Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Mon, 06 May 2024 08:54:21 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực https://benh.vn/benh-roi-loan-cam-xuc-luong-cuc-5084/ https://benh.vn/benh-roi-loan-cam-xuc-luong-cuc-5084/#respond Sat, 04 May 2024 05:16:39 +0000 http://benh2.vn/benh-roi-loan-cam-xuc-luong-cuc-5084/ Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC) là một rối loạn cảm xúc mạn tính, đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ xen kẽ hay đi kèm với các giai đoạn trầm cảm.

Bài viết Bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC) là một rối loạn cảm xúc mạn tính, đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ xen kẽ hay đi kèm với các giai đoạn trầm cảm.

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực gặp với tỷ lệ 1,5% – 2,5% dân số, thường khởi phát ở tuổi trẻ (20- 30 tuổi). Có khoảng 50% bị chẩn đoán nhầm là trầm cảm đơn cực. Sự chậm trễ từ khi có triệu chứng đầu tiên đến khi được chẩn đoán và điều trị đúng thường từ 8 đến 10 năm.

Các biểu hiện lâm sàng rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực có biểu hiện lâm sàng tương đối phức tạp tùy theo từng giai đoạn của bệnh. Chính vì vậy cần nắm rõ chi tiết giai đoạn bệnh và theo dõi trong 1 thời gian để có các kết luận chính xác.

Giai đoạn hưng cảm

Một thời kỳ rõ rệt với khí sắc tăng, với các biểu hiện:

– Tự đánh giá cao bản thân hay tự cao.

– Giảm nhu cầu ngủ.

– Nói nhiều hơn thường lệ hay bị thôi thúc phải nói.

– Tư duy phi tán hoặc cảm thấy các ý nghĩ xuất hiện dồn dập.

– Đãng trí.

– Gia tăng hoạt động có mục đích hay kích động tâm thần vận động.

– Bị lôi cuốn quá mức vào những hoạt động mang lại thích thú song lại có nhiều khả năng đề lại hậu quả đau khổ.

Các rối loạn khí sắc trên phải:

– Đủ nặng để gây ra suy giảm rõ rệt trong hoạt động nghề nghiệp hoặc các hoạt động xã hội thường ngày hoặc các mối quan hệ với những người khac.

– Cần phải nhập viện để ngăn ngừa sự thiệt hại cho bản thân hay những người khác.

– Có các biểu hiện loạn thần.

Các triệu chứng không phải do tác động sinh lý trực tiếp của một chất hoặc một bệnh cơ thể.

Giai đoạn trầm cảm

– Khí sắc trầm cảm hầu như suốt ngày thể hiện qua lời khai của người bệnh hay qua sự quan sát của người khác.

– Giảm rõ sự quan tâm thích thú trong các hoạt động và gần như suốt ngày.

– Sụt cân đáng kể khi không ăn kiêng hoặc tăng cân.

– Mất ngủ hoặc ngủ nhiều.

– Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động.

– Mệt mỏi hoặc mất sinh lực.

– Cảm gác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hay không hợp lý.

– Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung hoặc thường do dự.

– Suy nghĩ về cái chết, ý tưởng muốn tự tử tái diễn nhiều lần (có hoặc không có một kế hoạch cụ thể cho việc tự tử).

– Các triệu chứng gây ra nỗi đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng, suy giảm rõ các hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.

– Các triệu chứng không phải do tác động sinh lý trực tiếp của một chất hoặc một bệnh cơ thể.

– Các triệu chứng không phải là sự đau buồn do tang tóc.

Nguyên tắc chẩn đoán bệnh rối loạn cảm xúc

Để chẩn đoán rối loạn này cần có:

– Có đầy đủ các tiêu chẩn của một giai đoạn trầm cảm (F32) hoặc hưng cảm (F30).

– Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác trong quá khứ: nếu hiện tại là giai đoạn trầm cảm thì trong quá khứ phải có ít nhất một giai đoạn hưng cảm. Nếu hiện tại là giai đoạn hưng cảm thì trong quá khứ có một giai đoạn hưng cảm khác hoặc trầm cảm.

– Giữa 2 giai đoạn phải có thời gian hoàn toàn ổn định.

– Loại trừ các rối loạn tâm thần khác có trước: tâm thần phân liệt, phân liệt cảm xúc…(F20; F25).

