử được xác định bằng cách sử dụng chương trình PC-SIZE, phiên bản 1.01(c), 1990 (Gerard E. Dallal, Andover, MA, USA).

Dựa trên nghiên cứu thử, tỉ lệ thành công cho nano bạc florua là 73,1%, trái lại tỉ lệ thành công thực là 27,4%, điều này chỉ ra rằng 54 chiếc răng đầu tiên trong mỗi nhóm bao gồm những mẫu thử làm ảnh hưởng đáng kể đến số liệu thực, đây được coi là sai số loại 1 5% và khoảng tin cậy 99%. Thêm vào đó, để bù cho những mất mát có thể xảy ra, kích cỡ của mẫu được ngoại suy thêm 20% để tăng độ chính xác. Vì thế, 65 răng đầu tiên nhằm mục đích thử nghiệm.

Theo tiêu chuẩn của Hệ thống đánh giá và Phát hiện sâu răng Quốc tế, nghiên cứu bao gồm răng đầu tiên ở giai đoạn sâu ngà. Hốc răng có độ sâu trung bình, nhưng chưa ảnh hưởng tới tủy, theo tiêu chuẩn ICDAS II về đốm trắng và khớp cắn. Vào thời điểm bắt đầu thử nghiệm, trẻ không có biểu hiện sâu răng ở những răng vĩnh viễn. Việc chọn và điều trị sẽ do một bác sĩ chưa có kinh nghiệm thực hiện. Đây là một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên kín kép. Phương pháp chọn ngẫu nhiên được thực hiện để duy trì tính đồng đều trong số lượng răng của mỗi nhóm, mỗi 4 răng được xếp lẫn lộn và đặt trong 2 phong bì có đóng dấu phục vụ cho từng mục đích điều trị. Những chiếc răng này sẽ được điều trị lâm sàng bởi một bác sĩ có kinh nghiệm. Những lần kiểm tra tiếp theo sẽ lại được thực hiện bởi một bác sĩ không có kinh nghiệm và không biết về mục đích điều trị.

Trẻ và người bảo hộ cũng sẽ không được cho biết trước về loại điều trị. Trong cả 2 kỹ thuật, gòn chặn nước bọt được sử dụng để nước bọt không dính vào răng. Dung dịch nano bạc florua (33,989.8 mg/mL) được bôi lên bề mặt răng trong vòng 2 phút. Mỗi răng đều nhận được 2 giọt dung dịch nano bạc florua, tương đương 10mg dung dịch. Đối với nhóm đối chứng, chỉ được nhận 1 giọt. Cả 2 loại điều trị đều được thực hiện chỉ trong vòng 12 tháng. Những chiếc răng được đánh giá bằng cách quan sát bằng mắt và sờ nắn bởi một bác sĩ qua đào tạo không biết chi tiết về các nhóm nghiên cứu sau tuần thứ 1, tháng thứ 5 và tháng thứ 12. Tiêu chí ICDAS II được sử dụng để phân loại các mức độ sâu răng trong cả 2 nhóm.

Một que dò được sử dụng để xác định tình trạng sâu răng đang tiến triển bằng cách ấn nhẹ que dò qua ngà răng. Nếu ngà răng không bị đâm thủng thì tình trạng sâu răng đã ngưng tiến triển. Để phân tích dữ liệu, các kỹ thuật thống kê mô tả, kiểm định chi bình phương và kiểm định Fisher đã được sử dụng để phân loại các biến số.

Phân bố chuẩn các dữ liệu định lượng được kiểm tra bằng Kolmogorov–Smirnov test và Mann-Whitney test để so sánh các biến định lượng giữa 2 nhóm. Các phương pháp kiểm định thống kê khác cũng được áp dụng với sai số 5,0%. Dữ liệu được lưu lại trong EXCEL còn các số liệu được xử lý bằng phầm mềm xử lý số liệu dùng cho các ngành khoa học xã hội, phiên bản 17. Vào một thời điểm khác, 10% mẫu được chọn ngẫu nhiên để kiểm tra lại tính tái nghiên cứu.

Tính tái nghiên cứu chẩn đoán sâu răng được đo bằng chỉ số Cohen’s kappa, 0,90 cho sâu răng đang tiến triển và 1 cho sâu răng đã ngưng tiến triển. Thử nghiệm lâm sàng này được đăng ký tại địa chỉ www.clinicaltrials.gov số NCT01950546 và đảm bảo các tiêu chuẩn nghiên cứu.

3. Kết quảdieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-02

Mẫu bao gồm 60 trẻ em, độ tuổi trung bình là 6,31±0,60 tuổi, trong số này 26 (44,1%) là nam, 33 (55,9%) là nữ (p > 0,05). Trong tổng số này, 73% được điều trị ở các răng tiền hàm, 23% được điều trị ở các răng cửa, 64,6% các tổn thương sâu răng chỉ ở một mặt và 35,4% ở 2 hoặc nhiều mặt.

Chỉ số dmft trung bình ở đầu nghiên cứu là 4,76±2,65, không có sự khác biệt đáng kể nào về số liệu thống kê ở cả 2 nhóm (p > 0,05). 130 răng sữa sâu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: 63 răng cho nhóm nano bạc florua và 67 răng cho nhóm đối chứng. Số răng ở mỗi nhóm không giống nhau do mỗi trẻ thường có nhiều hơn 1 răng sâu trong nghiên cứu này.

Nguyên tắc trong nghiên cứu là thực hiện một loại điều trị cho tất cả răng đến từ 1 trẻ, kết quả số liệu không khác biệt nhiều (p > 0,05). Sau 1 tuần nghiên cứu, không có trẻ nào rời khỏi nghiên cứu, số răng vẫn được đảm bảo. Vào tháng thứ 12, có 12 trẻ từ chối tiếp tục tham gia nghiên cứu ở nhóm nano bạc florua và 18 trẻ ở nhóm đối chứng. Điều này đã được tiên đoán từ trước, chính vì thế việc áp dụng hệ số điều chỉnh 1,2 kích thước của mẫu có thể bù được cho sự thiếu hụt này.

Sau 7 ngày theo dõi, 81% răng sâu ở nhóm nano bạc florua có lớp ngà răng cứng, điều này không được thấy ở nhóm đối chứng (p < 0,0001).

Sau 5 tháng, nhóm nano bạc florua có 72,7% răng có biểu hiện ngừng sâu và con số này là 27,4% (p < 0,0001).

Vào tháng thứ 12, 66,7% tổn thương sâu răng được điều trị bằng nano bạc florua vẫn có biểu hiện ngừng tiến triển sâu, trong khi đó con số này ở nhóm đối chứng chỉ là 34,7% (p = 0,003).

Tác dụng của NSF giảm 81%, 62%,50% nguy cơ sâu răng trong khoảng thời gian 7 ngày, 5 tháng và 12 tháng lần lượt khi so với nhóm đối chứng.dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-03

Số trẻ cần điều trị (NNT) vào tháng thứ 5 là 2 trẻ, vào tháng thứ 12 là 3 trẻ (Bảng 1). Hiệu quả của NSF không đi kèm với số mặt bị sâu, vào tháng thứ 5 (p = 0,257) và sau 12 tháng (p = 0,545), tuy nhiên NSF cho hiệu quả ở răng cửa nhiều hơn răng tiền hàm, ở tháng thứ 5 (p = 0,012), ở tháng thứ 12 (p = 0,010).

Tương tự, kết quả không thay đổi đáng kể ở nhóm đối chứng ở tháng thứ 5 (p = 0,147) và ở tháng thứ 12 (p = 0,232). Số mặt bị sâu dường như không liên quan nhiều đến loại răng, ở tháng thứ 5 (p = 0,319).dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-04dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-05

Tuy nhiên, ở tháng thứ 12 có sự khác biệt đáng kể giữa các loại răng, điều này có thể giải thích do việc nhổ răng sữa khiến cho việc xác định các biến số khó khăn hơn (Bảng 2). Các tổn thương do sâu răng ở nhóm NSF không bao giờ chuyển đen do tác dụng hóa học của sản phẩm (Ảnh 2). Việc nỗ lực loại bỏ lớp ngà răng điều trị bằng NSF khiến cho lớp ngà răng này cứng lại và dễ vỡ hơn, mặt khác việc kiểm soát này lại khiến cho các tổn thương sâu răng này dễ bị lộ ra hơn.

4. Thảo luận

Giả thuyết không của nghiên cứu này không được ủng hộ. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng dung dịch NSF hằng năm hiệu quả hơn ở các tổn thương do sâu ngà răng so với giả dược.

Tỉ lệ bảo vệ trong nghiên cứu này chỉ ra rằng các tổn thương sâu răng ở nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng (càng cao càng tốt) và các biện pháp giảm nguy cơ sâu răng được duy trì tích cực sau 7 ngày, 5 tháng và 12 tháng (Bảng 1).

Tỉ lệ bảo vệ các tổn thương do sâu răng của NSF tương tự với SDF (bạc diamine flo) – tỉ lệ bảo vệ các tổn thương do sâu răng của NSF trong thử nghiệm được tiến hành bởi Llodra và các cộng sự (2005) (>55%) nhưng thấp hơn thử nghiệm được báo cáo bởi Chu và các cộng sự (>96%). Điều này có thể được giải thích bởi sự khác biệt trong mô hình nghiên cứu và khoảng cách giữa những lần thực hiện.

Tuy nhiên, cả 2 chất đều cho thấy sự hiệu quả trên các tổn thương do sâu răng ngưng tiến triển. NNT chỉ ra rằng số lượng răng cần được điều trị để ngăn phát triển các tổn thương sang răng mới (càng thấp càng tốt). Chính vì thế, NNT có thể được sử dụng để ngoại suy hiệu quả trên từng cá nhân. Số răng cần được điều trị bằng NSF ở tháng thứ 5 và tháng thứ 12 là cực kỳ thấp. Hiệu quả của NSF trong điều trị tổn thương sâu răng được nhận thấy có thể được giải thích bằng các thành phần có trong công thức (các hạt nano bạc chitosan và flo).

Những nghiên cứu khác nhau chỉ ra rằng chitosan và hạt nano bạc có các đặc tính kháng khuẩn giúp chống lại vi khuẩn mutans strepcococos, nguyên nhân gây ra các tổn thương sâu răng và khiến các tổn thương sâu răng phát triển. Hơn nữa, kích thước của hạt nano bạc cực kỳ nhỏ (1,2 – 3,2nm) và có hình cầu giúp tăng hiệu quả kháng khuẩn nhờ vào sự tăng bề mặt tiếp xúc. Có một số lý thuyết giải thích rằng cơ chế của flo kích thích hoạt động khử khoáng và bù khoáng, ức chế hoạt động của vi khuẩn ở mảng bám.

Các phân tử bạc hứa hẹn mang lại đầy triển vọng trong việc loại bỏ và phòng chống các loại vi khuẩn gây sâu răng. Vì thế, Zang và các cộng sự đã khuyến khích việc sử dụng nano bạc trong các vật liệu làm răng để ức chế màng sinh học và sâu răng. Targino và các cộng sự (2014) đã chỉ ra nano bạc có các đặc tính kháng khuẩn giúp chống lại vi khuẩn Streptococcus mutans hiệu quả hơn so với chlorhexidine và bạc diamine flo.

NSF cũng được nhận thấy là một hợp chất kháng khuẩn và diệt khuẩn có nồng độ MIC và MBC đối với các giống trong Ngân hàng Giống chuẩn Hoa Kỳ là 33,54mg/mL, 14,52 mg/mL và 50,32 mg/mL lần lượt. Sự khác biệt giữa nồng độ MIC (p=0,032) và MBC (p=0,035) của các chất trong thí nghiệm có sự khác biệt lớn về số liệu.

NSF không độc ở bất cứ nồng độ nào đã được thử với bất kỳ loại hồng cầu nào và tương thích hơn SDF. Do SDF bắt đầu được ưa chuộng hơn, một nghiên cứu trước đó về dược động học của bạc florua đã được báo lại bởi Vasquez và cộng sự (2012).

Những kết quả chỉ ra rằng nồng độ huyết thanh của florua và bạc sau khi bôi SDF có nguy cơ nhiễm độc nhẹ khi sử dụng ở người lớn và ức chế sự khử khoáng, ngăn chặn sự phá vỡ của cấu trúc collagen ở lớp ngà răng bị khử khoáng. Tuy nhiên, phản ứng tương tự không xảy ra với thử nghiệm trên nano bạc florua. Hiệu quả của chất chống sâu răng mới (66,7%) tương tự như bạc diamine florua 30% (66,9%) khi bôi một lần/ năm và ưu điểm của chất là không làm chuyển màu các mô răng sâu  (Ảnh 2). Các hợp chất nano bạc không bị oxy hóa khi tương tác với oxy trong thí nghiệm. Ngoài ra, không giống với SDF, dung dịch NSF không có vị của kim loại.

Bên cạnh đó, NSF có giá thành rẻ nên tất cả mọi người đều có thể sử dụng được. Quy trình điều trị đơn giản và không cần tới tất cả các dụng cụ làm răng chuyên dụng hay đến trực tiếp phòng khám. Nguy cơ nhiễm trùng chéo của quá trình này cũng rất thấp. Chế độ ăn là một vấn đề nhạy cảm tại những nơi kém phát triển, những nơi này thường bị ảnh hưởng bởi nạn đói, chế độ ăn kém chất…

Tại những nơi này, các bữa ăn ở trường học thường chứa nhiều calo và đường. Tuy nhiên, trong mỗi đợt đánh giá và theo dõi tất cả trẻ em đều được nhận bàn chải đánh răng, kem đánh răng có chứa flo và hướng dẫn cách vệ sinh răng miệng đúng cách. Đây cũng chính là lý do cho sự cải thiện tình trạng sâu răng ở nhóm đối chứng.

Theo tính chính xác của hệ thống ICDAS II trong nghiên cứu này, một đánh giá hệ thống đã so sánh hệ thống này với hệ thống phân loại mô học và kết luận rằng hoàn toàn có thể can thiệp vào hoạt động gây sâu bề mặt răng một cách chính xác bằng cách kết hợp quan sát và sờ nắn. Cần nhiều nghiên cứu hơn để tìm ra các quy trình thay thế.

Hơn nữa, bôi NSF để điều trị răng nhạy cảm và sâu chân răng cũng cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn.

5. Kết luận

NSF được đánh giá là hiệu quả trong điều trị răng sâu ở trẻ em tại những nơi kém phát triển.

Tham khảo

  1. Petersen PE. The World Oral Health Report 2003: Continuous Improvement of Oral Health in the 21st century—The Approach of the WHO Global Oral Health Programme. Geneva: World Health Organization; 2003.
  2. Healthy People. http://www.healthypeople.gov/; 2010 [accessed 21.12.13].
  3. Wong MC, Lo EC, Schwarz E, Zhang HG. Oral health status and oral health behaviors in Chinese children. Journal of Dental Research 2001;80:1459–65.
  4. Marinho VC, Worthington HV, Walsh T, Clarkson JE. Fluoride varnishes for preventing dental caries in children and adolescents. Cochrane Database of Systematic Reviews 2013;7:CD002279. http://dx.doi.org/10.1002/ 14651858.CD002279.pub2.
  5. Rosenblatt A, Stamford TC, Niederman R. Silver diamine fluoride: a caries silver-fluoride bullet. Journal of Dental Research 2009;88:116–25.
  6. Peng JJ, Botelho MG, Matinlinna JP. Silver compounds used in dentistry for caries management: a review. Journal of Dentistry 2012;40:531–41. http://dx.doi.org/10.1016/ j.jdent.2012.03.009.
  7. Targino AG, Flores MA, Dos Santos Jr VE, de Godoy Bene´ Bezerra F, de Luna Freire H, Galembeck A, et al. An innovative approach to treating dental decay in children. A new anti-caries agent. Journal of Materials Science: Materials in Medicine 2014. [Epub ahead of print].
  8. International Caries Detection and Assessment System Coordinating Committee. Criteria Manual International Caries Detection and Assessment System (ICDAS II). Revised in December and July. Bogota, Colombia and Budapest, Hungary: http://www.icdas.org; 2009.
  9. Hannigan A, Lynch CD. Statistical methodology in oral and dental research: pitfalls and recommendations. Journal of Dentistry 2013;41:385–92. http://dx.doi.org/10.1016/ j.jdent.2013.02.013.
  10. Chu CH, Lo EC, Lin HC. Effectiveness of silver diamine fluoride and sodium fluoride varnish in arresting dentin caries in Chinese pre-school children. Journal of Dental Research 2002;81:767–70.
  11. Llodra JC, Rodriguez A, Ferrer B, Menardia V, Ramos T, Morato M. Efficacy of silver diamine fluoride for caries reduction in sữa teeth and first permanent molars of schoolchildren: 36-month clinical trial. Journal of Dental Research 2005;84(8):721–4.
  12. Herna´ndez-Sierra JF, Ruiz F, Pena DC, Martı´nez-Gutie´ rrez F, Martı´nez AE, Guille´n Ade J, et al. The antimicrobial sensitivity of Streptococcus mutans to nanoparticles of silver, zinc oxide, and gold. Nanomedicine 2008;4:237–40.
  13. Li F, Weir MD, Fouad AF, Xu HH. Effect of salivary pellicle on antibacterial activity of novel antibacterial dental adhesives using a dental plaque microcosm biofilm model. Dental Materials 2013. pii: S0109-5641(13)00489-2.
  14. Agnihotri S, Soumyo M, Suparna M. Size-controlled silver nanoparticles synthesized over the range 5–100 nm using the same protocol and their antibacterial efficacy. RSC Advances 2014;4:3974–83.
  15. Lu Z, Rong K, Li J, Yang H, Chen R. Size-dependent antibacterial activities of silver nanoparticles against oral anaerobic pathogenic bacteria. Journal of Materials Science: Materials in Medicine 2013;24(6):1465–71. http://dx.doi.org/ 10.1007/s10856-013-4894-5. Epub 2013 Feb 26.
  16. Martı´nez-Castan˜ o´n GA, Nin˜ o-Martı´nez N, Martı´nezGutierrez F, Martı´nez-Mendonza JR, Ruiz F. Synthesis and antibacterial activity of silver nanoparticles with different sizes. Journal of Nanoparticle Research 2008;10:1343–8.
  17. Buzalaf MA, Pessan JP, Hono´ rio HM, ten Cate JM. Mechanisms of action of fluoride for caries control. Monographs in Oral Science 2011;22:97–114. http://dx.doi.org/ 10.1159/000325151.
  18. ten Cate JM. Contemporary perspective on the use of fluoride products in caries prevention. British Dental Journal 2013;214:161–7. http://dx.doi.org/10.1038/sj.bdj.2013.162.
  19. Chau NP, Pandit S, Jung JE, Jeon JG. Evaluation of Streptococcus mutans adhesion to fluoride varnishes and subsequent change in biofilm accumulation and acidogenicity. Journal of Dentistry 2014. http://dx.doi.org/ 10.1016/j.jdent.2014.03.009. pii: S0300-5712(14)00090-6.
  20. Zhang K, Cheng L, Imazato S, Antonucci JM, Lin NJ, LinGibson S, et al. Effects of dual antibacterial agents MDPB and nano-silver in primer on microcosm biofilm, cytotoxicity and dentine bond properties. Journal of Dentistry 2013;41:464– 74. http://dx.doi.org/10.1016/j.jdent.2013.02.001.
  21. Vasquez E, Zegarra G, Chirinos E, Castillo JL, Taves DR, Watson GE, et al. Short term serum pharmacokinetics of diammine silver fluoride after oral application. BMC Oral Health 2012;12:60. http://dx.doi.org/10.1186/ 1472-6831-12-60.
  22. Mei ML, Ito L, Cao Y, Li QL, Lo EC, Chu CH. Inhibitory effect of silver diamine fluoride on dentine demineralisation and collagen degradation. Journal of Dentistry 2013;41:809–17. http://dx.doi.org/10.1016/j.jdent.2013.06.009.
  23. Dos Santos Jr VE, de Vasconcelos FM, Ribeiro AG, Rosenblatt A. Paradigm shift in the effective treatment of caries in schoolchildren at risk. International Journal of Dentistry 2012;62:47–51.
  24. Ekstrand KR, Martignon S, Ricketts DJ, Qvist V. Detection and activity assessment of sữa coronal caries lesions: a methodologic study. Operative Dentistry 2007;32:225–35.