– Loại trừ các nguyên nhân do tổn thương thực thể tại não hay bệnh cơ thể ảnh hưởng tới não (F0X), hay do sử dụng chất (F1X): rượu, amphetamin…

Điều trị bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Giai đoạn hưng cảm

* Đơn trị liệu: Trong trường hợp hưng cảm chỉ ở mức nhẹ đến trung bình

– Các thuốc chỉnh khí sắc: chọn một trong các thuốc sau

+ Valproate: depakin 200 – 600mg/ngày hoặc

+ Carbamazepine: 200 – 600mg/ngày

– Các thuốc chống loạn thần: chọn một trong các thuốc sau

+ Olanzapine: 20- 30mg/ngày

+ Chlorpromazine: 200- 400mg/ngày

+ Haloperidone: 10- 20mg/ngày

+ Risperidone: 2- 6mg/ngày

+ Amisulpride: 400- 800mg/ngày

* Đa trị liệu: Trong trường hợp hưng cảm mức độ nặng hoặc có biểu hiện loạn thần.

Có thể phối hợp thuốc chống co giật (valproate,carbamazepam) với thuốc chống loạn thần.

Giai đoạn trầm cảm

Có thể phối hợp thuốc chống co giật, thuốc chống loạn thần không điển hình với thuốc chống trầm cảm.

* Điều trị cụ thể: chọn một trong các thuốc sau

– Lamotrigine: 200- 400mg/ngày

– Valproate: depakin 200- 400mg/ngày

– Carbamazepine: 200- 400mg/ngày

Phối hợp với các thuốc chống loạn thần:

– Quetiapine: 100- 300mg/ngày hoặc

– Olanzapine: 10- 30mh/ngày

Phối hợp với các thuốc chống trầm cảm:

– Amitriptylin: 50- 100mg/ngày

– Sertaline: 50- 100mg/ngày

– Mirtazapine: 30- 60mg/ngày

Trong trường hợp trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự sát mãnh liệt hoặc không đáp ứng trị liệu, cần nhập viện điều trị nội trú và sử dụng liệu pháp sốc điện kết hợp sẽ cho kết quả tốt..

Phòng bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực cần điều trị dự phòng tái cơn (đặc biệt là những cơn hư¬ng cảm) bằng thuốc ổn định cảm xúc carbamazepin hoặc valproat.  Khuyến cáo thời gian điều trị từ 6 tháng đến 2 năm.

Cần chú ý đến chế độ sinh hoạt, công tác, nghỉ ngơi của người bệnh, đặc biệt tránh căng thẳng về cảm xúc.

Phát hiện và điều trị sớm ngay từ khi có triệu chứng đầu tiên: rối loạn giấc ngủ, tăng hoạt động, tăng nhu cầu giao tiếp, tăng sức mạnh và nghị lực rõ rệt so với trạng thái thông thường.

Giáo dục cho gia đình và bệnh nhân hiểu biết, quan tâm về tầm quan trọng của điều trị thuốc lâu dài rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh rối loạn cảm xúc lưỡng cực đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-roi-loan-cam-xuc-luong-cuc-5084/feed/ 0
Những điều cần biết về dự phòng các bệnh rối loạn tâm thần https://benh.vn/nhung-dieu-can-biet-ve-du-phong-cac-benh-roi-loan-tam-than-5020/ https://benh.vn/nhung-dieu-can-biet-ve-du-phong-cac-benh-roi-loan-tam-than-5020/#respond Sat, 25 Feb 2023 05:15:19 +0000 http://benh2.vn/nhung-dieu-can-biet-ve-du-phong-cac-benh-roi-loan-tam-than-5020/ Sức khoẻ tâm thần được định nghĩa là trạng thái không chỉ không có các rối loạn và dị tật tâm thần mà còn là trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái. Muốn có trạng thái hoàn toàn thoải mái về tâm thần cần phải có chất lượng sống tốt, có được sự cân bằng, hoà hợp giữa cá nhân, người thân và môi trường xã hội.

Bài viết Những điều cần biết về dự phòng các bệnh rối loạn tâm thần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Sức khoẻ tâm thần được định nghĩa là trạng thái không chỉ không có các rối loạn và dị tật tâm thần mà còn là trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái. Muốn có trạng thái hoàn toàn thoải mái về tâm thần cần phải có chất lượng sống tốt, có được sự cân bằng, hoà hợp giữa cá nhân, người thân và môi trường xã hội. Tuy nhiên, trong thời buổi hiện đại, mọi người sẽ không tránh khỏi những lưu ý quan trọng để dự phòng các bệnh rối loạn tâm thần, vốn dĩ ngày càng trở nên phổ biến.

Nguyên nhân rối loạn tâm thần

Hoạt động tâm thần là hoạt động phản ánh thực tại trên cơ sở vật chất là bộ não. Cơ thể con người là một khối thống nhất, hoạt động tâm thần có thể ảnh hưởng đến cơ thể và ngược lại bệnh cơ thể cũng ảnh hưởng đến não. Hoạt động đời sống con người có ảnh hưởng của các yếu tố môi trường – tâm lý – xã hội.

Phương pháp tâm sinh lý xã hội cho rằng những rối loạn tâm thần trên lâm sàng là do những tác động qua lại liên tục của những yếu tố sinh học, xã hội và tâm lý. Dưới đây là những yếu tố gây bệnh quan trọng nhất trong các lĩnh vực sinh học, tâm lý và xã hội. Việc dự phòng và tăng cường sức khoẻ tâm thần cũng được xây dựng trên cơ sở hiểu biết về các lĩnh vực này.

Yếu tố sinh học gây rối loạn tâm thần

Gen

Gen đóng vai trò trung tâm trong việc xác định nguy cơ bị các rối loạn tâm thần có và không có loạn thần. Đã có một số gen được xem là có vai trò trong loạn thần. Sự tương tác giữa gen và môi trường có thể được nhận thấy qua những nghiên cứu các biểu hiện bệnh ở những cặp sinh đôi. Những kết luận rút ra từ những nghiên cứu sinh đôi cũng nhấn mạnh sự phát hiện và can thiệp sớm có thể hy vọng làm giảm cả tỷ lệ và mức độ trầm trọng của bệnh.

Biến đổi cấu trúc não

Sự bùng nổ những tiến bộ của kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính (CT Scan) và cộng hưởng từ giúp chúng ta có những hiểu biết đáng chú ý về cấu trúc não. Ví dụ, bệnh nhân tâm thần phân liệt có giãn não thất và giảm tỷ trọng ở thuỳ trán. Biến đổi cấu trúc não còn giúp phân biệt những suy giảm nhận thức ở các nguyên nhân khác nhau như bệnh Alzheimer hay bệnh mạch máu.

Biến đổi chức năng não

Những phương pháp ghi hình thần kinh chức năng như chụp cắt lớp vi tính, phóng thích photon đơn (SPECT) và ghi hình cộng hưởng từ chức năng (FMRI) cho những thông tin đặc hiệu hơn qua nghiên cứu về mức độ hoạt động ở những vùng não khác nhau. Hình ảnh không cho biết nguyên nhân của bệnh nhưng hướng chúng ta đến những vùng não đặc biệt cho những nghiên cứu sau này.

Yếu tố nội khoa gây rối loạn tâm thần

Bệnh lý não và những cơ quan có ảnh hưởng gián tiếp lên não có thể gây rối loạn tâm thần. Ngoài ra, thuốc kê đơn hoặc một số thuốc khác cũng có ảnh hưởng lên não và cũng gây rối loạn tâm thần.

Bệnh lý não

Các chấn thương sọ não, các bệnh lý mạch máu, nhiễm trùng – nhiễm độc thần kinh, bệnh thoái triển não đều có thể gây ra những biến đổi về ý thức, nhận thức, cảm xúc và hành vi và cả những triệu chứng loạn thần. Các triệu chứng này nhiều khi còn xuất hiện trước và che mờ các triệu chứng thực tổn não.

Các bệnh lý nội khoa có ảnh hưởng lên não

Một số rối loạn nội tiết có thể gây ra rối loạn tâm thần. Nhiễm độc giáp có thể gây lo âu. Bệnh hệ thống có ảnh hưởng đến não do nhiều cơ chế như giảm cung cấp máu,… Các bệnh tim mạch, rối loạn chức năng thận, …

Những thuốc có ảnh hưởng lên não

Nhiều loại chất và thuốc khi sử dụng có thể gây ra những triệu chứng tâm thần cấp, mạn và di chứng. Những chất gây phụ thuộc điển hình như rượu, chất gây ảo giác, … có thể gây triệu chứng loạn thần. Thuốc điều trị gây rối loạn tâm thần thường gặp như corticoid, L-dopa, …

Yếu tố tâm lý gây rối loạn tâm thần

Khái niệm về stress bao gồm 2 khía cạnh:

Tình huống stress (sang chấn tâm thần)

Bao gồm tất cả những sự việc, những hoàn cảnh trong các điều kiện sinh hoạt xã hội, trong các mối liên quan phức tạp giữa người và người tác động vào tâm thần, gây ra những cảm xúc mạnh, phần lớn là tiêu cực: sợ hãi, lo lắng, buồn rầu, tức giận, ghen tuông, thất vọng… Stress trở nên bệnh lý khi tình huống stress xuất hiện bất ngờ và quá mạnh hoặc không mạnh nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần vượt khả năng chịu đựng của đối tượng gây ra các rối loạn cơ thể, tâm thần và ứng xử gọi là các rối loạn liên quan stress.