Bài viết Phương pháp mới điều trị sâu răng ở trẻ em bằng nano bạc florua: Thử nghiệm lâm sàng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phuong-phap-moi-dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-thu-nghiem-lam-sang-79497/feed/ 0
Hiệu quả của nano bạc và chlorhexidine trong điều trị viêm nướu do mảng bám răng: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên https://benh.vn/hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-nghien-cuu-lam-sang-doi-chung-ngau-nhien-79489/ https://benh.vn/hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-nghien-cuu-lam-sang-doi-chung-ngau-nhien-79489/#respond Sun, 30 May 2021 17:28:28 +0000 https://benh.vn/?p=79489 Mục đích: Nghiên cứu này nhằm mục đích nghiên cứu về tính hiệu quả của nước súc miệng chứa nano bạc (NS) và so sánh nước súc miệng chứa nano bạc với nước súc miệng chứa chlorhexidine (CHX) trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng. Phương pháp nghiên cứu: 62 bệnh nhân […]

Bài viết Hiệu quả của nano bạc và chlorhexidine trong điều trị viêm nướu do mảng bám răng: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Mục đích: Nghiên cứu này nhằm mục đích nghiên cứu về tính hiệu quả của nước súc miệng chứa nano bạc (NS) và so sánh nước súc miệng chứa nano bạc với nước súc miệng chứa chlorhexidine (CHX) trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng. Phương pháp nghiên cứu: 62 bệnh nhân bị viêm nướu do mảng bám răng (28 nam và 34 nữ) được chia làm 2 nhóm và được yêu cầu súc miệng với 10ml nước súc miệng chứa NS hoặc CHX trong 10 phút ngay sau khi đánh răng vào buổi sáng hoặc tối. Các chỉ số như chỉ số mảng bám răng, chỉ số nướu, chỉ số chảy máu nhú lợi được ghi lại ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu.

Phân tích dữ liệu giữa và trong từng nhóm sử dụng phương pháp kiểm định Mann-Whitney U-test và Wilcoxon signed rank test lần lượt. Kết quả: Tất cả các thông số giữa các nhóm ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu không khác biệt lớn qua phương pháp Mann-Whitney U-test. Ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4, nhóm sử dụng nước súc miệng chứa CHX có chỉ số mảng bám răng thấp hơn nhiều so với nhóm sử dụng nước súc miệng chứa NS (p<0,05). Tuy nhiên, chỉ số chảy máu nướu không khác biệt quá lớn giữa 2 nhóm (p>0,05). Cả 2 nhóm đều giảm chỉ số mảng bám răng và chỉ số chảy máu nướu sau 2-4 tuần sử dụng sản phẩm so với thời điểm ban đầu (p<0,001). Kết luận: Nước súc miệng có chứa NS và nước súc miệng có chứa CHX đều có tác dụng giảm mảng bám răng và chảy máu nướu. Có thể sử dụng nước súc miệng Nano Bạc thay thế cho Chlorhexidine trong điều trị mảng bám răng nhằm hạn chế các tác dụng phụ khi sử dụng CHX kéo dài như giảm vị giác, bong niêm mạc, nhuộm răng, hình thành vôi răng.

Giới thiệu

Khoang miệng là môi trường sống của nhiều loại vi khuẩn. Có tới hơn 600 loại vi khuẩn sinh sống tại khoang miệng với nồng độ vi khuẩn từ 108-109/ml trong nước bọt hoặc tại mảng bám răng. Mảng bám răng là nguyên nhân chính gây viêm nướu và các bệnh về răng miệng. Mảng bám răng là một lớp màng sinh học phức tạp do vi khuẩn gây ra có chứa các độc tố vi khuẩn do carbohyrate kết dính trên bề mặt răng. Các mô nướu bị phá hủy do quá trình viêm mô quanh răng và do các loại vi sinh vật tại mảng bám răng. Điều quan trọng nhất trong việc duy trì răng miệng khỏe mạnh là kiểm soát được nhiễm khuẩn qua việc loại bỏ màng sinh học và ức chế viêm. Kiểm soát mảng bám răng cơ học được xem như là điều kiện tiên quyết trong điều trị mảng bám răng răng miệng. Tuy nhiên, việc kiểm soát mảng bám răng cơ học đòi hỏi nhiều kỹ thuật và sự kiên trì. Chính vì thế, một số sản phẩm đã được sử dụng để hỗ trợ việc chăm sóc răng miệng hằng ngày giúp loại bỏ mảng bám răng và giảm viêm nướu.

Một số sản phẩm vệ sinh răng miệng hiện được bán trên thị trường bao gồm enzyme, bisbiguanide, hợp chất phenolic, hợp chất amoni bậc bốn, Listerine, cetylpyridinium chloride, chlorate, saliflor, chất chống oxy hóa, các loại tinh dầu, flo, peroxide và chlorhexidine (CHX). Lý tưởng nhất là những sản phẩm có khả năng bảo vệ răng miệng mà không làm thay đổi hệ vi sinh vật có lợi trong khoang miệng. CHX được bào chế dưới nhiều dạng khác nhau như nước súc miệng, gel bôi, kem đánh răng. Nước súc miệng CHX cũng đã từng được sử dụng như một chất ngăn ngừa mảng bám răng và đạt tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên, mặc dù hiệu quả trong việc làm giảm các loại vi sinh vật có hại trong khoang miệng, nhưng sử dụng CHX lâu dài có thể khiến cho răng bị chuyển màu, giảm vị giác, tăng sự hình thành của vôi răng, nhức răng và khiến cho lớp niêm mạc bị bong. Vì thế, những sản phẩm từ CHX không được ưa chuộng do những tác dụng phụ mà nó đem tới, đặc biệt là khi sử dụng lâu dài. Để khắc phục, các nhà khoa học đã tiếp tục tìm kiếm những chất khác có hiệu quả chống mảng bám răng tương đương mà có ít hoặc không có các tác dụng phụ đi kèm. Công nghệ nano là một ngành khoa học liên quan đến việc chế tạo và ứng dụng các cấu trúc với kích thước nano sử dụng các phương pháp hóa học và cơ học. Nước súc miệng chứa nano bạc (NS) được đưa ra ngoài thị trường và được ưa chuộng nhờ vào các đặc tính kháng khuẩn với kích thước siêu nhỏ. Diện tích bề mặt của hạt nano cho phép chúng có thể xâm nhập và đi qua các tế bào vi khuẩn và tiêu diệt chúng. Nước súc miệng NS đã được chứng minh là có các đặc tính chống viêm nướu và chống mảng bám răng.

Một số nhà nghiên cứu đã báo cáo lại rằng hạt nano bạc có đặc tính kháng khuẩn cao hơn chlorhexidine, tuy nhiên, những nhà nghiên cứu khác lại cho rằng khả năng kháng khuẩn của hạt nano bạc thấp hơn chlorhexidine. Chính vì thế, không có sự thống nhất nào về một loại nước súc miệng lý tưởng với những đặc tính kháng khuẩn cả. Hơn nữa, nước súc miệng nano bạc vẫn chưa được nghiên cứu lâm sàng và còn thiếu nhiều thông tin về cách sử dụng và khi nào sử dụng để đạt được hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, các bác sĩ thường gặp khó khăn khi tư vấn một loại nước súc miệng cho bệnh nhân do có quá nhiều lựa chọn. Vậy nên, nghiên cứu này đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả lâm sàng của nước súc miệng chứa NS so với nước súc miệng có chứa CHX trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng.

Phương pháp

Mô hình nghiên cứu

Nghiên cứu này là một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, mù ba kéo dài 4 tuần, được tiến hành tại Phòng khám Răng hàm mặt thuộc trường Y, Đại học Khoa học và Công nghệ (UST), Sana’a, Yemen. Thử nghiệm này được đăng ký và được cấp phép tại ACTRN (số: ACTRN12618001265268).

Đánh giá y đức trong nghiên cứu

Tất cả các bệnh nhân ký một đơn chấp thuận về hậu quả và rủi ro có thể phải chịu trước khi bắt đầu và đã được khoa Khoa học sức khỏe và Y tế của trường Đại học thông qua (MECA No. 2016/22)

Đối tượng tham gia nghiên cứu

Nghiên cứu này bao gồm những bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 23. Thời gian mở đơn đăng ký tham gia từ giữa tháng 1 cho đến tháng 11 năm 2017. Những tiêu chí yêu cầu bao gồm sức khỏe tốt, có thể tham gia 4 tuần thử nghiệm, bị viêm nướu do mảng bám răng, chưa tiến triển thành bệnh nha chu, tối thiểu 20 răng tự nhiên, ngoại trừ răng hàm thứ 3. Bệnh nhân sẽ không được phép tham gia nếu đang niềng răng, đeo hàm giả bán phần, đang mang thai hoặc cho con bú, mắc các bệnh toàn thân, đang uống thuốc, có tiền sử dị ứng với các sản phẩm vệ sinh răng miệng, hút thuốc, điều trị bệnh nha chu hoặc điều trị bằng thuốc kháng sinh trong tháng trước đó, có khối u hoặc mắc một bệnh nghiêm trọng ở mô cứng hoặc mô mềm ở khoang miệng, có nhiều hơn 5 răng sâu cần phải điều trị ngay, những người mới đi kiểm tra răng miệng 2 tuần trước khi bắt đầu thử nghiệm.

Bệnh nhân sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên bằng cách sử dụng phương pháp fishbowl. Ở phương pháp này, mỗi bệnh nhân bước vào Phòng khám Răng hàm mặt của UST sẽ được lựa chọn sau khi được kiểm tra sàng lọc dựa trên các tiêu chí đưa ra. UST là trường Đại học cổ nhất ở Yemen và dịch vụ điều trị răng miệng tại đây đã thu hút rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh răng miệng. Những bệnh nhân này chủ yếu đến từ thành phố Sana’a và các tỉnh lân cận. Đây là thành phố lớn nhất Yemen với khoảng 3 triệu dân. Hơn nữa, đa số dân cư tại đây đến từ nhiều vùng khác nhau trên cả nước.

Sau khi khám sàng lọc bao gồm cả tiền sử mắc bệnh về răng miệng và các bệnh khác nói chung và kiểm tra khoang miệng. Con số cuối cùng về số người tham gia thử nghiệm là 68 bệnh nhân mắc bệnh viêm lợi do mảng bám răng và đáp ứng được tất cả các tiêu chí tuyển chọn.

Số người này được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm như lưu đồ 1:

Nhóm đối chứng bao gồm 34 bệnh nhân súc miệng với nước súc miệng chlorhexidine 0,12% (Shiba Pharma co, Yemen), mỗi lần súc 10ml trong vòng 1 phút, 2 lần mỗi ngày. Nhóm còn lại bao gồm 34 bệnh nhân súc miệng bằng nước súc miệng nano bạc (Nanogist co, Korea), mỗi lần súc 10ml trong vòng 1 phút, 2 lần mỗi ngày.

Mô hình thử nghiệm

Tất cả các bệnh nhân đều được kiểm tra răng miệng và loại bỏ hết các mảng bám răng, vôi răng, các vết ố và thức ăn thừa trước khi bắt đầu thí nghiệm. Những người tham gia được khuyến khích sử dụng bàn chải đánh răng và nước súc miệng hằng ngày bằng những cuộc gọi hoặc tin nhắn nhắc nhở. Những bệnh nhân này được hướng dẫn sử dụng bàn chải mềm và chỉ dùng một loại kem đánh răng (bàn chải đánh răng có chứa flo bảo vệ khoang miệng Colgate), chải 2 lần mỗi ngày vào buổi sáng sau khi ăn sáng và buổi tối trước khi ngủ, mỗi lần chải trong ít nhất là 3 phút. Họ cũng được hướng dẫn chải răng theo kỹ thuật Bass và súc miệng bằng nước súc miệng ít nhất nửa tiếng sau khi đánh răng và không ăn hoặc uống bất cứ loại thức ăn nào ít nhất 30 phút sau đó để tránh làm giảm hiệu quả của nước súc miệng và để giảm những tác dụng phụ của CHX như vàng răng hay giảm vị giác.

Tất cả nước súc miệng được cho vào một chiếc chai mờ bởi một trợ lý nghiên cứu có đánh thứ tự A và B. Người trợ lý này sẽ thêm một bệnh nhân mới vào dãy chữ cái (A và B) một cách ngẫu nhiên, sau đó bệnh nhân này sẽ được cho một loại thuốc tương ứng với chữ cái đó. Đây là phương pháp mù ba, bác sĩ (AA), người xử lý số liệu (WA) và bệnh nhân được làm mù.

Trong nghiên cứu này, 6 răng được chọn thuộc 6 cấu trúc khớp hàm khác nhau theo Löe và Silness Vì thế, các thông số lâm sàng đã được đánh giá ở răng được chọn dưới đây (răng hàm số 1 bên phải hàm trên, răng cửa bên phải hàm trên, răng hàm số 1 hàm trên, răng cửa số 1 bên trái hàm dưới, răng cửa bên trái hàm dưới, răng hàm số 1 bên phải hàm dưới).  Các thông số lâm sàng của từng bệnh nhân như mảng bám răng, chỉ số chảy máu nhú lợi được ghi lại ở từng mốc: đầu thử nghiệm, cuối tuần thứ 2 và lần cuối ở cuối tuần thứ 4. Những chỉ số này được ghi lại trên cả 4 bề mặt răng sau đó đưa ra gia trị trung bình cho từng răng và cuối cùng là từng bệnh nhân. Hiệu chuẩn được thực hiện ở bước này cho tính đồng nhất cao (Kappa = 0,90).

Phân tích số liệu

Phân tích dữ kiện sử dụng SPSS cho Windows (SPSS Inc., Chicago, IL, USA). Kiểm định Mann-Whitney U-test được sử dụng để xác định ý nghĩa thống kê giữa các nhóm. Các thông số lâm sàng trong các nhóm được đánh giá sử dụng Wilcoxon signed rank test. Mức ý nghĩa thống kê p<0,05.

Kết quả

Vào thời điểm đầu thử nghiệm, số người tham gia là 68, sau đó 6 người đã rút khỏi thử nghiệm (2 người nhóm NS và 4 người nhóm CHX). Vì thế, vào cuối nghiên cứu số người còn lại chỉ là 62 (CHX 30 và NS 32). Lý do rút khỏi nghiên cứu là do không thể theo được toàn bộ quá trình nghiên cứu.hieu-qua-cua-nano-bac-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-01

Lưu đồ 1: Lưu đồ mô hình nghiên cứu đưa ra những thông số được nghiên ứu trên bệnh nhân bao gồm phân chia, theo dõi và phân tích.hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-02

Bảng 1: Giá trị trung bình và trung vị của các thông số lâm sàng (SD) vào thời điểm đầu thử nghiệm và 2 lần tiếp theo ở các nhóm.

M = Trung bình, SD = Độ lệch chuẩn

  1. a. Phân tích giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt lớn giữa các nhóm ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4 trong chỉ số mảng bám răng (p<0,05). Tuy nhiên, những thông số lâm sàng khác không khác biệt quá nhiều giữa nhóm NS và nhóm CHX (p>0,05).
  1. b. Phân tích giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt lớn trong các thông số lâm sàng ở đầu thử nghiệm so với tuần thứ 4, đầu thử nghiệm so với tuần thứ 2 và tuần thứ 2 so với tuần thứ 4 (p<0,001).

Giá trị trung bình và trung vị của chỉ số mảng bám răng, chảy máu nhú lợi ở cả 2 nhóm NS và CHX được đưa ra trong bảng 1. So sánh tất cả các thông số giữa các nhóm bằng phép kiểm Mann-Whitney U-test không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm ở thời điểm đầu thử nghiệm. Sau tuần thứ 2 và tuần thứ 4 theo dõi, nhóm CHX có chỉ số mảng bám răng thấp hơn nhiều so với nhóm NS (p<0,05). Tuy nhiên, chỉ số chảy máu nhú lợi không khác nhau giữa 2 nhóm, đã đưa ra ở bảng 1. Nhóm CHX có chỉ số mảng bám răng giảm nhiều hơn so với nhóm NS khi được đem ra so sánh theo các mốc đầu thử nghiệm, sau 2 tuần và sau 4 tuần sau khi dùng sản phẩm (p>0,05). Tuy nhiên, chỉ số mảng bám răng, chỉ số chảy máu nhú lợi và chảy máu nướu không thay đổi từ tuần thứ 2 tới tuần thứ 4 ở cả 2 nhóm (p>0,05).

So sánh giữa các nhóm bằng phép kiểm Wilcoxon signed rank test cho thấy chỉ số mảng bám răng, chỉ số chảy máu nhú lợi và chảy máu nướu giảm đáng kể sau tuần thứ 2 và tuần thứ 4 sử dụng sản phẩm so với thời điểm đầu nghiên cứu (p<0,001), như bảng 1.