Sự tác động hàng ngày

Hàng ngày, hàng giờ mỗi cá thể trong xã hội phải chịu tác động của nhiều loại stress như điều kiện sống khó khăn, làm việc quá tải và căng thẳng, thất vọng trong sự nghiệp, mâu thuẫn trong gia đình… Tuy nhiên, stress có gây bệnh hay không còn phụ thuộc nhiều nhân tố phức tạp. Thành phần gây bệnh của stress là ý nghĩa thông tin chứ không phải là cường độ của stress. Những stress gây xung đột nội tâm, làm cho cá nhân không tìm được lối thoát thường gây bệnh. Sức chống đỡ của nhân cách có ý nghĩa quan trọng.

Các bệnh nhân có các nét nhân cách cảm xúc không ổn định, lo âu, căng thẳng, né tránh cũng là những nét nhân cách dễ bị tổn thương. Cùng một tình huống stress, tuỳ theo phương thức phản ứng của đối tượng mà có thể biểu hiện bệnh lý khác nhau: lo âu, trầm cảm, khó thở, rối loạn tiêu hoá, cao huyết áp…

Môi trường và nhân cách tác động qua lại, cảm ứng lẫn nhau rất mật thiết, khi cảm ứng những nét tiêu cực có thể gây ra trạng thái bệnh lý tập thể, khi cảm ứng những nét tích cực thì mỗi nhân cách trong tập thể lại được tăng thêm sức mạnh để chống đỡ stress. Cơ thể khoẻ mạnh hỗ trợ tốt cho nhân cách chống đỡ với stress.

Yếu tố xã hội gây rối loạn tâm thần

Tình trạng kinh tế xã hội

Một người thất nghiệp không chỉ bị áp lực về tài chính mà còn dễ mất lòng tin. Đã có những báo cáo về mối liên quan giữa thất nghiệp và bệnh lý tâm thần.

Tuổi và giới

Phụ nữ có tỷ lệ trầm cảm và lo âu cao hơn nam giới. Ngược lại, nam giới lại dễ bị lạm dụng chất gây nghiện và rối loạn nhân cách chống đối xã hội hơn nữ. Nhiều bệnh lý tâm thần có đặc trưng về tuổi khởi phát. Trầm cảm thường khởi phát sau tuổi dậy thì. Rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt hầu như không gặp ở trẻ em, lứa tuổi thường gặp nhất là 15-25.

Cấu trúc xã hội

Những cấu trúc xã hội hỗ trợ, đặc biệt gia đình, là yếu tố quan trọng trong thời kỳ khủng hoảng. Những cấu trúc xã hội này, ngoài gia đình và bạn bè còn gồm nhiều cấu trúc khác bao gồm cả những tổ chức tôn giáo. Những người bị rối loạn tâm thần thường ít có những quan hệ xã hội hơn là những người cùng trang lứa.

Những sự kiện trong đời sống

Trong khi những yếu tố xã hội như đã nói ở trên có ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng thì những sự kiện có tác động lên một cá nhân có tính đặcthù cao hơn. Những ảnh hưởng thực sự của bất kỳ một sự kiện nào không những phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng, vào thời gian tác động của sự kiện đó mà còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của xã hội và những yếu tố khác của từng cá nhân.

Những thảm hoạ chiến tranh và thiên tai có thể dẫn đến những cơn hồi tưởng nhanh lặp đi lặp lại hoặc những hình thức rối loạn tâm thần khác thường chỉ xảy ra ở một số người nào đó mà thôi. Những sự kiện trước đó góp phần vào bệnh cảnh thường là những sự mất mát trong quan hệ cá nhân và cần phải có sự điều chỉnh của xã hội.

Dự phòng bệnh rối loạn tâm thần

Để dự phòng bệnh rối loạn tâm thần, mọi người có thể áp dụng nhiều biện pháp kể sau đây.

Những biện pháp phòng bệnh rối loạn tâm thần tuyệt đối

Đó là những biện pháp nhằm loại trừ các nguyên nhân chính, bảo vệ những người lành mạnh khỏi bị rối loạn tâm thần.

Các biện pháp chủ yếu như:

1) Chống các bệnh nhiễm khuẩn thần kinh nguyên phát và thứ phát, đặc biệt các bệnh nhiễm khuẩn dễ lan truyền rộng như HIV, lao, sốt rét, …; Chống các bệnh nhiễm độc thần kinh và chấn thương sọ não như nhiễm độc rượu, ma tuý, …;

2) Tích cực bảo vệ bà mẹ và trẻ em để mỗi em bé ra đời đều hoàn toàn khoẻ mạnh về mặt thần kinh và tâm thần. Tránh cho bà mẹ khi có thai những sang chấn cơ thể và tâm thần, tích cực chữa những bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc, …;

3) Rèn luyện nhân cách, tổ chức xã hội và gia đình chống các stress.

Những biện pháp phòng bệnh rối loạn tâm thần tương đối

Đó là những biện pháp áp dụng cho những người đã chịu tác dụng xấu của môi trường, cho những trẻ em bị tổn thương thần kinh trong bào thai hay có yếu tố di truyền và đề phòng tái phát cho những bệnh nhân tâm thần đã thuyên giảm.

Các biện pháp bao gồm:

1) Tổ chức theo dõi những trẻ bị nhiễm khuẩn trong những năm đầu sau khi đẻ, những trẻ có bố mẹ bà con gần bị rối loạn tâm thần, …;

2) Tổ chức lớp học riêng cho những trẻ chậm phát triển về tâm thần hay có rối loạn tính cách, tác phong;

3) Chẩn đoán sớm các rối loạn tâm thần để can thiệp sớm ngay trong giai đoạn bệnh đang còn dễ khỏi, ít hoặc chưa có triệu chứng âm tính;

4) Chú ý theo dõi và hỗ trợ chặt chẽ, hỗ trợ tâm thần cho những người bị bệnh não, sang chấn sọ não, …  và người ít nhiều có tổn thương hệ thần kinh trung ương;

5) Đối với những bệnh nhân tâm thần đã khỏi hay thuyên giảm, cần tiếp tục điều trị củng cố và theo dõi lâu dài. Nghiên cứu chế độ lao động và hình thức lao động thích hợp cho từng loại bệnh nhân, chữa các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc mới phát sinh, giúp đỡ giải quyết những sang chấn tâm thần trong cuộc sống, ….

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Những điều cần biết về dự phòng các bệnh rối loạn tâm thần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nhung-dieu-can-biet-ve-du-phong-cac-benh-roi-loan-tam-than-5020/feed/ 0
Bệnh rối loạn lo âu lan tỏa https://benh.vn/benh-roi-loan-lo-au-lan-toa-48461/ https://benh.vn/benh-roi-loan-lo-au-lan-toa-48461/#respond Fri, 26 Mar 2021 01:52:01 +0000 https://benh.vn/?p=48461 Rối loạn lo âu lan tỏa là lo âu quá mức, không kiểm soát được với nhiều chủ đề mang tính chất mơ hồ, vô lý, không phù hợp với hoàn cảnh, môi trường. Lo âu thường kéo dài, tăng lên khi có sang chấn.

Bài viết Bệnh rối loạn lo âu lan tỏa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Rối loạn lo âu lan tỏa là lo âu quá mức, không kiểm soát được với nhiều chủ đề mang tính chất mơ hồ, vô lý, không phù hợp với hoàn cảnh, môi trường. Lo âu thường kéo dài, tăng lên khi có sang chấn. Lo âu kèm theo các triệu chứng cơ thể như: Mất thư giãn, dễ mệt mỏi, khó tập trung hoặc cảm giác trống rỗng, dễ cáu gắt, căng cơ, rối loạn giấc ngủ.

roi_loan_lo_au_lan_toa

Rối loạn lo âu lan tỏa thường gặp ở phụ nữ. Sự phát sinh và tiến triển của rối loạn thường liên quan đến stress môi trường mạn tính, tuy nhiên không dễ dàng nhận thấy nguyên nhân tâm lý cụ thể.

Nguyên nhân gây bệnh rối loạn lo âu lan tỏa

Cho tới nay các chuyên gia đều không rõ nguyên nhân chính xác gây rối loạn lo âu lan tỏa là gì. Tuy nhiên, có một số giả thuyết về nguyên nhân gây bệnh và cơ chế sinh bệnh như sau.

1) Thuyết phân tâm: là hậu quả của sự dồn nén xung đột giữa bản năng, dục vọng cá nhân… với sự kiềm chế của đạo đức, xã hội, luật lệ,…

2) Thuyết hành vi: là đáp ứng có điều kiện đối với các kích thích đặc biệt là kích thích từ môi trường.