Thảo luận

Mảng bám răng từ lâu đã được xem như là nguyên nhân chính dẫn đến viêm nướu và bệnh nha chu. Chính vì vậy, kiểm soát hình thành mảng bám răng hợp lý là rất quan trọng trong phòng chống những bệnh nêu trên. Kiểm soát hình thành mảng bám có thể được thực hiện bằng phương pháp hóa học hoặc cơ học hoặc kết hợp cả 2. Sử dụng nước súc miệng là phương pháp kiểm soát bằng hóa học, nên được kết hợp song song với phương pháp cơ học như chải răng cẩn thận.

CHX đã từng được sử dụng trong nhiều năm để điều trị bệnh viêm quanh răng. Tuy nhiên, CHX thường đi kèm với nhiều tác dụng phụ nếu sử dụng trong thời gian dài. Chính vì thế CHX không được khuyến cáo sử dụng. Chính vì mặt hạn chế của nước súc miệng chứa CHX, một giải pháp thay thế không mang lại tác dụng phụ đã được nghiên cứu trong những năm gần đây. Mặc dù không nhiều tác dụng phụ như CHX nhưng không có một chất nào lại có đặc tính kháng mảng bám răng và chống viêm nướu như CHX. Trong thời gian gần đây, NS đã thu hút được sự chú ý nhờ vào các đặc tính kháng khuẩn do cấu tạo của các phân tử với kích thước siêu nhỏ có khả năng xâm nhập sâu vào các vi sinh vật và tiêu diệt chúng. Vì vậy, nghiên cứu này được ra đời để so sánh hiệu quả của NS và CHX trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng dựa vào các thông số lâm sàng.

Việc đánh giá tình trạng nướu chủ yếu dựa vào 3 chỉ số. Chỉ số mảng bám răng (PLI) là chỉ số cho biết rõ nhất tình trạng hoạt động của vi khuẩn tại răng. Chỉ số chảy máu nhú lợi (PBI) là chỉ số cho biết rõ nhất tình trạng răng miệng, tình trạng viêm quanh răng, tình trạng tiêu xương ổ răng kẽ răng và hiệu quả của quá trình bảo vệ liên quan đến mảng bám ở khe răng. Chỉ số nướu (GI) là một trong các chỉ số được sử dụng nhiều nhất trong đánh giá tình trạng của nướu. Kết hợp các chỉ số với nhau cho ra một đánh giá tương đối chính xác về tính ưu việt của những chất chống mảng bám răng và kháng khuẩn.

Trong nghiên cứu này, không có sự khác biệt nào trong dữ liệu ở cả 2 nhóm ở đầu thử nghiệm. Nhìn chung, cả 2 nhóm đều giảm ở các chỉ số PLI, GI, BPI ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4. Không có nhiều thay đổi về số liệu giữa 2 nhóm, ngoại trừ chỉ số PLI ở nhóm CHX thay đổi nhiều so với nhóm NS. Những phát hiện ở nghiên cứu lần này cũng giống với những nghiên cứu trước đó. Jain và cộng sự cho biết rằng chỉ số mảng bám răng ở nhóm CHX giảm đáng kể ở ngày thứ 15 và ngày thứ 30. Trong nghiên cứu này, chỉ số PLI, GI và BPI giảm đáng kể ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4 ở nhóm CHX. Phát hiện ở nghiên cứu này cũng trùng với những phát hiện ở nghiên cứu của Chandrasekaran và các cộng sự cho rằng súc miệng bằng nước súc miệng chứa CHX giúp chỉ số PLI và GI giảm đáng kể ở tuần thứ 4. Những kết quả của nghiên cứu này cũng tương tự như kết quả của nghiên cứu được tiến hành bởi Halkai và các cộng sự cho rằng hiệu quả kháng khuẩn của NS giúp chống lại vi khuẩn Porphyromonas gingivalis. Nghiên cứu của Shawky và các cộng sự cũng cho rằng NS giúp cải thiện các thông số lâm sàng một cách rõ rệt và giảm nhiễm khuẩn. Lu và các cộng sự cho rằng NS có tác dụng kháng khuẩn giúp chống lại 5 loại vi khuẩn yếm khí và hiếu khí gây bệnh về răng miệng. Freire và các cộng sự cũng cho rằng NS giúp giảm tới 4 lần các đơn vị hình thành khuẩn lạc trong vòng 24 giờ. Sadeghi và các cộng sự cho biết rằng NS còn có hiệu quả chống lại vi khuẩn Streptococcus mutans.

Những nghiên cứu cho kết quả khác với nghiên cứu hiện tại bao gồm nghiên cứu của Esfahanian và các cộng sự. Trong nghiên cứu này Esfahanian và các cộng sự cho rằng nước súc miệng chứa CHX có tính vượt trội hơn nhiều so với nước súc miệng chứa NS. Sự khác biệt trong kết quả cuối cùng có thể là do sự khác biệt trong thành phần của nước súc miệng chứa NS (công thức hydrogen peroxide có chứa một chút ion bạc), hàm lượng CHX là 0,2% hoặc do phương pháp tiến hành. Nghiên cứu hiện tại đã sử dụng máy tăm nước để đưa trực tiếp nước súc miệng vào miệng thay vì tiến hành trong ống nghiệm, chính sự xuất hiện của màng sinh học trong miệng đã mang đến sự khác biệt trong kết quả cuối cùng.

Besinis và các cộng sự đã cho rằng NS có tính kháng khuẩn mạnh nhất trong số tất cả các hạt nano, sự sinh trưởng của vi khuẩn chậm hơn hẳn so với trong CHX.

Mozayeni và các cộng sự đã chỉ ra rằng gel NS có hiệu quả chống lại Candida albicans chậm hơn so với gel CHX. Sự khác biệt trong kết quả của nghiên cứu này đã góp phần vào sự khác biệt trong công thức sản phẩm và các mục tiêu của nghiên cứu.

Có một số mặt hạn chế của nghiên cứu này cần được xem xét lại như số lượng người tham gia nghiên cứu này còn quá ít, cần phải thực hiện một nghiên cứu có quy mô lớn hơn để xác nhận lại những kết quả đạt được. Hơn nữa, nghiên cứu này được thực hiện trên những bệnh nhân trẻ tuổi, hệ vi khuẩn ở những bệnh nhân này có thể khác so với những đối tượng khác và điều này có thể tạo nên sự khác biệt trong kết quả thu được. Thêm vào đó, các bệnh nhân này không được phân chia ngẫu nhiên một cách khách quan theo Tiêu chuẩn thống nhất về báo cáo nghiên cứu năm 2010. Cuối cùng là, thời gian nghiên cứu chỉ kéo dài có 4 tuần, thời gian này nên được kéo dài ở những nghiên cứu tiếp theo.

Kết luận

Với những hạn chế của nghiên cứu này, có thể kết luận rằng nước súc miệng chứa NS có hiệu quả tương đương với nước súc miệng chứa CHX trong giảm chỉ số mảng bám, chỉ số chảy máu nhú lợi, chảy máu lợi. Tuy nhiên, CHX giảm chỉ số mảng bám tốt hơn NS.

Tham khảo

  1. Marcotte H, Lavoie MC. Oral microbial ecology and  the  role of salivary immunoglobulin A. Microbiol Mol Biol Rev. 1998;62(1):71–109.
  2. Aruni AW, Dou Y, Mishra A, Fletcher HM. The Biofilm Community-Rebels with a Cause. Curr Oral Health Rep. 2015;2(1):48–56.
  3. Aspalli S, Shetty VS, Devarathnamma MV, Nagappa G, Archana D, Parab P. Evaluation of antiplaque and antigingivitis effect of herbal mouthwash in treatment of plaque induced gingivitis: A randomized, clinical trial. J Indian Soc Periodontol. 2014;118.(1):48–52.
  4. Hojo K, Nagaoka S, Ohshima T, Maeda N. Bacterial interactions in dental biofilm development. J Dent Res. 2009;88(11):982–90.
  5. Hajishengallis G. Immunomicrobial pathogenesis of periodon- titis: keystones, pathobionts, and host response. Trends Immunol. 2014;35(1):3–11.
  6. Priya BM, Galgali SR. Comparison of amine fluoride and chlorhexidine mouth rinses in the control of plaque and gingivitis-a randomized controlled clinical trial. Indian J Dent Res. 2015;26(1):57–62.
  7. Mahajan R, Khinda PK, Gill AS, Kaur J, Saravanan SP, Shewale A, Taneja M, Joshi V. Comparison of Efficacy of 0.2% Chlorhexidine Gluconate and Herbal Mouthrinses on Dental Plaque: An in vitro Comparative Study . Eur J Med Plant. 2016;13(2):1–11.
  8. Balagopal S, Arjunkumar R. Chlorhexidine: The Gold Standard Antiplaque Agent. J Pharm Sci Res. 2013;5(12):270–4.
  9. Graziani F, Gabriele M, D’Aiuto F, Suvan J, Tonelli M, Cei
  10. Dental plaque, gingival inflammation and tooth -discolouration with different commercial -formulations of 0.2% chlorhexidine rinse: a double-blind randomised controlled clinical trial. Oral Health Prev Dent. 2015;13(2):101–11.
  11. Kariminik A, Motaghi MM. Evaluation of Antimicrobial susceptibility pattern of Streptococcus mutans isolated from dental plaques to chlorhexidine, nanosil and common antibiotics. Int J Life Scien. 2015;9(2):18–21.
  12. Besinis A, De Peralta T, Handy RD. The antibacterial effects of silver, titanium dioxide and silica dioxide nanoparticles compared to the dental disinfectant chlorhexidine on Streptococcus mutans using a suite of bioassays. Nanotoxicology. 2014;8(1):1–16.
  13. Esfahanian V, Mohamadi F, Amini SH. An In Vitro Comparison of Antimicrobial Effect of Nanosil and ChlorhexidineMouthrinses. J Islam Dent Assoc Iran. 2012;24(3):188–92.
  14. Mozayeni MA, Hadian A, Bakhshaei P, Dianat O. Comparison of Antifungal Activity of 2% Chlorhexidine, Calcium Hydroxide, and Nanosilver gels against Candida Albicans. J Dent. 2015;12(2):109–17.
  15. Ahrari F, Eslami N, Rajabi O, Ghazvini K, Barati S. The antimicrobial sensitivity of Streptococcus mutans and Streptococcus sangius to colloidal solutions of different nanoparticles applied as mouthwashes. Dent Res J. 2015;12(1):44–9.
  16. Kripal K, Chandrasekaran K, Rajan S, Reddy SS, Kumar PA, Ajit P, Kotha M, Bhavanam SR. Evaluation of a Herbal Mouthwash (BefreshTM) Versus Chlorhexidine Mouthwash (Clohex Plus): A Prospective Clinical and Microbiological Study. EC Microbiology. 2017;7(6):209–18.
  17. Loe H, Silness J. Periodontal disease in pregnancy. I. Prevalence and severity. Acta Odontol Scand. 1963;21:533–51.
  18. Farah CS, McIntosh L, McCullough MJ. Mouthwashes. Aust Prescr. 2009;32(6):162–4.
  19. Chatterjee A, Debnath K, Rao NKH. A comparative evaluation of the efficacy of curcumin and chlorhexidine mouthrinses on clinical inflammatory parameters of gingivitis: A double-blinded randomized controlled clinical study. J Indian Soc Periodontol. 2017;21(2):132–7.
  20. Arora V, Tangade P, TLR, Tirth , Pal S, Tandon V. Efficacy of dental floss and chlorhexidine mouth rinse as an adjunct to toothbrushing in removing plaque and gingival inflammation – a three way cross over trial. J Clin Diagn Res. 2014;8(10):ZC01–4.
  21. Charles CH, Mostler KM, Bartels LL, Mankodi SM. Comparative antiplaque and antigingivitis effectiveness of a chlorhexidine and an essential oil mouthrinse: 6-month clinical trial. J Clin Periodontol. 2004;31(10):878–84.
  22. Osso D, Kanani N. Antiseptic mouth rinses: an update on comparative effectiveness, risks and recommendations. J Dent Hyg. 2013;87(1):10–8.
  23. Jain A, Bhaskar DJ, Gupta D, Agali C, Gupta V, Gupta RK, Yadav P, Lavate AB, Chaturvedi M. Comparative evaluation of honey, chlorhexidine gluconate (0.2%) and combination of xylitol and chlorhexidine mouthwash (0.2%) on the clinical level of dental plaque: A 30 days randomized control trial. Perspect Clin Res. 2015;6(1):53–7.
  24. Herrera D. Chlorhexidine mouthwash reduces plaque and gingivitis. Evid Based Dent. 2013;14(1):17–8.
  25. Halkai KR, Mudda JA, Shivanna V, Rathod V, Halkai RS. Biosynthesis, Characterization and Antibacterial Efficacy of Silver Nanoparticles Derived from Endophytic Fungi against P. gingivalis. J Clin Diagn Res. 2017;11(9):ZC92–6.
  26. Shawky HA, Basha SM, EL Batouti GA, Kassem AA. Evaluation of Clinical and Antimicrobial Efficacy of Silver Nanoparticles and Tetracycline Films in the Treatment of Periodontal Pockets . J Dent Med Sci. 2015;14(7):113–23.
  27. Lu Z, Rong K, Li J, Yang H, Chen R. Size-dependent antibacterial activities of silver nanoparticles against oral anaerobic pathogenic bacteria. J Mater Sci Mater Med. 2013;24(6):1465–71.
  28. Freire PLL, Albuquerque AJR, Sampaio FC, Galembeck A, Flores MAP, Stamford TCM, Rosenblatt A. AgNPs: The New Allies Against S. Mutans Biofilm – A Pilot Clinical Trial and Microbiological Assay. Braz Dent J. 2017;28(4):417–22.
  29. Sadeghi R, Owlia P, Yaraee R,  Sharif  F,  Taleghani  F.  An in vitro assessment of antimicrobial and cytotoxic effects of nanosilver. J Med Microbiol. 2015;3(4):44–52.

Bài viết Hiệu quả của nano bạc và chlorhexidine trong điều trị viêm nướu do mảng bám răng: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-nghien-cuu-lam-sang-doi-chung-ngau-nhien-79489/feed/ 0
Đánh giá về các đặc tính kháng khuẩn và độc tính của hạt xi măng nano bạc https://benh.vn/danh-gia-ve-cac-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-79476/ https://benh.vn/danh-gia-ve-cac-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-79476/#respond Tue, 25 May 2021 05:58:51 +0000 https://benh.vn/?p=79476 Xi măng sinh học được cấu tạo từ chất polymethylmetacrylate (PMMA) được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực phẫu thuật tạo hình xương, khớp. Cũng giống như tất cả các loại vật liệu sinh học khác PMMA làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn so với việc sử dụng các mô sinh học. […]

Bài viết Đánh giá về các đặc tính kháng khuẩn và độc tính của hạt xi măng nano bạc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Xi măng sinh học được cấu tạo từ chất polymethylmetacrylate (PMMA) được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực phẫu thuật tạo hình xương, khớp. Cũng giống như tất cả các loại vật liệu sinh học khác PMMA làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn so với việc sử dụng các mô sinh học. Chính vì thế, một câu hỏi hiện ra là việc sử dụng PMMA trong phẫu thuật tạo hình xương, khớp kết hợp với thuốc kháng sinh có làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn hay không đã được đem ra bàn luận.

Mặc dù quá trình phẫu thuật luôn được bảo đảm khử trùng nghiêm ngặt và khép kín, sử dụng dòng chảy tầng với tỉ lệ nhiễm khuẩn chỉ từ 1-3%. Buchholz và Engelbrecht là những người đầu tiên đề xuất sử dụng thuốc kháng sinh để ngăn nhiễm khuẩn sau khi phẫu thuật. Báo cáo đầu tiên về kết quả của việc sử dụng kháng sinh bởi Thierse cho rằng việc sử dụng thuốc kháng sinh sau khi phẫu thuật giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn so với việc không sử dụng thuốc kháng sinh sau khi phẫu thuật. Wannske và Tscherne cũng ủng hộ ý kiến này sau một nghiên cứu đoàn hệ. Nghiên cứu của Josefsson và Espehaug cùng với các cộng sự của mình đã đi đến 2 kết luận trái chiều. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc kháng sinh sau khi phẫu thuật vẫn được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Hiệu quả kháng khuẩn của bạc vốn được biết đến nhiều và được áp dụng trong lĩnh vực y học trong nhiều năm qua, ví dụ như phương pháp Crede trong phòng bệnh viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh hay giúp làm lành vết thương. Mặt khác độc tính của bạc cũng được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu lâm sàng. Mục đích chính của nghiên cứu này là đánh giá về phương pháp tạo hình xương, khớp bằng hạt xi măng nano bạc có chứa các phân tử bạc với kích cỡ chỉ từ 5-50nm. Phương pháp này cho thấy nano bạc có tác dụng chống lại vi khuẩn S. epidermidis, MRSE và MRSA qua các thí nghiệm ống nghiệm. Hơn nữa, độc tính của hạt nano bạc còn được đánh giá qua cả phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính

2. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Hạt nano bạc

Thuật ngữ “nano bạc” ám chỉ kích thước của các phân tử bạc rất nhỏ, chỉ từ 5-50 nm (Ảnh 1). Hoạt động bề mặt của hạt nano bạc chỉ từ 4m2/g so với 1-2m2 của bạc bột bán ngoài thị trường. Các cụm hạt nano bạc thường có kích thước là 2-5 mm. Độ rỗng của hạt nano bạc từ 85-95% so với 0% của bạc bột bán ngoài thị trường.

2.2. Hạt xi măng

Hạt xi măng hay polymethylmetacrylate (PMMA) có chứa từ 0,1-1,0% nano bạc. Tỷ trọng hạt nano bạc được cân đối với tỷ trọng hạt xi măng. Hạt xi măng (PMMA) tinh chất (VersaBond, Smith & Nephew, Memphis, TN, USA) không có chứa bất cứ tạp chất nào hoặc chỉ chứa 2% gentamicin sulphate (PalacossR Gentamicin, ScheringPlough, Brussels, Belgium). Tất cả các loại hạt xi măng đều được trộn trong chân không (Easys, Coripharm, Dieburg, Germany). Sau đó, hỗn hợp xi măng này được đổ vào các khuôn có đường kính 4mm và chiều cao 7 mm.danh-gia-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-01

2.3. Vi khuẩn

Phương pháp phân lập lâm sàng được sử dụng như một chỉ số đánh giá các chủng vi khuẩn khác nhau để kiểm soát các đặc tính kháng khuẩn trong ống nghiệm của các loại hạt xi măng (S. epidermidis EDCC 5245, methicillin-resistant S. epidermidis (MRSE) EDCC 5130 và  methicillin-resistant S. aureus (MRSA) EDCC 5246 từ Viện Vi sinh vật, Giessen, Đức). Các chủng vi khuẩn được đánh giá phân tích trình tự gen mã hóa 16S rRNA, cụ thể là PCR gene femB, coa und mecA, mã DNA bằng phương pháp PFGE và kháng sinh đồ (không có dữ liệu). Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của gentamicin đối với nhiều chủng vi khuẩn được xác định bằng E- Test (AB BIODISK, Solna, Sweden). S. epidermidis cần nồng độ ức chế tối thiểu o0.0064 mg/ml đối với gentamicin, MRSE EDCC 5130 64 mg/ml và MRSA EDCC 5246 64 mg/ml lần lượt.

2.4. Hoạt động của màng sinh học

MRSA EDCC 5246 hình thành màng sinh học, mặt khác S. epidermidis EDCC 5245 và MRSE EDCC 5130 thì không. Các thí nghiệm kiểm tra sự hình thành màng sinh học dựa trên khả năng tạo ra màng sinh học trên nhựa polystyren (PS) của từng loại vi khuẩn, ví dụ, sự phát triển của vi khuẩn lạc được phát hiện với một số lượng lớn. Các thí nghiệm về khả năng hình thành màng sinh học cũng đã được tiến hành nhiều trước đó. Nhìn chung quy trình này như sau, nuôi cấy vi khuẩn qua đêm trong canh trường được pha loãng tỉ lệ 1:100 đặt trong môi trường nuôi cấy và 200 ml chất nuôi cấy sạch để ở 37oC trong vòng 48 giờ. Phần nước nuôi cấy được bỏ đi, đĩa thí nghiệm được rửa kỹ càng 2 lần bằng dung dịch xử lý màng sinh học (2mm CaCl2/MgCl2) để loại bỏ hoàn toàn các tế bào trôi nổi. Tiếp theo, sử dụng 200 microlit dung dịch xử lý màng sinh học và 20 ml thuốc nhuộm (0,1% w/v dung dịch tím tinh thể) để làm nổi bật màng sinh học, sau đó để trong vòng 15 phút ở nhiệt độ phòng và được tráng lại bằng dung dịch xử lý màng sinh học để loại bỏ các phân tử tím tinh thể bám lại. Vi khuẩn có thể tạo ra màng sinh học ở mặt trong của đĩa thí nghiệm. Bên cạnh đó, các vi khuẩn lạc cũng có thể được thấy nhờ vào màu tím của thuốc.

2.5. Hoạt động kháng khuẩn trong ống nghiệm

Thí nghiệm hoạt động kháng khuẩn của các hạt xi măng khác nhau được tiến hành bằng cách sử dụng một máy lắc đĩa để đo sự sinh trưởng của vi khuẩn. Các mẫu thu được có hình trụ với chiều dài 7 mm và đường kính 4 mm ở các hạt xi măng khác nhau. Các mẫu hạt xi măng được ủ trong 106 CFU/giếng trong 250 ml huyền phù tế bào ở 37oC trong vòng 1 giờ. Các tế bào bong ra sẽ được loại bỏ bằng PBS. Sau khi làm sạch mẫu các tế bào còn sót lại sẽ được nuôi trong PBS 0,25% glucose, 0,2% (NH4)2SO4 và 1% canh trường để trong vòng 18 giờ ở nhiệt độ 37oC. Trong khoảng thời gian này, các tế bào còn lại sẽ bắt đầu phân chia và tạo ra nhiều tế bào khác hoặc bị chết. Sau khi loại bỏ mẫu tế bào mẹ, các tế bào mới sẽ được kích thích bằng cách bổ sung 50ml canh trường. Sự phát triển của các tế bào mới sẽ được quan sát ở mức 578 nm qua một phần mềm đọc. Máy đọc đĩa (VersaMaxs, thiết bị sinh học phân tử, Sunnyvale, California, Mỹ) được sử dụng để theo dõi được đặt ở chế độ động học để phát hiện sự phát triển của các tế bào mới trong 36 giờ và đồng thời cung cấp một đường tăng trưởng ở kết quả cuối cùng sau mỗi đợt. Nếu vi khuẩn bị ức chế hoàn toàn hoặc một phần do bề mặt của mẫu hạt xi măng, chúng hoàn toàn hoặc gần như không thể tạo ra các tế bào con (Ảnh 2). Tất cả các phương pháp đo được tiến hành gấp 6 lần (A-F). Trong chứng nội hoạt động kháng khuẩn vải nylon tráng bạc 99% (ShieldexTrading GmbH, Bremen, Đức) đã được sử dụng làm mẫu chứng dương. Một loại nylon tương tự không tráng bạc được sử dụng làm mẫu chứng âm. Nano bạc và các mẫu dò được phủ quanh bởi các thành phần trong máu trong một thí nghiệm để quan sát phản ứng kháng khuẩn của bề mặt hạt xi măng so với một thí nghiệm khác mẫu dò không được phủ các thành phần trên.danh-gia-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-02

Theo mục đích ban đầu, các mẫu thử đều được nhúng vào huyết tương trong vòng 30 phút ở nhiệt độ 37oC trước khi tiến hành đo.

2.6. Kiểm tra độc tính trong ống nghiệm

Hạt xi măng nano bạc với tỷ trọng 1,0% bạc đã được tiến hành thí nghiệm trong lần này. 2 loại độc tính khác nhau đã được phát hiện. Đầu tiên, lọc rửa các hạt xi măng được thí nghiệm với nguyên bào sợi từ mô chuột. Tiếp theo, thí nghiệm nguyên bào xương người trên hạt xi măng.

2.6.1. Lọc rửa – độc tính định lượng

3 tiêu chí đã đo được: (1) sự giải phóng lactate dehydrogenase, (2) số lượng các tế bào gốc, (3) hàm lượng protein trong nguyên bào sợi mô chuột.

2.6.1.1. Sự giải phóng của lactate dehydrogenase

Hạt xi măng (đường kính: 36mm, bề dày: 3mm) được nuôi trong môi trường DMEM ở 37oC và 5% pCO2 trong vòng 48 giờ. Tỉ lệ diện tích/thể tích của hạt xi măng và môi trường nuôi cấy là 2cm2/ml. Chất hoạt động bề mặt Triton X-100 và dung dịch nuôi cấy tế bào không độc được dùng như mẫu chứng. Sau khi thí nghiệm kết thúc, dung dịch nuôi cấy được gạn lọc và bổ sung thêm huyết thanh thai bê (tỷ lệ FCS trong dung dịch nuôi cấy tế bào là 10%). Dung dịch nuôi cấy tế bào chứa FCS được nhỏ vào nguyên bào sợi từ của chuột trong 24 well plates (50,000 tế bào mỗi well) trước khi nuôi cấy, sau đó các tế bào này được nuôi ở nhiệt độ 37oC và 5% pCO2 trong vòng 48 giờ. Sự giải phóng ra lactate dehydrogenase được đo bằng công nghệ enzyme với độ hấp thu ở mức 450 nm.

2.6.1.2. Tổng hàm lượng protein

Sau đó, các tế bào được dung giải bằng cách thêm 20% NaOH và nuôi cấy trong vòng 1 giờ ở 75oC, tổng tỷ lệ protein ở các tế bào bị dung giải được đánh giá bằng phương pháp Bradford. Thí nghiệm được tiến hành chỉ với hạt xi măng để ngăn sự tương tác trực tiếp giữa các mẫu thử.

2.6.1.3. Số lượng tế bào gốc

Trong một đĩa cấy tế bào 24 giếng, nguyên bào sợi L929 được cố định bằng methanol và được làm sạch bằng PBS, tạo màu bằng dung dịch màu xanh methylene có chứa methylene blue, ethanol và HCL. Có thể loại bỏ đi màu sắc bằng cách rửa cùng dung dịch alkaline borate buffer. Sau khi loại bỏ đi màu xanh bằng axit ethanol, số lượng tế bào được xác định qua mật độ quang học ở mức 590 nm. Trước khi cố định số tế bào chính xác, thể nổi sẽ được loại bỏ bằng một hệ thống hút.

2.6.2. Sự tăng trưởng của nguyên bào xương người – độc tính định tính

Đĩa chứa hạt xi măng được thêm vào 2 ml nguyên bào xương người hFOB 1.19 với nồng độ 200,000 tế bào/ml để trong 48 giờ ở 37oC và 5% pCO2 trong môi trường DMEM (+10% FCS). Môi trường nuôi cấy tế bào (DMEM + 10% FCS) không độc với Triton X-100 là mẫu chứng độc. Sau khi nuôi cấy mẫu thử được rửa lại 2 lần bằng dung dịch đệm PBS. CalceinAM và ethidium-dimer được sử dụng để tạo màu cho các nguyên bào xương sống và các nguyên bào xương chết.

3. Kết quả

3.1. Hoạt động kháng khuẩn trong ống nghiệm

3.1.1. S. epidermidis EDCC 5245 (Ảnh 3)

Hạt xi măng PMMA tinh chất không thể ức chế sự tăng sinh của S. epidermidis EDCC 5245, trái lại hạt xi măng kháng sinh thường dẫn tới sự ức chế tăng sinh hoàn toàn của các loại vi khuẩn. Hàm lượng nano bạc trong hạt xi măng càng cao, hiệu quả kháng khuẩn càng cao. Hạt xi măng với hàm lượng 1% nano bạc hoàn toàn ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245 và cũng có hiệu quả tương tự như hạt xi măng kháng sinh.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-03

3.1.2. MRSE EDCC 5130 (Ảnh 4)

MRSE EDCC 5130 không khác biệt khi ở trong cả hạt xi măng tinh chất và hạt xi măng kháng sinh. Cả hạt xi măng tinh chất và hạt xi măng kháng sinh đều không có hiệu quả chống lại MRSE EDCC 5130. Hạt xi măng 1% nano bạc có hiệu quả chống lại MRSE EDCC 5130 cao hơn và có thể ức chế hoàn toàn được sự sinh trưởng của loại vi sinh vật này. Bên cạnh đó, hiệu quả của nano bạc cũng tùy thuộc vào liều lượng. Hạt xi măng với hàm lượng nano bạc 1% là loại hạt xi măng duy nhất có khả năng ức chế hoàn toàn được sự sinh trưởng của MRSE EDCC 5130.

3.1.3. MRSA EDCC 5246 (Ảnh 5)

Quan sát tương tự đối với MRSE EDCC 5130 đã được thực hiện trên MRSA EDCC 5246. Hàm lượng nano bạc 1% có hiệu quả cao trong việc chống lại MRSA EDCC 5246. Tuy nhiên, hạt xi măng kháng sinh và hạt xi măng tinh chất không thể ức chế được sự sinh trưởng của MRSA EDCC 5246.

3.1.4. Phủ mẫu thử hạt xi măng bằng huyết tương (Ảnh 5)

Phủ hạt xi măng nano bạc bằng máu hoặc các thành phần của máu (Ảnh 5, cột 6-10) trong thí nghiệm trên MRSA EDCC 5246 không làm giảm hiệu quả kháng khuẩn so với hạt xi măng nano không phủ các thành phần trên với hàm lượng nano như nhau (Ảnh 5, cột 3-5). Mặt khác, hiệu quả kháng khuẩn của hạt xi măng nano có cao hơn một chút. Điều này không được thấy ở mẫu hạt xi măng kháng sinh.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-04nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-05

3.2. Độc tính trong thí nghiệm ống nghiệm

3.2.1. Xét nghiệm tách rửa – độc tính định tính

Giải phóng lactate dehydrogenase là thước đo cho tính toàn vẹn của tế bào. Sau 48 giờ, không có bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong sự giải phóng lactate dehydrogenase giữa hạt xi măng bạc và chứng thử không độc. Trái lại, có một sự thay đổi đáng kể giữa hạt xi măng bạc và nhóm Triton (Ảnh 6). Tất cả các thí nghiệm về hàm lượng protein đều không phát hiện ra được thay đổi đáng kể nào giữa môi trường trích xuất hạt xi măng và môi trường nuôi cấy tế bào không độc. Giữa tổng hàm lượng protein được phân lập từ chứng thử độc và hạt xi măng bạc và giữa chứng thử độc và môi trường nuôi cấy tế bào có sự khác biệt lớn (Ảnh 6b). Nhiều nguyên bào sợi được cấy trong môi trường cấy tế bào không độc không khác biệt nhiều lắm so với những tế bào được cấy trong môi trường trích xuất hạt xi măng bạc. Nhóm chứng thử độc khác hẳn so với cả 2 nhóm còn lại (Ảnh 6c). Hạt xi măng nano bạc khi được phân tích dựa trên các xét nghiệm định lượng không có độc tính. Dữ liệu không chỉ ra bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào so với nhóm chứng thử không độc.

3.2.2. Sự phát triển của nguyên bào xương người – độc tính định tính

Nguyên bào xương người phát triển theo kiểu mạng lưới trong môi trường nuôi cấy tế bào (Ảnh 7a). Hầu như tất cả các tế bào đều sống khi soi dưới kính hiển vi. Các tế bào này đều hình thành nên nhiều quá trình theo cụm tại tâm của môi trường nuôi cấy tế bào. Sau khi thêm Triton các tế bào bị tiêu diệt toàn bộ, không còn tế bào sống nào được thấy nữa. Các nguyên bào xương hình thành các quá trình tế bào trên hạt xi măng nano bạc ở nhóm chứng thử không độc cho thấy tính tương hợp của hạt xi măng. Chỉ một vài nguyên bào xương chết được phát hiện nhờ vào màu sắc ở hạt xi măng nano (Ảnh 7).

3.3. Tóm tắt kết quả

Hạt xi măng nano bạc là loại hạt xi măng duy nhất hoàn toàn ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245, MRSE EDCC 5130 và MRSA EDCC 5246. Hạt xi măng kháng sinh cũng có thể ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245 nhưng không có hiệu quả chống lại MRSE EDCC 5130 hay MRSA EDCC 5246. Hạt xi măng tinh chất PMMA không có hiệu quả kháng khuẩn với tất cả các chủng virus. Không có sự khác biệt lớn nào trong các xét nghiệm độc tính định tính hay độc tính định lượng giữa hạt xi măng nano bạc và nhóm chứng thử không độc. Chính vì vậy, hạt xi măng nano bạc không có bất cứ độc tính nào trong thí nghiệm ống nghiệm lần này.

4. Thảo luậnnghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-06

Các vật liệu sinh học có tính kháng khuẩn để kết hợp với hạt xi măng phải đáp ứng được một số điều kiện tiên quyết quan trọng. Đầu tiên, chúng phải hiệu quả trong việc giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn trong phẫu thuật thay khớp toàn phần. Thứ hai, vật liệu sinh học không được gây ra những phản ứng độc quá mức trong cơ thể người. Hơn nữa, đối mặt với các vấn đề như nhiễm khuẩn đa kháng kháng sinh sau phẫu thuật đang tăng lên, hạt xi măng kháng khuẩn nên làm tốt nhiệm vụ để giảm tối đa nguy cơ vi khuẩn kháng kháng sinh.

Thảo luận dưới đây tập trung chủ yếu vào những vấn đề chính như thứ gì nên được kết hợp với hạt xi măng, kháng sinh hay bạc? Trong thập kỷ trước, số lượng và phần trăm các ca nhiễm trùng sâu tại vị trí phẫu thuật xương do vi khuẩn kháng kháng sinh tăng lên. Nhiễm các loại vi khuẩn đa kháng kháng sinh như S. aureus (MRSA) kháng methicillin hay S. epidermidis kháng methicillin (MRSE) gây ra những biến chứng nặng. Trong những trường hợp nhiễm những loại vi khuẩn kháng kháng sinh này ở vị trí thay hông hay đầu gối thường làm giảm tỉ lệ thành công của ca phẫu thuật giảm xuống đáng kể so với nhiễm những loại vi khuẩn không kháng kháng sinh. Qua đây thấy được tầm quan trọng của việc cảnh giác ngay từ đầu với không chỉ nguy cơ nhiễm trùng nói chung mà còn với cả những loại vi khuẩn kháng kháng sinh.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-07

Những loại kháng sinh hay được sử dụng để kết hợp với hạt xi măng nhất là tobramycin hay gentamicin. Hạt xi măng trộn gentamicin không có độc tính được cho biết qua một nghiên cứu kéo dài 10 năm. Cả MRSE EDCC 5130 và MRSA EDCC 5245 trong nghiên cứu hiện tại đều kháng gentamicin ở mức cao (MIC 64 mg/ml). Điều này khiến cho hạt xi măng trộn gentamicin trở nên kém hiệu quả. S. epidermidis EDCC 5245 kháng gentamicin ở mức cực kỳ thấp (MIC of o0.0064 mg/ml), điều này giải thích cho tính tương hợp giữa S. epidermidis và hạt xi măng trộn gentamicin.

Sự kháng gentamicin không phải là một tình trạng do lạm dụng mà là một vấn đề nghiêm trọng hơn và đây cũng chính là điểm hạn chế lớn nhất của hạt xi măng trộn gentamicin. Hạt xi măng trộn gentamicin cũng làm tăng nguy cơ nhiễm những loại vi khuẩn kháng gentamicin cao hơn so với hạt xi măng tinh chất qua một thí nghiệm được tiến hành bởi Thornes và các cộng sự. Ông và các cộng sự cũng chỉ ra rằng bề mặt hạt xi măng đã được trộn kháng sinh là môi trường lý tưởng cho sự phát triển của các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh do thời gian tiếp xúc với kháng sinh kéo dài đủ để thích nghi. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sử dụng PMMA khiến cho sự phát triển của các khuẩn lạc nhỏ của chủng Staphylococcus kháng kháng sinh gây nhiễm khuẩn kéo dài sau khi phẫu thuật.

Chính vì vậy, hạt xi măng trộn gentamicin có thể được xem như có hiệu quả kháng khuẩn tương đối và độc tính thấp (Ảnh 8). Trong lúc này, một loại thuốc kháng khuẩn mới ra đời là điều đang rất được mong chờ. Bên cạnh hiệu quả kháng khuẩn của kháng sinh, bạc cũng là một chất có khả năng kháng khuẩn tốt. Dueland và các cộng sự đã đánh giá tác dụng của hạt xi măng trộn bạc sulphate trên thỏ. S. aureus đã được tiêm vào ống tủy xương chày của thỏ trong khi phẫu thuật. Những con thỏ được này có tỉ lệ sống thấp hơn hẳn những con thỏ được tiến hành bằng hạt xi măng bạc sulphate.