3) Giả thuyết về sinh học: Rối loạn các chất dẫn truyền thần kinh: gamma Aminobutiric acide (GABA), norepinephrin (NE), serotonin (5-HT).

Chẩn đoán bệnh rối loạn lo âu lan tỏa

Để chẩn đoán các bệnh lý tâm thần kinh nói chung và bệnh lý rối loạn lo âu lan tỏa nói riêng là không đơn giản. Cần tuân theo các nguyên tắc chẩn đoán bệnh chung và có thể thực hiện thêm các xét nghiệm cần thiết.

Các nguyên tắc chẩn đoán rối loạn lo âu lan tỏa

  1. Trạng thái căng thẳng, lo lắng, lo sợ kéo dài ≥ 6 tháng về các sự kiện thường ngày (sức khoẻ, công việc, tài chính, người thân …).
  2. Lo âu biểu hiện dai dẳng, không trội lên mạnh mẽ trong bất kỳ hoàn cảnh hoặc sang chấn môi trường đặc biệt nào.
  3. Các triệu chứng thường rất thay đổi theo thời gian, có thể thay đổi hàng giờ.
  4. Có ít nhất 4 triệu chứng sau (ít nhất 1 triệu chứng từ mục 1-4) thuộc các nhóm:
  • Các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật:

Hồi hộp, tim đập nhanh

Vã mồ hôi.

Run.

Khô miệng (không do thuốc hoặc mất nước ).

  • Các triệu chứng liên quan đến ngực, bụng:

Khó thở.

Cảm giác nghẹn.

Đau hoặc khó chịu ở ngực.

Sôi bụng, buồn nôn…

  • Các triệu chứng về trạng thái tâm thần:

Chóng mặt, choáng váng hoặc ngất xỉu.

Tri giác sai thực tại hoặc giải thể nhân cách.

Sợ mất kiềm chế.

Sợ bị chết.

  • Các triệu chứng toàn thân:

Các cơn đỏ mặt hoặc ớn lạnh.

Tê cóng hoặc cảm giác kim châm.

  • Các triệu chứng căng thẳng:

Căng cơ hoặc đau cơ.

Bồn chồn hoặc không thể thư giãn được.

Có cảm giác tù túng hoặc căng thẳng tâm thần.

Cảm giác có khối trong họng hoặc khó nuốt.

  • Các triệu chứng không đặc hiệu khác:

Đáp ứng quá mức hoặc giật mình trước kích thích nhỏ.

Khó tập trung, đầu óc trống rỗng vì lo âu.

Dễ cáu gắt.

Khó ngủ vì lo lắng.

Xét nghiệm cận lâm sàng khi nghi ngờ mắc rối loạn lo lâu lan tỏa

  • Test Zung (hỗ trợ chẩn đoán): tổng điểm từ 40 (50%) trở lên là có lo âu bệnh lý.
  • Làm điện tâm đồ để loại trừ bệnh tim mạch (nếu bệnh nhân có các triệu chứng về tim như mạch nhanh, đầu vùng trước ngực …).

Chẩn đoán phân biệt rối loạn lo âu lan tỏa

Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ: lo âu xuất hiện do những hoàn cảnh hay đối tượng bên ngoài chủ thể, người bệnh tránh né hoàn cảnh hay đối tượng đó hoặc chịu đựng với sự khiếp sợ. Triệu chứng lo âu không nhẹ đi khi biết rằng người khác không coi hoàn cảnh hay đối tượng đó là nguy hiểm hay đe doạ.

Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm: các triệu chứng rối loạn lo âu và trầm cảm đều có nhưng không đủ nặng và không nhóm triệu chứng nào chiếm ưu thế.

Các bệnh thực thể thuộc hệ tim mạch, hô hấp, tiêu hoá: có sự mất tương xứng giữa triệu chứng cơ năng và thực thể. Các triệu chứng hoạt động quá mức của hệ thần kinh tự trị và lo lắng mơ hồ mà rối loạn lo âu thường gặp trong đa khoa.

Điều trị bệnh rối loạn lo âu lan tỏa

Điều trị bệnh rối loạn lo âu lan tỏa cần phối kết hợp trị liệu bằng thuốc, trị liệu tâm lý và điều trị kéo dài tối thiểu 3-6 tháng dưới sự giám sát của các chuyên gia y tế.