Tính kháng khuẩn cao cũng đồng thời làm suy giảm chức năng của hệ thần kinh ngoại biên. Điều này được nhận thấy qua những nghiên cứu về biến chứng nhiễm độc thần kinh ở một bệnh nhân được điều trị bằng hạt xi măng trộn bạc.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-08

Hàm lượng ion bạc tăng lên cực kỳ cao trong huyết tương và hoạt dịch khớp hông khiến cho quá trình nhiễm độc bạc diễn ra sau 5 năm sau khi cấy ghép. Không có bất cứ yêu cầu cụ thể nào cho loại bạc được kết hợp với hạt xi măng. Do hàm lượng ion bạc cao nên việc sử dụng muối bạc là hoàn toàn có khả năng.

Ảnh hưởng độc tố có thể cản trở việc sử dụng loại xi măng bạc này liên tục cả ngày mặc dù có tính kháng khuẩn tốt (Ảnh 8). Mặc dù không có bất kỳ tác dụng phụ nào do độc tố trong các thí nghiệm ống nghiệm của hạt xi măng trộn phân tử bạc. Nhưng vẫn cần thêm thời gian để đánh giá các thử nghiệm ống nghiệm, đặc biệt là sau thử nghiệm ngăn viêm màng trong tim bằng van nhân tạo (AVERT). Van tim được phủ một lớp bạc (Silzones, St. Jude Medical, Minneapolis, MN, USA) đã được loại bỏ độc tính trong một thí nghiệm về tính tương hợp của nguyên bào sợi và tính tương hợp sinh học trong một mô hình sinh trưởng bên trong của cừu.

Dựa trên những dữ liệu này và hiệu quả kháng khuẩn đầy triển vọng của hạt xi măng được phủ bạc, một thử nghiệm lâm sàng trên 4400 bệnh nhân đã được tiến hành năm 1998. Trong năm 2002, 2 nhóm thử nghiệm được báo lại có tỉ lệ hở cận van tim tăng ở bệnh nhân có van Silzones, điều này góp phần gây ra sự nhạy cảm quá mức hay dị ứng và ức chế sự phát triển của nguyên bào sợi bình thường dẫn đến việc phải tháo van Silzone. Có một số sự khác biệt lớn giữa van Silzone và hạt xi măng nano bạc.

Đầu tiên là phân tử nano bạc hoạt động bề mặt rộng hơn và  phân bổ đồng đều hơn so với phân tử bạc trên bề mặt van Silzone. Tiếp theo là bề mặt van Silzone được phủ một lớp bạc, lớp bạc này có nguy cơ bị bong ra ở môi trường áp suất cao, trái lại nano bạc được thêm vào hạt xi măng sau đó trộn lại. Về lâu dài, những nghiên cứu trong ống nghiệm sẽ chỉ ra rõ hơn về những ảnh hưởng do độc tính của nano bạc trong hạt xi măng. Bằng cách kết hợp những cấu trúc tế bào lại với nhau như enzyme với các protein, đặc biệt là nhóm SH, các ion bạc can thiệp vào tính toàn vẹn của tế bào vi khuẩn và quá trình tạo ra năng lượng của chúng. Chế độ kháng khuẩn nhiều mức độ này bảo đảm rằng sự đề kháng không dễ dàng xảy ra chỉ bởi một đột biến điểm, trái với kháng sinh nhóm aminoglycoside sự đề kháng có thể xảy ra dễ dàng hơn nhiều. Kháng bạc đã từng nhắc tới, nhưng cho tới nay nó không ảnh hưởng quá nhiều tới hệ vi sinh vật trong cơ thể. Câu hỏi thường được đặt ra là tại sao bạc không có những ảnh hưởng độc tính lên các tế bào nhân thực. Các tế bào nhân thực thường lớn hơn các tế bào nhân sơ và thường là mục tiêu lớn hơn nhiều cho việc tấn công các ion bạc.

Các tế bào nhân thực cũng có cũng có cấu trúc và chức năng ở mức cao hơn so với các tế bào nhân sơ. Chính vì vậy, phải cần tới một hàm lượng ion bạc đủ cao để có thể thấy được những ảnh hưởng độc tính so với các tế bào vi khuẩn. Sự khác biệt này mang tới một “cửa sổ điều trị”, các tế bào vi khuẩn có thể bị tiêu diệt thành công, trái lại những tác động có hại lên các tế bào nhân thực không còn nữa. Phản ứng của bạc lên sự tạo ra năng lượng tế bào có thể được coi là một ví dụ minh họa.

Các phức hợp protein của chuỗi truyền điện tử được đặt trên bề mặt tế bào, chính vì thế dễ dàng bị vô hiệu hóa bởi các ion bạc phản ứng. Ở các tế bào nhân thực có cấu trúc tương tự được phát hiện ở ty thể. Cần hàm lượng ion bạc lớn để vô hiệu hóa các protein ty thể do lớp niêm mạc tế bào hoạt động như một lớp hàng rào bảo vệ cần phải vượt qua đầu tiên. Hơn nữa, các tế bào nhân thực cũng có chứa một vài ty thể, trong khi các tế bào vi khuẩn thì không để có thể tự bảo vệ hệ thống bảo toàn năng lượng khỏi sự tấn công của các ion bạc. Vì thế, quá trình hô hấp của vi khuẩn bị cản trở nghiêm trọng, trong khi đó quá trình hô hấp tế bào không bị ảnh hưởng bằng. Hạt xi măng có chứa 1% nano bạc có khả năng kháng khuẩn cao và chống lại được hầu hết các chủng như MRSA EDCC 5246 hay MRSE EDCC 5130.

Phủ bề mặt hạt nano bạc bằng huyết tương được thực hiện để phỏng theo các biểu hiện lâm sàng sau khi phẫu thuật thay khớp toàn phần, hạt xi măng lúc này sẽ được phủ ngay lập tức với một lớp huyết tương trước khi tiêm vào xương. Lớp bọc huyết tương thậm chí cũng làm tăng hiệu quả kháng khuẩn của nano bạc và điều này cũng được chứng minh là phù hợp với mục đích lâm sàng. Hiệu quả kháng khuẩn tăng lên của bạc nhờ vào lớp phủ huyết tương cũng được báo lại sớm hơn so với những yếu tố khác. Bằng chứng khoa học cho điều này hiện không còn. Nhìn chung, nano bạc được chứng minh có tính kháng khuẩn tốt mà không có độc tính (Ảnh 8).

5. Kết luận

Hạt xi măng nano bạc hoàn toàn ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245, MRSE EDCC 5130 và MRSA EDCC 5246 mà không có độc tính qua thí nghiệm ống nghiệm. Nếu những kết quả này được xác định chắc chắn hơn qua các thí nghiệm trên vật thể sống, nano bạc có thể trở thành loại vật liệu sinh học được sử dụng nhiều nhất trong lĩnh vực phẫu thuật tạo hình xương, khớp, đặc biệt là nhờ vào đặc tính chống lại các loại vi khuẩn đa kháng kháng sinh, điều này không thể có được nhờ vào hạt xi măng kháng sinh. Những xét nghiệm độc tính trong ống nghiệm có sự cộng tác của bác sĩ Scheddin, CYTOX, 91052 Erlangen, Đức.

Tham khảo

[1] Breusch SJ, Aldinger PR, Thomsen M, Ewerbeck V, Lukoschek M. Anchoring principles in hip endoprostheses. I: prosthesis stem. Unfallchirurg 2000;103:918–31.

[2] Gristina AG. Biomaterial-centered infection; microbial adhesion versus tissue integration. Science 1987;237:1588–95.

[3] Buchholz HW, Engelbrecht H. Uber die Depotwirkung einiger . Antibiotika bei Vermischung mit dem Kunstharz Palacos. Chirurg 1970;40:511–5.

[4] Josefsson G, Gudmundsson G, Kolmert L, Wijkstrom S. Prophylaxis with systemic antibiotics versus gentamicin bone cement in total hip arthroplasty. A five-year survey of 1688 hips. Clin Orthop 1990;253:173–8.

[5] Thierse L. Erfahrungen mit Refobacin-Palacos im Hinblick auf die tiefen Spatinfektionen nach H . uftoperationen. Z Orthop . 1978;116:847–9.

[6] Wannske M, Tscherne H. Ergebnisse prophylaktischer Anwendung von Refobacin-Palacos bei der Implantation von Endoprothesen des Huftgelenkes in Hannover. In: Burri C, R . uter A, . editors. Lokalbehandlung chirurgischer Infektionen. Akt Probl Chir Ortho, vol. 12. Bern: Hans Huber; 1979. p. 201–8.

[7] Antti-Poika I, Josefsson G, Konttinen Y, Lidgren L, Santavirta S, Sanzen L. Hip arthroplasty infection. Current concepts. Acta Orthop Scand 1990;61:163–9.

[8] Harris WH, Sledge CB. The total hip and total knee replacement (Part II). N Engl J Med 1990;323:801–7.

[9] Josefsson G, Kolmert L. Prophylaxis with systemic antibiotics versus gentamicin bone cement in total hip arthroplasty. A tenyear survey of 1688 hips. Clin Orthop 1993;292:210–4. [10] Espehaug B, Engesaeter LB, Vollset SE, Havelin LI, Langeland N. Antibiotic prophylactics in total hip arthroplasty. J Bone Jt Surg Br 1997;79-B:590–5.

[11] van de Belt H, Neut D, Schenk W, van Horn JR, van der Mei HC, Busscher HJ. Infection of orthopedic implants and the use of antibiotic-loaded bone cements. A review. Acta Orthop Scand 2001;72:557–71.

[12] Kilgus DJ, Howe DJ, Strang A. Results of periprosthetic hip and knee infections caused by resistant bacteria. Clin Orthop 2002;404:116–24.

[13] Crede KSF. Die Verh ! utung der Augenentz . undung der Neugebor- . enen, der haufigsten und wuchtigsten Ursache der Blindheit. A. . Hirschwald, Berlin, 1894.

[14] Chu CS, McManus AT, Pruitt BA, Mason AD. Therapeutic effects of silver nylon dressing with weak direct current on Pseudomans aeruginosa infected burn wounds. J Trauma 1988; 28:1488–92.

[15] Deitch EA, Marin A, Malakanov V, Albright JA. Silver nylon cloth: in vivo and in vitro evaluation of antimicrobial activity. J Trauma 1987;27:301–4.

[16] Margraff HW, Covey TH. A trial of silver-zinc-allantoine in the treatment of leg ulcers. Arch Surg 1977;112:699–704.

[17] Wyatt D, McGowan DN, Najarian MP. Comparison of a hydrocolloid dressing and silver sulphadiazine cream in the outpatient management of second degree burns. J Trauma 1990; 30:857–65.

[18] Bechert T, Steinrucke P, Guggenbichler JP. A new method . for screening antibacterial biomaterials. Nat Med 2000;6: 1053–6.

[19] Bechert T, Boswald M, Lugauer S, Regenfus A, Greil J, . Guggenbichler JP. The Erlanger Silver Catheter: in vitro results for antimicrobial activity. Infection 1999;27(Suppl 1): S24–9. [20] Joyce-Wohrmann RM, M . unstedt H. Determination of silver ion . release from polyurethanes enriched with silver. Infection 1999; 27(Suppl. 1):S46.

[21] DiVincenzo GD, Giordano CJ, Schiever LS. Biologic monitoring of workers exposed to silver. Int Arch Occup Environ Health 1985;56:205–15.

[22] Franken E, Langhof H. Argyrosis universalis durch TargesinRollkulturen. Med Klein 1964;27:1094–6.

[23] Holzegel K. Uber die Agyrose der Haut und Schleimh . aute in der . chemischen Industrie. Z Ges Hyg 1970;16:440–7.

[24] Jensen EL, Rungby J, Hansen JC, Schmidt E, Pedersen B, Dahl R. Serum concentration and accumulation of silver in skin during three months treatment with an anti-smoking chewing gum containing silver accetate. Hum Toxicol 1988;7:535–40.

[25] Moss AP, Sugar A, Hargett NA, Atkin A, Wolkstein M, Roseman KD. The occular manifestations and functional effects of occupational argyrosis. Arch Ophthalmol 1979;97:90–908.

[26] Reinhardt G, Geldmacher V, Mallinckrodt M, Kittel H, Opitz O. Akute todliche Vergiftung mit Silbernitrat als Folge eines . Abtreibungsversuches. Arch Kriminol 1971;148:69–78.

[27] Konig O, Randerath O, Hackenbroch MH. Nosokomiale . Infektionen mit Methicillin-resistenten Staphylococcus aureus (MRSA)und -epidermidis (MRSE)Stammen: bedeutung, prophy- . laxe und therapie in der knochenchirurgie. Unfallchirurg 1999;102:324–8.

[28] Rosenman KD, Moss A, Kon S. Argyria: clinical implications of exposure of silver nitrate and silver oxide. J Occup Med 1979;21:430–5.

[29] Zech P, Colon S, Labeeuw R, Blanc-Brunat N, Richard P, Peron M. Syndrome nephrotique avec d ! epot d’argent. Nouv Presse M ! ed! 1973;2:161–4.

[30] O’Toole GA, Pratt LA, Watnick PI, Newman DK, Weaver VB, Kolter R. Genetic approaches to study of biofilms. Methods Enzymol 1999;310:91–109.

[31] Bradford MM. A rapid and sensitive method for the quantitation of microgram quantities of protein utilizing the principle of protein-dye binding. Anal Biochem 1976;72:248–54.

[32] Hirikawa K, Stuhlberg BN, Wilde AH, Bauer TW. Secic M Results of 2-stage reimplantation for infected total knee arthroplasty. J Arthroplasty 1998;13:22–8.

[33] James PJ, Butcher IA, Gardner ER, et al. Methicillin-resistant Staphylococcus epidermidis in infection of hip arthroplasties. J Bone Jt Surg Br 1994;76-B:725–7.

[34] Hope PG, Kristinsson KG, Norman P, Elson RA. Deep infection of cemented total hip arthroplasty caused by coagulase-negative staphylococci. J Bone Jt Surg Br 1989;71-B:851–5. [35] Thornes B, Murray P, Bouchier-Hayes D. Development of resistant strains of Staphylococcus epidermidis on gentamicinloaded bone cement in vivo. J Bone Jt Surg Br 2002;84-B: 758–60.

[36] von Eiff C, Lindner N, Proctor RA, Winkelmann W, Peters G. Development of gentamicin-resistant small colony variants of S. aureus after implantation of gentamicin chains in osteomyelitis as a possible cause of recurrence. Z Orthop Ihre Grenzgeb 1998;136:268–71.

[37] Dueland R, Sparado JA, Rahn BA. Silver antibacterial bone cement. Clin Orthop 1982;169:264–8.

[38] Vik H, Andersen KJ, Julshamn K, Todnem K. Neuropathy caused by silver absorption from arthroplasty cement. Lancet 1985;13:872.

[39] Sudmann E, Vik H, Rait M, Todnem K, Andersen KJ, Julsham K, Flesland O, Rungby J. Systemic and local silver accumulation after total hip replacement using silver-impregnated bone cement. Med Prog Technol 1994;20:179–84.

[40] Tweden KS, Cameron JD, Razzouk AJ, Holmberg WR, Kelly SJ. Biocompatibility of silver-modified polyester for antimicrobial protection of prosthetic valves. J Heart Valve Dis 1997;6: 553–61.

[41] Butany J, Scully HE, VanArsdell G, Leask R. Prosthetic heart valves with silver-coated cuff fabric: early morphological features in two patients. Can J Cardiol 2002;18:733–8.

[42] Schaff HV, Carrel TP, Jamieson WRE, Jones KW, Rufilanches JJ, Cooley DA, Hetzer R, Stumpe F, Duveau D, Moseley P, van Boven WJ, Grunkemeier GL, Kennard ED, Holubkov R. Paravalvular leak and other events in silzone-coated mechanical heart valves: a report from AVERT. Ann Thorac Surg 2002;73:785–92.

[43] Ghandour W, Hubbard JA, Deistrung J, Hughes MN, Poole RK. The uptake of silver ions by Escherichia coli: toxic effects and interactions with copper ions. Appl Microbiol Biotechnol 1988;28:559–65.

[44] Grier N. Silver and its compounds. In: Block SS, editor. Disinfection, sterilization, and prevention. Philadelphia: Lea & Febiger; 1977. p. 395–407.

[45] Petering HG. Pharmacology and toxicology of heavy metals: silver. Pharmacol Ther A 1976;1:127–30.

[46] Schreurs WJ, Rosenberg H. Effect of silver ions on transport and retention of phosphate by Escherichia coli. J Bacteriol 1982;152: 7–13.

[47] Bragg PD, Rainnie DJ. The effect of silver ions on the respiratory chain of Escherichia coli. Can J Microbiol 1973;20: 883–9.

[48] Davies J, Wright GD. Bacterial resistance to aminoglycoside antibiotics. Trends Microbiol 1997;5:234–40. [49] Gupta A, Phung LT, Taylor DE, Silver S. Diversity of silver resistance genes in IncH incompatibility group plasmids. Microbiology 2001;147:3393–402.

Bài viết Đánh giá về các đặc tính kháng khuẩn và độc tính của hạt xi măng nano bạc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/danh-gia-ve-cac-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-79476/feed/ 0
TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không https://benh.vn/tsn-la-gi-co-tac-dung-nhu-the-nao-co-an-toan-khong-79871/ https://benh.vn/tsn-la-gi-co-tac-dung-nhu-the-nao-co-an-toan-khong-79871/#respond Thu, 24 Dec 2020 16:05:55 +0000 https://benh.vn/?p=79871 TSN là một phức hệ Tannic – Nano bạc Plasma được chuẩn hóa cao để đạt được hoạt tính kháng virus, kháng viêm, làm liền niêm mạc mạnh mẽ bên cạnh hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng. Ngoài ra, TSN cũng được cho rằng an toàn hơn nhiều so với các loại nano bạc thông […]

Bài viết TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
TSN là một phức hệ Tannic – Nano bạc Plasma được chuẩn hóa cao để đạt được hoạt tính kháng virus, kháng viêm, làm liền niêm mạc mạnh mẽ bên cạnh hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng. Ngoài ra, TSN cũng được cho rằng an toàn hơn nhiều so với các loại nano bạc thông thường khác. Đây là thành quả nghiên cứu của Viên nghiên cứu công nghệ Plasma và Innocare Pharma để ứng dụng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

tsn-la-gi
Phức hệ TSN gồm acid Tannic và Nano Bạc Plasma siêu tinh khiết, siêu hiệu quả, siêu an toàn

TSN là gì ?

TSN là một phức hệ tạo bởi lõi nano bạc plasma và lớp vỏ Tannic acid nhờ công nghệ Plasma tiên tiến của Viện nghiên cứu Plasma Việt Nam. Đây là kết quả hợp tác của Viện nghiên cứu Plasma và Innocare Pharma trong việc phát triển thương hiệu PlasmaKare ứng dụng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

TSN có cấu trúc thế nào

Các hạt phức hệ TSN được chuẩn hóa để có cấu trúc chính xác như sau:

  • Lõi nano: các phân tử bạc Ag sắp xếp dạng tinh thể, tạo khối hình cầu.
  • Lớp bảo vệ: các phân tử acid Tannic với 1 đầu trên bề mặt lõi nano bạc, 1 đầu tự do.

Kích thước của lõi nano bạc được điều chỉnh chính xác trong khoảng 10-30nm và chuẩn hóa với nồng độ hạt nano bạc/ tổng lượng Bạc ~ 100%. Nhờ công nghệ Plasma cố định hạt nano và khả năng khử hóa mạnh mẽ của Tannic giúp loại bỏ gần như hoàn toàn các ion Ag+ tự do nên giúp dung dịch TSN trở nên bền vững, an toàn và hiệu quả điều trị vượt trội.

nano-bac-plasma
Cơ chế tạo nano bạc Plasma dùng chế tạo TSN

TSN được chế tạo bằng phương pháp Plasma

Viện công nghệ Plasma Việt Nam (ARIPT) sử dụng phương pháp Plasma để chế tạo phức hệ TSN.

  • Các ion Bạc tự do được tạo ra trong quá trình ăn mòn điện hóa (không cần thông qua quá trình tạo muối nên không sử dụng hóa chất)
  • Dòng Plasma được tạo ra với vai trò cố định kích thước nano bạc dạng tinh thể.
  • Acid Tannic được bổ sung để điều chỉnh tiếp kích thước, hình dạng, độ ổn định

Việc thay đổi dòng Plasma, nồng độ Tannic, các điện cực và pH dẫn tới hình thành những hạt TSN hoàn thiện chuẩn hóa như trên.

TSN thừa hưởng mọi tác dụng nổi tiếng của Nano bạc thông thường nhưng dạng Nano bạc Plasma biến đổi này có những đặc tính riêng biệt giúp nó trở nên vô cùng đặc biệt và tiềm năng ứng dụng mạnh mẽ trong chăm sóc sức khỏe. Các đặc điểm nổi bật của TSN và những ưu điểm vượt trội là: khả năng kháng virus, vi khuẩn vượt trội; tác dụng kháng viêm tại chỗ; khả năng làm Liền loét; độ an toàn cao hơn hẳn so với các loại nano bạc hay chất sát trùng khác.

TSN có 3 tác dụng nổi bật và độ an toàn vượt trội

3 tác dụng của TSN là kháng virus, kháng khuẩn, vi nấm phổ rộng; kháng viêm tại chỗ; làm liền vết loét tổn thương niêm mạc. Độ an toàn của TSN cũng được chứng minh là ưu việt hơn hẳn so với nano bạc thông thường cho nên có thể sử dụng kể cả trong các chế phẩm súc họng, miệng, hoặc các viên ngậm tương tự và tốt hơn các chế phẩm của Nhật Bản, Hoa Kỳ.

TSN kháng virus, vi khuẩn và nấm phổ rộng

Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy TSN có khả năng kháng khuẩn phổ rộng. TSN có khả năng ức chế và tiêu diệt nhiều loại virus khác nhau, bao gồm cả loại có vỏ và không có vỏ.

Nghiên cứu được tiến hành tại Viện kiểm nghiệm An toàn thực phẩm, Bộ Y Tế Việt Nam, xác nhận kết quả TSN tại Việt Nam do Innocare Pharma phát triển có khả năng tiêu diệt hoàn toàn các loại vi khuẩn thường gây bệnh như Tụ cầu vàng, Liên cầu tan huyết nhóm A, E. Coli. Đồng thời tiêu diệt hoàn toàn virus Bacteriophage, một loại virus có cấu trúc tương tự virus EV.71, chủng gây bệnh Tay Chân Miệng cho trẻ em.

Cơ chế tác dụng của TSN trên vi khuẩn và vi nấm nhìn chung là phá vỡ cấu trúc màng tế bào, ức chế quá trình trao đổi chất, thay đổi yếu tố di truyền và vật liệu di truyền của vi khuẩn, vi nấm sau khi thâm nhập vào trong tế bào.

Đối với virus, TSN ức chế cả 4 quá trình từ bám dính, xâm nhập, nhân bản và lây lan do đó vừa ngăn chặn không để người mắc bệnh, vừa ngăn chặn lây nhiễm và tiến triển bệnh. Ngoài ra, ở kích thước 20nm và kết hợp Tannic acid, một chất có khả năng kết tụ protein trên màng virus tự nhiên, TSN có khả năng bám dính và tiêu diệt virus gây bệnh, trong đó có cả các chủng virus đang gây nhức nhối hiện nay như virus Cúm, virus Corona, Herpes virus…

TSn-diet-vi-khuan-khang-thuoc

Kết quả nghiên cứu gần đây cũng cho thấy TSN có khả năng tiêu diệt các loại vi khuẩn đã kháng thuốc, kháng nhiều loại kháng sinh khác nhau. Đây là một bước tiến mới, mở ra hi vọng trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng có nguy cơ kháng thuốc kháng sinh cao trong bối cảnh hiện nay.

TSN có tác dụng kháng viêm an toàn

TSN khi được pha chế cùng với công thức gia tăng hoạt tính kháng viêm tự nhiên như các loại dược liệu có tính kháng viêm hoặc các dược chất tự nhiên, cho thấy hoạt tính kháng viêm mạnh mẽ. Mặc dù, khó có thể so sánh hoạt tính kháng viêm của TSN với các hoạt chất corticoid, tuy nhiên, lợi thế của hỗn hợp kháng viêm chứa TSN nằm ở chỗ nó có thể sử dụng kéo dài, không gây tác dụng phụ, không tổn hại da, an toàn cho cả trẻ nhỏ và phụ nữ cho con bú.

Kết quả thử hoạt tính kháng viêm của hỗn hợp chứa TSN cho thấy hoạt tính kháng viêm của chế phẩm tương đương một chất kháng viêm không steroid phổ biến hiện nay là Diclofenac. Đây là một tin vui cho những ai mắc bệnh viêm da mạn tính.

TSN có tác dụng bảo vệ và làm lành các vết loét

So với các loại chất sát trùng khác, TSN cho thấy khả năng làm lành các vết loét vượt trội. Điều này có thể lý giải bởi tác dụng hiệp đồng giữa Tannic acid trên vỏ và lõi nano bạc ở kích thước 20nm. Khả năng liền loét của TSN được ứng dụng trong các sản phẩm giúp làm săn se niêm mạc, lành nhanh tổn thương loét, bên cạnh khả năng kháng khuẩn, chống viêm.

TSN an toàn vượt trội

Cũng giống như các loại thuốc khác, Nano bạc cũng có một số những lo ngại về tác dụng bất lợi cho cơ thể, đặc biệt là các dạng uống. Tuy nhiên, đa số các y văn trên thế giới đều thấy rằng sử dụng nano bạc chuẩn hóa dạng dùng ngoài như súc họng, súc miệng, xịt mũi, nhỏ tai, bôi da, vệ sinh vùng kín… tương đối an toàn. Mặc dù vậy, TSN thể hiện độ an toàn vượt trội so với những loại khác.

  • TSN sử dụng công nghệ Plasma chế tạo hạt Nano và khử hóa bằng Tannic nên gần như không tồn dư ion Ag+, giúp đảm bảo an toàn cho người dùng ngay cả khi nếu không may nuốt phải lượng nhỏ dung dịch ở nồng độ sử dụng. Các nhà khoa học cũng quan sát thấy bệnh da xanh xảy ra ở người sử dụng keo bạc trước đây chủ yếu là do nồng độ ion Ag+ cao, hấp thu, tích lũy trong cơ thể gây ra. Điều này không xảy ra ở TSN.
  • TSN có kích thước hạt Nano được chuẩn hóa cao nhất hiện nay, với kích thước chuẩn nằm trong khoảng 10-30nm, đây là kích thước tối ưu để đảm bảo hạt TSN có hiệu lực tốt trên cả virus, vi khuẩn, vi nấm mà vẫn không gây tác dụng bất lợi cho tế bào người. Những loại hạt nano bạc kích thước từ 50nm có hoạt tính kháng khuẩn rất yếu, phải sử dụng ở nồng độ cao nên độ an toàn thấp. Những hạt nano bạc ở kích thước 5nm tiềm ẩn nguy cơ gây tổn hại tế bào nên cũng không được ứng dụng trên người.
  • TSN có tác dụng chủ yếu trên bề mặt tế bào nhờ khả năng kết dính protein của tannic acid, ngoài ra, Tannic cũng khiến cho phức hệ TSN gần như không hấp thu vào cơ thể nên rất an toàn nếu bệnh nhân nuốt phải các loại dung dịch súc họng như PlasmaKare.

Hiện nay TSN đã được đăng ký độc quyền bởi một công ty dược phẩm tại Việt Nam để phát triển các sản phẩm ứng dụng như Súc họng miệng PlasmaKare, Sản phẩm chống viêm trên da PlasmaKare No.5… và còn nhiều ứng dụng tiềm năng khác trong tương lai.

Bài viết TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tsn-la-gi-co-tac-dung-nhu-the-nao-co-an-toan-khong-79871/feed/ 0
TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không https://benh.vn/__trashed-79700/ https://benh.vn/__trashed-79700/#respond Thu, 24 Dec 2020 07:39:43 +0000 https://benh.vn/?p=79700 TSN là một phức hệ Tannic - Nano bạc Plasma được chuẩn hóa cao để đạt được hoạt tính kháng virus, kháng viêm, làm liền niêm mạc mạnh mẽ bên cạnh hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng. Ngoài ra, TSN cũng được cho rằng an toàn hơn nhiều so với các loại nano bạc thông thường khác. Đây là thành quả nghiên cứu của Viên nghiên cứu công nghệ Plasma và Innocare Pharma để ứng dụng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Bài viết TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
TSN là một phức hệ Tannic – Nano bạc Plasma được chuẩn hóa cao để đạt được hoạt tính kháng virus, kháng viêm, làm liền niêm mạc mạnh mẽ bên cạnh hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng. Ngoài ra, TSN cũng được cho rằng an toàn hơn nhiều so với các loại nano bạc thông thường khác. Đây là thành quả nghiên cứu của Viên nghiên cứu công nghệ Plasma và Innocare Pharma để ứng dụng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

tsn-la-gi
Phức hệ TSN gồm acid Tannic và Nano Bạc Plasma siêu tinh khiết, siêu hiệu quả, siêu an toàn

TSN là gì ?

TSN là một phức hệ tạo bởi lõi nano bạc plasma và lớp vỏ Tannic acid nhờ công nghệ Plasma tiên tiến của Viện nghiên cứu Plasma Việt Nam. Đây là kết quả hợp tác của Viện nghiên cứu Plasma và Innocare Pharma trong việc phát triển thương hiệu PlasmaKare ứng dụng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

TSN có cấu trúc thế nào

Các hạt phức hệ TSN được chuẩn hóa để có cấu trúc chính xác như sau:

  • Lõi nano: các phân tử bạc Ag sắp xếp dạng tinh thể, tạo khối hình cầu.
  • Lớp bảo vệ: các phân tử acid Tannic với 1 đầu trên bề mặt lõi nano bạc, 1 đầu tự do.

Kích thước của lõi nano bạc được điều chỉnh chính xác trong khoảng 10-30nm và chuẩn hóa với nồng độ hạt nano bạc/ tổng lượng Bạc ~ 100%. Nhờ công nghệ Plasma cố định hạt nano và khả năng khử hóa mạnh mẽ của Tannic giúp loại bỏ gần như hoàn toàn các ion Ag+ tự do nên giúp dung dịch TSN trở nên bền vững, an toàn và hiệu quả điều trị vượt trội.

nano-bac-plasma
Cơ chế tạo nano bạc Plasma dùng chế tạo TSN

TSN được chế tạo bằng phương pháp Plasma

Viện công nghệ Plasma Việt Nam (ARIPT) sử dụng phương pháp Plasma để chế tạo phức hệ TSN.

  • Các ion Bạc tự do được tạo ra trong quá trình ăn mòn điện hóa (không cần thông qua quá trình tạo muối nên không sử dụng hóa chất)
  • Dòng Plasma được tạo ra với vai trò cố định kích thước nano bạc dạng tinh thể.
  • Acid Tannic được bổ sung để điều chỉnh tiếp kích thước, hình dạng, độ ổn định

Việc thay đổi dòng Plasma, nồng độ Tannic, các điện cực và pH dẫn tới hình thành những hạt TSN hoàn thiện chuẩn hóa như trên.

TSN thừa hưởng mọi tác dụng nổi tiếng của Nano bạc thông thường nhưng dạng Nano bạc Plasma biến đổi này có những đặc tính riêng biệt giúp nó trở nên vô cùng đặc biệt và tiềm năng ứng dụng mạnh mẽ trong chăm sóc sức khỏe. Các đặc điểm nổi bật của TSN và những ưu điểm vượt trội là: khả năng kháng virus, vi khuẩn vượt trội; tác dụng kháng viêm tại chỗ; khả năng làm Liền loét; độ an toàn cao hơn hẳn so với các loại nano bạc hay chất sát trùng khác.

TSN có 3 tác dụng nổi bật và độ an toàn vượt trội

3 tác dụng của TSN là kháng virus, kháng khuẩn, vi nấm phổ rộng; kháng viêm tại chỗ; làm liền vết loét tổn thương niêm mạc. Độ an toàn của TSN cũng được chứng minh là ưu việt hơn hẳn so với nano bạc thông thường cho nên có thể sử dụng kể cả trong các chế phẩm súc họng, miệng, hoặc các viên ngậm tương tự và tốt hơn các chế phẩm của Nhật Bản, Hoa Kỳ.

TSN kháng virus, vi khuẩn và nấm phổ rộng

Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy TSN có khả năng kháng khuẩn phổ rộng. TSN có khả năng ức chế và tiêu diệt nhiều loại virus khác nhau, bao gồm cả loại có vỏ và không có vỏ.

Nghiên cứu được tiến hành tại Viện kiểm nghiệm An toàn thực phẩm, Bộ Y Tế Việt Nam, xác nhận kết quả TSN tại Việt Nam do Innocare Pharma phát triển có khả năng tiêu diệt hoàn toàn các loại vi khuẩn thường gây bệnh như Tụ cầu vàng, Liên cầu tan huyết nhóm A, E. Coli. Đồng thời tiêu diệt hoàn toàn virus Bacteriophage, một loại virus có cấu trúc tương tự virus EV.71, chủng gây bệnh Tay Chân Miệng cho trẻ em.

Cơ chế tác dụng của TSN trên vi khuẩn và vi nấm nhìn chung là phá vỡ cấu trúc màng tế bào, ức chế quá trình trao đổi chất, thay đổi yếu tố di truyền và vật liệu di truyền của vi khuẩn, vi nấm sau khi thâm nhập vào trong tế bào.

Đối với virus, TSN ức chế cả 4 quá trình từ bám dính, xâm nhập, nhân bản và lây lan do đó vừa ngăn chặn không để người mắc bệnh, vừa ngăn chặn lây nhiễm và tiến triển bệnh. Ngoài ra, ở kích thước 20nm và kết hợp Tannic acid, một chất có khả năng kết tụ protein trên màng virus tự nhiên, TSN có khả năng bám dính và tiêu diệt virus gây bệnh, trong đó có cả các chủng virus đang gây nhức nhối hiện nay như virus Cúm, virus Corona, Herpes virus…

TSn-diet-vi-khuan-khang-thuoc

Kết quả nghiên cứu gần đây cũng cho thấy TSN có khả năng tiêu diệt các loại vi khuẩn đã kháng thuốc, kháng nhiều loại kháng sinh khác nhau. Đây là một bước tiến mới, mở ra hi vọng trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng có nguy cơ kháng thuốc kháng sinh cao trong bối cảnh hiện nay.

TSN có tác dụng kháng viêm an toàn

TSN khi được pha chế cùng với công thức gia tăng hoạt tính kháng viêm tự nhiên như các loại dược liệu có tính kháng viêm hoặc các dược chất tự nhiên, cho thấy hoạt tính kháng viêm mạnh mẽ. Mặc dù, khó có thể so sánh hoạt tính kháng viêm của TSN với các hoạt chất corticoid, tuy nhiên, lợi thế của hỗn hợp kháng viêm chứa TSN nằm ở chỗ nó có thể sử dụng kéo dài, không gây tác dụng phụ, không tổn hại da, an toàn cho cả trẻ nhỏ và phụ nữ cho con bú.

Kết quả thử hoạt tính kháng viêm của hỗn hợp chứa TSN cho thấy hoạt tính kháng viêm của chế phẩm tương đương một chất kháng viêm không steroid phổ biến hiện nay là Diclofenac. Đây là một tin vui cho những ai mắc bệnh viêm da mạn tính.

TSN có tác dụng bảo vệ và làm lành các vết loét

So với các loại chất sát trùng khác, TSN cho thấy khả năng làm lành các vết loét vượt trội. Điều này có thể lý giải bởi tác dụng hiệp đồng giữa Tannic acid trên vỏ và lõi nano bạc ở kích thước 20nm. Khả năng liền loét của TSN được ứng dụng trong các sản phẩm giúp làm săn se niêm mạc, lành nhanh tổn thương loét, bên cạnh khả năng kháng khuẩn, chống viêm.

TSN an toàn vượt trội

Cũng giống như các loại thuốc khác, Nano bạc cũng có một số những lo ngại về tác dụng bất lợi cho cơ thể, đặc biệt là các dạng uống. Tuy nhiên, đa số các y văn trên thế giới đều thấy rằng sử dụng nano bạc chuẩn hóa dạng dùng ngoài như súc họng, súc miệng, xịt mũi, nhỏ tai, bôi da, vệ sinh vùng kín… tương đối an toàn. Mặc dù vậy, TSN thể hiện độ an toàn vượt trội so với những loại khác.