Nguyên tắc điều trị rối loạn lo âu lan tỏa

  • Phối hợp tâm lý liệu pháp và hoá dược liệu pháp.
  • Phối hợp thuốc giải lo âu và thuốc chống trầm cảm.
  • Chọn liều thuốc và loại thuốc phù hợp với từng trường hợp.
  • Điều trị duy trì tối thiểu 3-6 tháng sau khi hết triệu chứng.

Các thuốc điều trị rối loạn lo âu lan tỏa

Thuốc giải lo âu: Dùng một trong các loại sau.

  • Diazepam liều 5-10mg/ngày
  • Stresam: liều 50-100mg/ngày
  • Lưu ý: thuốc giải lo âu nên dùng ngắn ngày, đề phòng quen thuốc.

Thuốc chống trầm cảm: Dùng một trong các loại sau.

  • Amitriptylin liều 25-50mg/ngày
  • Paroxetin: liều 20-40mg/ngày
  • Sertaline : liều 50-100mg/ngày
  • Mirtazapine liều 30-45mg/ngày.

Thuốc an thần kinh:

  • Dogmatil: 50-100mg/ngày.
  • Olazapine: 5-10mg/ngày.

Liệu pháp tâm lý điều trị rối loạn lo âu lan tỏa

Các liệu pháp tâm lý thông dụng như: Thư giãn luyện tập, Yoga.

Dự phòng bệnh rối loạn lo âu lan tỏa

  • Loại trừ các tình huống stress trong gia đình, cơ quan,… có vai trò quan trọng trong phòng rối loạn lo âu.
  • Bồi dưỡng nhân cách, giáo dục cho gia đình kiến thức bồi dưỡng nhân cách cho con cái cũng là một biện pháp phòng ngừa rối loạn lo âu.
  • Bồi dưỡng sức khoẻ để tăng sức đề kháng cho cơ thể chống lại các tình huống lo âu.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai.

Bài viết Bệnh rối loạn lo âu lan tỏa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-roi-loan-lo-au-lan-toa-48461/feed/ 0
Bệnh loạn thần do rượu https://benh.vn/benh-loan-than-do-ruou-3447/ https://benh.vn/benh-loan-than-do-ruou-3447/#respond Sat, 20 Mar 2021 04:36:22 +0000 http://benh2.vn/benh-loan-than-do-ruou-3447/ Loạn thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu lên não. Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu dài gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hoá trong cơ thể.

Bài viết Bệnh loạn thần do rượu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh loạn thần do rượu là một bệnh lý tâm thần kinh khá trầm trọng mà nguyên nhân là do rượu gây ra. Người bệnh có nhiều biểu hiện bất thường và cần điều trị, cai rượu sớm.

benh_loan_than_do_ruou

Tổng quan về bệnh lý tâm thần kinh do rượu gây ra

Nhiều người nghĩ rượu chỉ gây hại trên tiêu hóa, gây ngộ độc… Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thần kinh bị tổn thương nặng nề nhất do rượu gây ra.

Tác hại của rượu gây ra trên tâm thần kinh

Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần. Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) loạn thần do rượu chiếm 10% các trường hợp nghiện rượu mãn tính.

Thuật ngữ loạn thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu lên não. Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu dài gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hoá trong cơ thể. Loạn thần xuất hiện không những do ngộ độc rượu khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi lượng rượu trong máu không có hoặc có rất thấp (Wictor M., 1953).

Về lâm sàng loạn thần do rượu có thể chia ra: sảng rượu, ảo giác do rượu, hoang tưởng do rượu, hội chứng Korsakov do rượu, bệnh não do rượu … (Sumski N. G., 1963).

Ảo giác do rượu là hình thái lâm sàng thường gặp sau sảng rượu, chiếm 5,6 – 22,5% các loạn thần có liên quan đến nghiện rượu mãn tính (Marozov G. V., 1974).

Tuổi bị bệnh thường gặp ở lứa tuổi 30 – 40 tuổi (Achte K., 1969). Ảo giác thường xuất hiện sau 10 năm uống rượu (Katralv.A. K., 1973). Tiến triển của ảo giác do rượu có thể cấp, kéo dài và có thể ảo giác mãn tính (Sumski N.G., 1983).

Hoang tưởng do rượu thường gặp sau sảng rượu và ảo giác do rượu, chiếm 1% loạn thần do rượu (Achte, 1969). Về lâm sàng có paranoid do rượu và paranoia do rượu (hay gặp nhất là hoang tưởng ghen tuông).

Xác định đặc điểm lâm sàng của loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế, chẩn đoán đúng và điều trị tích cực là hết sức cần thiết trong lâm sàng tâm thần học.