  • TSN sử dụng công nghệ Plasma chế tạo hạt Nano và khử hóa bằng Tannic nên gần như không tồn dư ion Ag+, giúp đảm bảo an toàn cho người dùng ngay cả khi nếu không may nuốt phải lượng nhỏ dung dịch ở nồng độ sử dụng. Các nhà khoa học cũng quan sát thấy bệnh da xanh xảy ra ở người sử dụng keo bạc trước đây chủ yếu là do nồng độ ion Ag+ cao, hấp thu, tích lũy trong cơ thể gây ra. Điều này không xảy ra ở TSN.
  • TSN có kích thước hạt Nano được chuẩn hóa cao nhất hiện nay, với kích thước chuẩn nằm trong khoảng 10-30nm, đây là kích thước tối ưu để đảm bảo hạt TSN có hiệu lực tốt trên cả virus, vi khuẩn, vi nấm mà vẫn không gây tác dụng bất lợi cho tế bào người. Những loại hạt nano bạc kích thước từ 50nm có hoạt tính kháng khuẩn rất yếu, phải sử dụng ở nồng độ cao nên độ an toàn thấp. Những hạt nano bạc ở kích thước 5nm tiềm ẩn nguy cơ gây tổn hại tế bào nên cũng không được ứng dụng trên người.
  • TSN có tác dụng chủ yếu trên bề mặt tế bào nhờ khả năng kết dính protein của tannic acid, ngoài ra, Tannic cũng khiến cho phức hệ TSN gần như không hấp thu vào cơ thể nên rất an toàn nếu bệnh nhân nuốt phải các loại dung dịch súc họng như PlasmaKare.

Hiện nay TSN đã được đăng ký độc quyền bởi một công ty dược phẩm tại Việt Nam để phát triển các sản phẩm ứng dụng như Súc họng miệng PlasmaKare, Sản phẩm chống viêm trên da PlasmaKare No.5… và còn nhiều ứng dụng tiềm năng khác trong tương lai.

Bài viết TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/__trashed-79700/feed/ 0
Đột phá kiểm soát nhiễm trùng thế hệ mới từ TSN https://benh.vn/dot-pha-kiem-soat-nhiem-trung-the-he-moi-tu-tsn-79715/ https://benh.vn/dot-pha-kiem-soat-nhiem-trung-the-he-moi-tu-tsn-79715/#respond Tue, 03 Nov 2020 10:33:40 +0000 https://benh.vn/?p=79715 Viện nghiên cứu công nghệ Plasma hợp tác cùng Công ty Dược phẩm Innocare đã nghiên cứu và phát triển thành công dòng nguyên liệu Nano bạc chuẩn hoá TSN. Đây không chỉ là một chất sát trùng hiệu quả, mà còn có  khả năng chống viêm làm lành vết loét hỗ trợ điều trị các bệnh lý trên da, niêm mạc như nhiễm trùng tai, mũi, họng. 

Bài viết Đột phá kiểm soát nhiễm trùng thế hệ mới từ TSN đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Trước tình hình chất lượng Nano bạc ở Việt Nam đang bị bày bán tràn lan không kiểm định chất lượng khi sử dụng gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng. Viện nghiên cứu công nghệ Plasma hợp tác cùng Công ty Dược phẩm Innocare đã nghiên cứu và phát triển thành công dòng nguyên liệu Nano bạc chuẩn hoá TSN. Đây không chỉ là một chất sát trùng hiệu quả, mà còn có  khả năng chống viêm làm lành vết loét hỗ trợ điều trị các bệnh lý trên da, niêm mạc như nhiễm trùng tai, mũi, họng. 

Lễ kí kết chuyển giao công nghệ Nano bạc chuẩn hóa TSN

Ngày 31/10/2020, buổi lễ “ Lễ công bố và chuyển giao độc quyền nguyên liệu Nano bạc biến tính Plasma – TSN, Hoạt chất kiểm soát nhiễm trùng thế hệ mới” đã được tổ chức long trọng bởi Viện nghiên cứu công nghệ Plasma và Công ty Dược phẩm Innocare. Trong buổi lễ có sự tham gia của của các chuyên gia đầu ngành như TS.BS Nguyễn Thị Quỹ – Phó chủ tịch hội tiêu hoá Hà Nội,  PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dinh – nguyên giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng TW) cùng đông đảo các nhà khoa học, tiến sỹ, bác sỹ, dược sỹ và các chuyên gia công nghệ Plasma.

le-ki-ket-hoat-chat-dot-pha-nhiem-trung-tsn
Lễ kí kết chuyển giao nguyên liệu TSN- Hoạt chất đột phá kiểm soát nhiễm trùng

TS.Đỗ Hoàng Tùng, chuyên gia công nghệ Plasma tại Viện nghiên cứu  công nghệ Plasma cho biết “Nguyên liệu TSN có acid Tannic và Nano bạc Plasma chuẩn hóa được sản xuất đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của Nano bạc theo y văn quốc tế. Bằng phương pháp Plasma, các tiêu chuẩn Nano bạc như: kích thước hình cầu khoảng 20 nm với độ đồng đều cao, tỷ lệ hạt Nano > 99%, không lẫn tạp.Ngoài ra,các hạt tinh thể Nano bạc Plasma kết nối trực tiếp với acid Tannic… cho hiệu quả tối ưu và an toàn khi sử dụng cho người… Đặc biệt, chúng tôi đã tiến hành kiểm nghiệm phức hệ này tại viện Kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm quốc gia và nhận được kết quả kháng nhiều loại virus, vi khuẩn chỉ trong 30s của TSN.”

Nano bạc chuẩn hóa TSN- Giải pháp đột phá trong kiểm soát nhiễm trùng

Nano bạc chuẩn hóa TSN được phát triển và nghiên cứu nhằm giải quyết thực trạng khan hiếm các biện pháp sát trùng đường hô hấp tại chỗ giúp phòng ngừa và diệt virus an toàn, hiệu quả, đặc biệt cho các đối tượng đặc biệt dễ viêm đường hô hấp như phụ nữ có thai, cho con bú, trẻ nhỏ và người cao tuổi. 

Phức hệ TSN cho thấy hiệu quả vượt trội trên vi khuẩn kháng thuốc, đồng thời hiệu quả trên cả virus như Herpesvirus, Adenovirus, virus cúm A, …Ngoài ra, TSN còn có  tác dụng chống viêm tại chỗ, làm lành vết loét, tổn thương trên da và niêm mạc. Chính vì vậy, đây là một cuộc cách mạng mới trong việc kiểm soát nhiễm trùng an toàn, hiệu quả.

Theo Bà Nguyễn Thị Kiều Oanh, chuyên gia Dược học đánh giá về tiềm năng ứng dụng của  phức hệ TSN : “TSN là phức hệ Nano bạc chuẩn hóa thế hệ mới, loại bỏ được các nhược điểm về mùi vị, hiệu quả kháng viêm và liền loét kém của các chất kháng khuẩn hiện nay. Nguyên liệu TSN có tiềm năng rất lớn để đưa vào thiết bị y tế,các sản phẩm chăm sóc sức khỏe,sản xuất thuốc, mỹ phẩm phục vụ nhiều chuyên khoa như Da liễu, Tai Mũi Họng, Phụ khoa, Làm đẹp… Đặc biệt đây là lần đầu tiên các nhà khoa học tại Việt Nam  có thể làm chủ công nghệ và sản xuất trên quy mô lớn 100%  mà không lo ngại thiếu hụt nguồn các chất phụ gia khác như trong đợt đại dịch Covid 19 vừa qua.”

ts-nguyen-thi-kieu-oanh-tra-loi-phong-van-tsn
TS Nguyễn Thị Kiều Oanh đánh giá về tiềm năng ứng dụng của  phức hệ TSN

TSN trong súc họng miệng PlasmKare – hướng đi mới trong điều trị nhiễm trùng hô hấp trên

Nhờ khả năng kháng virus, kháng khuẩn, kháng viêm cao  đội ngũ Dược sĩ Đại học Dược Hà Nội của Innocare Pharma,  đã  đưa TSN vào sản xuất thực tế trong chế phẩm Súc họng miệng PlasmaKare.   

Súc họng miệng PlasmaKare gồm phức hệ Tannic Acid – Nano bạc Plasma chuẩn hóa, TSN và Keo ong- chất chống viêm tự nhiên được nhập khẩu từ Italia.Sản phẩm này không chỉ giải quyết nguyên nhân (virus, vi khuẩn) gây nhiễm trùng hô hấp mà còn giải quyết triệt để các triệu chứng do bệnh gây ra:

  • Phức hệ TSN có  hoạt tính kháng virus, vi khuẩn hiệu quả chống bội nhiễm : Hoạt chất TSN trên thực nghiệm có khả năng tiêu diệt 100% virus, vi khuẩn như  Bateriophage, Liên cầu tan huyết nhóm A, E. Coli,Tụ cầu vàng,…trong 30 giây. Đây cũng là thời gian khuyến cáo  khi  sử dụng sản phẩm như Súc họng miệng PlasmaKare đem lại hiệu quả tốt nhất.
  • Phức hệ TSN và Keo ong có khả năng chống viêm và liền loét nhanh chóng, giúp làm giảm hầu hết các triệu chứng của Viêm họng, viêm amidan và các nhiễm trùng hô hấp gồm:, giảm đau rát họng,dịu cơn ho, khản tiếng, ngứa họng, nuốt đau,…
dot-pha-nhiem-trung-hong-mieng-nho-suc-hong-mieng-plasma
Nước súc họng PlasmaKare- Giải pháp đột phá cho nhiễm trùng họng miệng

Nhờ đó ,Súc họng miệng PlasmaKare được coi là  một giải pháp hỗ trợ đắc lực cho các bác sỹ, dược sỹ trong việc điều trị và phòng ngừa các bệnh viêm đường hô hấp, nhất là trong thời tiết giao mùa và người có sức đề kháng yếu.

Mùa đông này, sử dụng ngay Súc họng miệng PlasmaKare hàng ngày hoặc định kỳ trong các đợt giao mùa để ngăn ngừa viêm họng, viêm amidan, các viêm nhiễm đường hô hấp tái phát- Giải pháp từ các chuyên gia.

Tìm hiểu thêm về sản phẩm tại https://plasmakare.vn/sp/suc-hong-mieng-plasmakare-250ml/ hoặc gọi ngay lên Hotline 0976648102 để được chuyên gia hỗ trợ trực tiếp. 

 

Bài viết Đột phá kiểm soát nhiễm trùng thế hệ mới từ TSN đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/dot-pha-kiem-soat-nhiem-trung-the-he-moi-tu-tsn-79715/feed/ 0
Nước súc miệng chứa hoạt chất này kháng khuẩn tốt gấp 5 lần Chlohexidine https://benh.vn/nuoc-suc-mieng-chua-hoat-chat-nay-khang-khuan-tot-gap-5-lan-chlohexidine-77849/ https://benh.vn/nuoc-suc-mieng-chua-hoat-chat-nay-khang-khuan-tot-gap-5-lan-chlohexidine-77849/#respond Mon, 25 May 2020 05:00:23 +0000 https://benh.vn/?p=77849 Nước súc miệng Nano bạc đang rất được ưa chuộng tại Việt Nam nhờ tác dụng làm sạch nhanh, kháng khuẩn tốt gấp 5 lần Chlohexidine, đồng thời hỗ trợ hiệu quả trong các vấn đề răng miệng và cực an toàn với cả gia đình.  Vậy nước súc miệng nano bạc kháng khuẩn mạnh […]

Bài viết Nước súc miệng chứa hoạt chất này kháng khuẩn tốt gấp 5 lần Chlohexidine đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nước súc miệng Nano bạc đang rất được ưa chuộng tại Việt Nam nhờ tác dụng làm sạch nhanh, kháng khuẩn tốt gấp 5 lần Chlohexidine, đồng thời hỗ trợ hiệu quả trong các vấn đề răng miệng và cực an toàn với cả gia đình. 

Vậy nước súc miệng nano bạc kháng khuẩn mạnh cỡ nào. Vì sao nên lựa chọn các loại nước súc miệng chứa nano bạc và chọn đúng loại chứa nano bạc thật. Cùng Benh.vn tìm hiểu ngay trong bài viết dưới đây.

Nuoc-suc-mieng-nano-bac-khang-khuan-manh-co-nao

Nano bạc kháng khuẩn mạnh,được sử dụng trong nhiều loại nước súc miệng hiện nay

Vì sao nên sử dụng nước súc miệng chứa nano bạc

Từ lâu bạc đã được biết đến với các công dụng nổi bật như giải độc (đánh gió, giải cảm, thử độc) và kháng khuẩn. Trong đó, tác dụng kháng khuẩn của nano bạc được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng nhiều hơn cả trong cuộc sống.

Bằng công nghệ hiện đại, các nhà khoa học đã tạo ra nguyên liệu nano bạc có khả năng kháng khuẩn gấp hàng trăm lần bạc nguyên tử. Vì vậy, nano bạc được ứng dụng phổ biến trong y tế, mỹ phẩm, thiết bị y tế…tiêu biểu là nước súc miệng nano bạc.

Ưu điểm vượt trội của nước súc miệng chứa nano bạc

Có 4 lí do chính, bạn nên sử dụng nước súc miệng chứa nano bạc thay vì các hoạt chất kháng khuẩn khác như cồn, chlohexidin hay tinh dầu:

  • Kháng khuẩn tốt nhất: Nước súc miệng Nano bạc được nghiên cứu có khả năng kháng khuẩn mạnh hơn nhiều lần các hoạt chất kháng khuẩn phổ biến hiện nay. Nồng độ có hiệu quả kháng khuẩn của Nano bạc chỉ cỡ ppm. So sánh với Chlohexidine, Nước súc miệng chứa nano bạc sử dụng nồng độ nhỏ hơn (15ppm -15mg/L) nhưng hiệu quả kháng khuẩn lại mạnh gấp 5 lần Chlohexidine 2%.
  • Hiệu quả trên nhiều chủng vi sinh vật: Nước súc miệng nano bạc hiệu quả trên hơn 650 loại vi sinh vật trong đó có virus, vi khuẩn, vi nấm. Trong đó, Nano bạc có hiệu quả trên cả các chủng Vi khuẩn kháng kháng sinh phổ rộng. Sử dụng nước súc miệng nano bạc có khả năng ngăn ngừa nhiều loại lây truyền qua khoang miệng hoặc thường trú gây viêm, loét, hôi miệng như Porphyromonas  gingivalis, Streptococcus mutans, virus hepes simplex HSV-1, nấm Candida, cầu khuẩn,…

 

Co-che-khang-virus-cua-nuoc-suc-mieng-nano-bac-plasma

    Nước súc miệng nano bạc diệt virus bằng cách ức chế sự liên kết của virus với vật chủ
  • Hương vị dễ chịu: Nước súc miệng Nano bạc có hương vị dịu nhẹ, dễ sử dụng hơn cả nước muối sinh lý. Bạn sẽ không còn bị ám ảnh bởi mùi sộc lên của cồn, vị đắng của Chlohexidine hay mất vị giác vì tê khi sử dụng hoạt chất kháng khuẩn là tinh dầu nữa.
  • An toàn tuyệt đối: Nano bạc được nghiên cứu an toàn với súc khoẻ con người. Những loại nước súc miệng dùng nano bạc tinh khiết không lẫn muối bạc như Plasma bạc tuyệt đối an toàn với cả phụ nữ có thai và trẻ nhỏ. Sử dụng nước súc miệng chứa cồn hoặc tinh dầu sát khuẩn có thể gây khô miệng, sít răng mang lại cảm giác khó chịu sau khi sử dụng. Cũng cần lưu ý những sản phẩm chứa muối bạc có thể gây bỏng da và miêm mạc.

Nano bạc kháng khuẩn mạnh gấp 5 lần Chlohexidine

Nano bạc đang được sử dụng rộng rãi trong các loại nước súc miệng trên giới nhằm thay thế cho các hoạt chất sát khuẩn có nguồn gốc hoá học như Chlohexidine. Hiệu quả kháng khuẩn của Nano bạc cao găp 5 lần, thậm chí là 20 lần so với Chlohexidine mặc dù dùng nồng độ thấp hơn.

Nghiên cứu tại được công bố tại tạp chí nha khoa Saudi cho biết, Nano bạc có tác dụng kháng khuẩn gấp 5 lần Chlohexidine trên 5 chủng vi khuẩn, vi nấm gây bệnh ở miệng gồm: Streptococcus mutans (MTCC 497), Streptococcus oralis (MTCC 2696), Lactobacillus acidophilus (MTCC 10307), Lactobacillus fermentum (MTCC 903) và Candida albicans (MTCC 903). Thậm chí trên dòng Lactobacillus acidophilus (MTCC 10307) nồng độ sát khuẩn tối thiểu của Nano bạc chỉ bằng 1/20 so với Chlohexidine.

Một nghiên cứu khác  do Seethar Charannya (Phòng NCLS Contemp) cùng cộng sự nghiên cứu so sánh khả năng kháng khuẩn của Nano bạc 15ppm và Chlohexidine 2% trên 1 số chủng vi sinh vật gây bệnh khoang miệng gồm Enterococcus faecalis , Klebsiella pneumoniae và Candida albicans. Kết quả cho thấy Nano bạc có tác dụng mạnh từ 1.5 đến gấp 2 lần so với Chlohexidine 2% trên các chủng này.

Nuoc-suc-mieng-nano-bac-khang-khuan-manh-co-nao-2.jpg
Nước súc miệng chứa Nano bạc kháng khuẩn hiệu quả, an toàn với cả gia đình

Lựa chọn nước súc miệng nano bạc cho hiệu quả tốt nhất

Nước súc miệng chứa nano bạc có tính kháng khuẩn mạnh so với nhiều hoạt chất kháng khuẩn khoang miệng hiện nay. Tuy nhiên, hiệu quả kháng khuẩn của nano bạc có thể nâng lên nếu:

  • Nano bạc dùng dạng tinh khiết: Nước súc miệng Nano bạc cần đạt độ tinh khiết càng cao càng tốt. Nếu Nano bạc sử dụng có lẫn muối bạc (sản phẩm phụ của quá trình tạo nano bạc bằng phương pháp hoá học) có thể gây ra hiện tượng loét miệng, bỏng niêm mạc miệng. Chính vì điều nay, các nhà nghiên cứu khuyến khích sử dụng nước súc miệng chứa Nano bạc được xử lý bằng các phương pháp vật lý như nghiền cơ học hoặc công nghệ Plasma
  • Kích thước hạt nano tối ưu: Kích thước hạt nano bạc không hoàn toàn tỷ lệ thuận với hiệu quả kháng khuẩn và độ an toàn. Kích thước hạt Nano bạc từ 20-38 nm được xem là kích thước tối ưu nhất về hiệu quả và an toàn của nước súc miệng chứa nano bạc.
  • Nồng độ nano bạc trong nước súc miệng: Nồng độ Nano bạc trong nước súc miệng càng cao thì hiệu quả kháng khuẩn càng tốt. Tuy nhiên, không nên sử dụng nồng độ quá cao nano bạc trong nước súc miệng vì sẽ gây lãng phí. Chỉ nên sử dụng nước súc miệng chứa nano bạc ở nồng độ 15-25nm là đủ.

Nước súc miệng PlasmaKare kháng khuẩn vượt trội với Plasma bạc

Nước súc miệng PlasmaKare là sản phẩm tiên phong sử dụng Plasma bạc kháng khuẩn trong chăm sóc răng miệng và cải thiện các vấn đề của răng miệng, họng. Plasma Bạc là dạng Nano bạc được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến nhất hiện nay: Công nghệ Plasma.

Công nghệ Plasma cho phép dòng Plasma điện hóa khử gần như toàn bộ các ion Bạc (Ag+) từ các điện cực giải phóng ra để tạo Nano bạc tinh khiết, kích thước siêu nhỏ. Nano bạc plasma thể hiện 5 ưu điểm vượt trội so với nano bạc thông thường.

  • Khả năng kháng khuẩn và bảo vệ kéo dài:Nano bạc Plasma có khả năng kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm vượt trội trên nhiều chủng vi khuẩn kháng kháng sinh, virus và vi nấm. Lớp màng Nano bạc Plasma bám dính trên da và niêm mạc giải phóng kéo dài và liên tục các ion Ag+ mang lại tác dụng bảo vệ kéo dài.
  • Độ tinh khiếtcao:Tỉ lệ hạt nano bạc cao trên 99%.
  • Kiểm soát kích thước hạt nano đồng đều: Mang tới hiệu quả cao nhất và độ an toàn tối ưu cho người dùng.
  • Độ bền cao: Nano bạc Plasma được bảo vệ 2 lớp, nên có thời gian ổn định lâu dài mà không bị lắng cặn, giảm hoạt tính.
  • Độ an toàn tối ưu:Nano bạc Plasma không lẫn muối bạcnhư các phương pháp hoá học truyền thống, nên rất an toàn và không có nguy cơ gây bệnh do muối bạc gây ra ( Như: bệnh da xanh, bỏng rát da và niêm mạc…)
Bao-ve-4-trong-1-voi-nuoc-suc-mieng-plasmakare-01.jpg
Nước súc miệng PlasmaKare sử dụng Nano bạc Plasma kháng khuẩn vượt trội

Tác dụng 4 trong 1 của nước súc miệng Nano bạc PlasmaKare

Sử dụng nước súc miệng họng PlasmaKare mỗi ngày ít nhất 2 lần giúp:

  • Làm sạch khoang miệng, hạn chế sự phát triển của vi sinh vật có hại gây viêm nhiễm khoang miệng, hầu họng
  • Cải thiện và phòng ngừa các bệnh răng miệng như: Viêm nướu, viêm nha chu, viêm quanh răng, chảy máu chân răng, sưng mộng răng, hôi miệng, nhiệt miệng
  • Cải thiện và phòng ngừa Các viêm nhiễm hầu họng: Viêm họng, viêm amidan, rát cổ, khản tiếng, ho do kích ứng, ho do thay đổi thời tiết.
  • Khử mùi hôi miệng do nhiều nguyên nhân, cho hơi thở thơm mát

Hiện nay, nước súc miệng PlasmaKare đang được các bà mẹ thông thái lựa chọn để chăm sóc và bảo vệ răng miệng cho cả gia đình. Tìm hiểu thêm về sản phẩm Nước súc miệng PlasmaKare TẠI ĐÂY

Xem thêm:MC Minh Trang tiết lộ bí kíp chăm sóc răng miệng cho cả gia đình bằng nước súc miệng Nano bạc 

Bài viết Nước súc miệng chứa hoạt chất này kháng khuẩn tốt gấp 5 lần Chlohexidine đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nuoc-suc-mieng-chua-hoat-chat-nay-khang-khuan-tot-gap-5-lan-chlohexidine-77849/feed/ 0
Nano bạc và những phát hiện đầy triển vọng về khả năng kháng Virus https://benh.vn/nano-bac-va-nhung-phat-hien-day-trien-vong-ve-kha-nang-khang-virus-75697/ https://benh.vn/nano-bac-va-nhung-phat-hien-day-trien-vong-ve-kha-nang-khang-virus-75697/#respond Tue, 14 Apr 2020 11:38:51 +0000 https://benh.vn/?p=75697 Nano bạc từ lâu đã được biết đến là một trong những chất sát khuẩn cực mạnh. Gần đây, các nhà khoa học đã nghiên cứu và có những phát hiện đầy triển vọng về khả năng kháng Virus, kể cả những chủng cực nguy hiểm như HIV-1, HSV-1, virus viêm gan B…của Nano bạc. […]

Bài viết Nano bạc và những phát hiện đầy triển vọng về khả năng kháng Virus đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nano bạc từ lâu đã được biết đến là một trong những chất sát khuẩn cực mạnh. Gần đây, các nhà khoa học đã nghiên cứu và có những phát hiện đầy triển vọng về khả năng kháng Virus, kể cả những chủng cực nguy hiểm như HIV-1, HSV-1, virus viêm gan B…của Nano bạc. Nhiều ứng dụng Nano bạc trong kháng khuẩn, kháng virus ngoài da, niêm mạc cũng được đưa vào cuộc sống và cho hiệu quả bất ngờ. 

Nano bạc là gì?

Nano bạc là những nguyên liệu quen thuộc được sử dụng trong y tế cũng như nhiều ngành sản xuất. Nguyên liệu Nano bạc là các phân tử hoặc ion bạc tồn tại ở dạng siêu nhỏ, cỡ nanomet. Kích thước Nano bạc phổ biến trong y tế từ 10 đến 100nm. Nhờ kích thước siêu nhỏ, nano bạc có diện tích tiếp xúc lớn gấp hàng triệu lần phân tử bạc thông thường và cho hiệu quả vượt trội.

nuoc-suc-mieng-nano-bac-that-co-mau-sac-nhu-the-nao
Màu Nano bạc biến đổi dải màu từ đen xám (>3000ppm) đến vàng chanh (<20ppm)

Về màu sắc của Nano bạc:

  • Nano bạc ở mỗi kích thước khác nhau cho màu dung dịch nano khác nhau. Kích thước hạt nano càng lớn, màu dung dịch nano bạc càng sậm màu.
  • Màu sắc Nano bạc cũng thay đổi theo nồng độ. Dải màu từ đen xám (>3000ppm) đến màu vàng chanh (<20ppm)

Nano bạc được chế tạo bằng nhiều phương pháp vật lý hoặc phương pháp hoá học, sinh học. 1 số phương pháp phổ biến chế tạo Nano bạc tại Việt Nam gồm: Khử laze, Khử hoá học , khử vật lý, khử sinh học, phương pháp Plasma…Trong đó phương pháp chế tạo Nano bạc bằng cách Plasma hoá là phương pháp mới có nhiều ưu điểm như cho độ tinh khiết của nano bạc dạng ion Ag+, không lẫn muối bạc (muối bạc là sản phẩm phụ trong phương pháp khử hoá học, có thể gây bỏng rát trên da, niêm mạc)…

Nano bạc được sử dụng nhiều trong các dung dịch sử dụng vệ sinh ngoài da, niêm mạc nhờ có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus cực mạnh. Trong tình hình dịch bệnh Covid -19 diễn biến phức tạp, khả năng kháng virus càng nhận được nhiều quan tâm bởi cả các chuyên gia y tế và người tiêu dùng. Vậy Nano bạc có thực sự kháng được virus?

Khám phá khả năng kháng virus cực mạnh của Nano bạc

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh cơ chế kháng virus độc đáo của Nano Bạc. Các thực nghiệm đã chứng minh, nano bạc có khả năng tiêu diệt nhiều loại virus nguy hiểm trong thời gian ngắn như: HIV1 (gây hội chứng suy giảm miễn dịch HIV – AIDs), HSV-1 (gây loét miệng, mụn rộp sinh dục ở miệng…), HBV (virus viêm gan B), virus hô hấp nội bào…

Virus nhân lên trong cơ thể như thế nào?

Virus không phải tế bào hoàn chỉnh mà chỉ gồm 1 chuỗi ADN hoặc ARN, có hoặc không có vỏ bọc. Virus muốn tồn tại và nhân lên cần bám được vào tế bào vật chủ. Virus sử dụng nguyên liệu trong tế bào vật chủ để tổng hợp Protein để phát triển hoàn thiện các virus mới.

Sau khi virus được nhân lên thành công trong tế bào chủ (các virion) thoát ra, phá huỷ tế bào chủ và tiếp tục di chuyển tới các tế bào khác trong cơ thể. Khi đạt số lượng đủ nhiều, bệnh do virus sẽ được biểu hiện thành triệu chứng. Thời gian ủ bệnh (người lành mang trùng) là thời gian lây lan virus mạnh nhất.

Co-che-khang-virus-cua-nuoc-suc-mieng-nano-bac-plasma
Nano Bạc diệt virus bằng cách ức chế sự liên kết của virus với vật chủ

Cơ chế kháng virus của Nano bạc ra sao?

Hàng loạt các nghiên cứu về tác dụng diệt virus của Nano bạc đã được tiến hành và cho kết quả rõ ràng. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng, Nano bạc ức chế quá trình nhân lên của virus bằng cách ngăn chặn sự liên kết của virus với tế bào vật chủ. Cách Nano bạc ức chế quá trình liên kết và thâm nhập của virus vào tế bào chủ cũng vô cùng độc đáo.

  • Nano bạc bám dính vị trí virus tiếp xúc với tế bào vật chủ: Cụ thể Nano bạc liên kết với Glycoprotein bao bọc lấy virus và che kín vị trí virus có thể tiếp xúc với tế bào vật chủ để bơm vật liệu di truyền vào bên trong. Không xâm nhập được vào tế bào vật chủ, virus sẽ nhanh chóng suy yếu và chết.
  • Nano bạc ngăn cản quá trình nhân lên khi virus đã xâm nhập: các hạt nano bạc có khả năng gắn vào cỗ máy tổng hợp Protein (gọi là Ribosome) để ngăn chặn sự nhân lên của virus.

Đặc tính kháng virus của nano bạc và nước súc miệng Nano Bạc Plasma đã được nghiên cứu chứng minh trên cả virus có vỏ và virus trần. Trong đó có nhiều loại virus cực nguy hiểm như: HIV01, virus cúm A, virus Herpes simplex -1 (HSV-1 gây loét miệng), corona virus, virus hợp bào hô hấp…

Kích thước hạt Nano bạc liên hệ với hiệu quả kháng virus:

Theo nhiều nghiên cứu, kích thước hạt nano bạc <20nm cho hiệu quả kháng khuẩn cao nhất.

  • Nano bạc 5 nm, 25 nm và 30 nm đều tiêu diệt virus Herpes và virus Epstein – Barr.
  • Nano bạc 3,5 nm, 6,5 nm và 12,9 nm diệt các chủng S.Aureus, E.coli, P.aeruginosa kể cả các chủng kháng kháng sinh và các loại virus như cúm H1N1 khi sử dụng huyền phù nano bạc trong dung dịch Chitosan. Chitosan chỉ có chức nặng tạo độ ổn định chống kết tụ cho nano bạc, hoàn toàn không có tác dụng diệt virus.
Nano-bac-kich-thuoc-cang-nho-diet-vi-khuan-vi-rú-cang-manh
Kích thước hạt nano càng nhỏ, khả năng kháng virus càng mạnh

Thế nhưng, kích thước hạt Nano bạc quá nhỏ không được khuyến khích sử dụng cho cơ thể người. Theo nhiều nghiên cứu, kích thước hạt nano bạc từ 26-33nm mới là nồng độ tối ưu đảm bảo cả hiệu quả và độ an toàn với tế bào người.

Những nghiên cứu đầy triển vọng về khả năng kháng Virus của Nano bạc

Rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh khả năng kháng virus của nano bạc, trong đó 1 số virus cực nguy hiểm và phổ biến hiện nay như HIV-1, HBV, HSV-1…

  • Trên virus HIV-1: Glycoprotein Gp-120 của virus HIV-1 sẽ gắn với CD4 trên tế bào vật chủ để xâm nhập. Jose Luis Elechiguerra cùng cộng sự đã phát hiện ra rằng Nano bạc bao bọc lấy phần Plycoprotein Gp-120 của virus HIV-1, từ đó ức chế sự xâm nhập của HIV -1 vào tế bào vật chủ.
  • Virus HBV (virus viêm gan B): Một nghiên cứu về tác dụng của Nano bạc ở nồng độ 10nm và 50nm trên virus HBV. Cụ thể, các hạt nano bạc có thể ức chế sự sản sinh của vật liệu di truyền ARN (HBV ARN) và virion (virus mới được tạo ra) ngoại bào. Nano bạc kích thước 10nm có thể tương tác trực tiếp để khống chế các hạt virus HBV 
  • Virus HSV-1 (Virus Herpes gây rụn rộp sinh dục, loét miệng). Sự gắn kết và xâm nhập của virus herpes simplex type 1 (HSV-1) vào các tế bào vật chủ liên quan đến sự tương tác giữa glycoprotein bao bọc virus và heparan sulfate trên bề mặt tế bào (HS). Các hạt nano bạc được gắn mercaptoethane sulfonate (Ag-MES), sẽ nhắm mục tiêu vào virus và cạnh tranh sự gắn kết của nó với tế bào vật chủ quan. Kết quả Nano bạc ức chế hiệu quả nhiễm HSV-1 và không gây tác dụng phụ lên trên tế bào người. 
  • Ngoài ra, nano bạc còn được chứng minh tác dụng ức chế trên 1 số các dòng Virus khác như virus hợp bào hô hấp, virus đậu mùa khỉ, Tacaribe virus…

Dòng sản phẩm PlasmaKare – tiên phong ứng dụng Nano bạc Plasma kháng khuẩn, kháng virus bảo vệ sức khoẻ toàn diện

Với khả năng kháng khuẩn, kháng virus vượt trội, nano bạc được ứng dụng phổ biến trong các sản phẩm làm đẹp và chăm sóc cá nhân như nước súc miệng, kem đánh răng, nước rửa tay, gel trị mụn…Tuy nhiên, để lựa chọn sản phẩm vừa hiệu quả và độ an toàn thì không dễ. Tốt nhất, nên lựa chọn các sản phẩm chứa Nano bạc điều điều chế bằng phương pháp vật lý hoặc Plasma do đáp ứng được độ tinh khiết, không lẫn muối bạc và kích thước hạt nano tối ưu về hiệu quả và an toàn.

Tại Việt Nam, dòng sản phẩm Plasmakare là thương hiệu đầu tiên và duy nhất ứng dụng Nano bạc Plasma vào các sản phẩm làm đẹp và chăm sóc cá nhân cho các ưu điểm vượt trội:

  • Nano bạc Plasma tinh khiết, không lẫn muối bạc an toàn tuyệt đối với da và niêm mạc
  • Kích thước hạt nano Plasma nhỏ cỡ 18nm, cho hiệu quả kháng khuẩn, kháng virus cao. Ở kích thước 18nm, sản phẩm không gây tác dụng phụ trên da và niêm mạc
  • Hiệu quả kéo dài: Lớp nano bạc bao phủ bề mặt da, niêm mạc giải phóng từ từ ion Ag+ cho hiệu quả kéo dài, không gây tác dụng phụ.

Nước súc miệng PlasmaKare làm sạch khoang miệng, kháng khuẩn, khử mùi hôi miệng vượt trội với Nano bạc Plasma

Nước súc miệng Plasmakare với Nano bạc Plasma giúp làm sạch khoang miệng, kháng khuẩn, khử mùi hôi vượt trội. Màng Nano bạc Plasma bao phủ toàn bộ khoang miệng, vào tận những hốc tự nhiên nhỏ nhất. Màng nano bạc này giải phóng liên tục các ion Ag+ giúp tăng hiệu quả kháng khuẩn và khử mùi kéo dài.

Nuoc-suc-mieng-plasmaKare

Nước súc miệng Plasmakare hiệu quả trong nhiều trường hợp như:

  • Người cần phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm qua khoang miệng. Người muốn phòng bệnh lây truyền qua các giọt bắn nước bọt từ người khác qua miệng.
  • Người bị bệnh lý nhiễm trùng trên niêm mạc miệng, viêm quanh răng, sâu răng, viêm nha chu, viêm lợi
  • Người bị mảng bám trên răng, hôi miệng, chảy máu chân răng.
  • Người bị mụn rộp vùng miệng, nhiệt miệng, loét miệng.
  • Người đang mọc răng khôn, sưng mộng răng

Bộ đôi Gel, xịt rửa tay khô PlasmaKare Nano bạc ngăn ngừa lây nhiễm vi khuẩn, virus kéo dài

Combo gồm Gel rửa tay khô PlasmaKare và xịt rửa tay khô PlasmaKare giúp ngăn ngừa lây nhiễm vi khuẩn, vi rút kéo dài nhờ sự kết hợp độc đáo của Nano bạc Plasma và cồn y tế (Ethanol). Nếu như Ethanol chỉ gây đông tụ và diệt khuẩn trong thời gian ngắn rồi bay hơi, thì lớp màng nano bạc bám trên da tiếp tục bảo vệ da khỏi các loại vi khuẩn, virus gây bệnh hiệu quả.

Nuoc-rua-tay-kho-Plasmakare
Bộ đôi sản phẩm gel rửa tay khô và xịt rửa tay khô PlasmaKare tiện dùng

Bộ sản phẩm nước rửa tay khô PlasmaKare sử dụng hiệu quả trong các trường hợp:

  • Khử trùng tay tại gia đình, cộng đồng: dùng vệ sinh tay, diệt khuẩn, phòng ngừa bệnh do vi khuẩn, virus, vi sinh vật…gây ra tại gia đình hay nơi công cộng.
  • Vệ sinh tay, trang phục trước vf sau khi tiếp xúc với nơi đông người, cầm nắm các dụng cụ công cộng, sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn,…

Xịt rửa tay khô PlasmaKare 100ml tiện dụng, có thể mang theo người hàng ngày để: Vệ sinh tay, vệ sinh trang phục, xịt trực tiếp vào tay nắm hoặc các bề mặt có thể lây nhiễm virus. Trong khi đó, Gel rửa tay khô PlasmaKare thiết kế chai lớn 500ml tiện dùng cho gia đình, cơ quan, để trên xe, trước cửa hàng, cửa hiệu…

Hãy bảo vệ gia đình khỏi các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn, vi rút bằng các biện pháp văn minh và thiết thực như sử dụng nước rửa tay khô PlasmaKare và nước súc miệng PlasmaKare. Chi tiết về bộ sản phẩm chăm sóc cá nhân PlasmaKare tại: https://plasmakare.vn  hoặc gọi lên tổng đài 0246 6800 369 để được chuyên gia hỗ trợ!

Bài viết Nano bạc và những phát hiện đầy triển vọng về khả năng kháng Virus đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nano-bac-va-nhung-phat-hien-day-trien-vong-ve-kha-nang-khang-virus-75697/feed/ 0