Hoang tưởng và ảo giác do rượu – lịch sử, phân loại theo khoa học

Hoang tưởng do rượu và ảo giác do rượu được biết đến từ lâu nhưng không được chú ý nhiều như sảng rượu và các bệnh não do rượu.

Nhiều tác giả coi hoang tưởng, ảo giác là những thể riêng biệt trong loạn thần do rượu.

Marozov lại cho rằng hoang tưởng chỉ là một hình thái trong ảo giác do rượu. Một số tác giả chỉ nhấn mạnh các hoang tưởng paranoia mà quên đi các hoang tưởng paranoid do rượu. Có tác giả lại quá mở rộng đưa vào hoang tưởng do rượu cả sảng rượu và say rượu bệnh lý.

Các tác giả Anh – Pháp quan niệm hoang tưởng, ảo giác là những biến chứng của nghiện rượu nghiện rượu mãn tính nên chỉ chú ý nghiên cứu về nghiện rượu mà ít quan tâm tới hoang tưởng, ảo giác do rượu.

Một số tác giả Đức (Meyer E., 1904) lại coi hoang tưởng, ảo giác do rượu là những thể tâm thần phân liệt tiềm tàng có khởi phát muộn, về sau có một số ý kiến phản đối quan niệm này.

Một số tác giả nghiên cứu nhằm xác định sự khác nhau giữa hoang tưởng, ảo giác do rượu và tâm thần phân liệt.

Một số tác giả Nga (Sumski N. G) xếp hoang tưởng, ảo giác vào 2 trong số 4 thể cổ điển của loạn thần do rượu, mô tả kỹ hoang tưởng, ảo giác do rượu và đã chia hoang tưởng, ảo giác do rượu thành những thể nhỏ theo lâm sàng và tiến triển.

Gần đây theo bảng phân loại quốc tế lần thứ 10 (ICD.10) hoang tưởng và ảo giác do rượu là hậu quả của nhiễm độc rượu lâu dài, là biến chứng của nghiện rượu mãn tính.

Theo cách phân loại cổ điển thì ảo giác do rượu được chia ra ảo giác cấp, ảo giác kéo dài và ảo giác mãn tính. Ảo giác cấp tính là những ảo giác tồn tại từ vài ngày đến 1 tháng. Ảo giác kéo dài là những ảo giác tồn tại từ 1 đến 6 tháng. ảo mãn tính là những ảo giác tồn tại trên 6 tháng.

Hoang tưởng do rượu được chia ra paranoid do rượu và paranoia do rượu.

Paranoid do rượu gồm có các hoang tưởng khác nhau có thể cấp tính, có thể kéo dài. Paranoid do rượu chủ yếu nghiên cứu về hoang tưởng ghen tuông do rượu.

Trong ICD-10 hoang tưởng và ảo giác do rượu xếp vào mục rối loạn loạn thần do rượu, trong đó hoang tưởng chiếm ưu thế và ảo giác chiếm ưu thế.

Trong DSM- IV của Mỹ, hoang tưởng và ảo giác do rượu được xếp vào mục rối loạn loạn thần do rượu, trong đó ảo giác chiếm ưu thế và hoang tưởng chiếm ưu thế.

Đặc điểm lâm sàng của bệnh loạn thần do rượu

Bệnh loạn thần do rượu có đặc điểm lâm sàng đặc trưng, dễ dàng phân biệt với các chứng loạn thần khác.

1. Các yếu tố thúc đẩy đặc điểm lâm sàng bệnh loạn thần do rượu

  • Đa số các tác giả đều thừa nhận loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở lứa tuổi 30 – 40 tuổi (chiếm 61,3% số bệnh nhân).
  • Tỉ lệ nam/nữ có khác biệt (4:1). Theo nghiên cứu của Marozov G.V. Hoang tưởng do rượu chủ yếu gặp ở nam giới, còn ảo giác do rượu gặp ở nữ nhiều hơn ở nam. Ở nước ta hoang tưởng và ảo giác do rượu rất ít gặp ở nữ.
  • Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở những người nghiện rượu mãn tính sau 10 năm (chiếm 61,5% trường hợp), thường gặp ở những người có học vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định, thường ở trong hoàn cảnh gia đình có người thân nghiện rượu.

2. Đặc điểm khởi phát loạn thần do rượu

Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn tiền triệu ngắn với khí sắc hoang tưởng, ảo tưởng lời nói và lo âu.

Đa số tác giả cho rằng khởi phát cấp tính đạt đến đỉnh cao của bệnh trong khoảng vài giờ đến vài ngày (92,4% các trường hợp khởi phát cấp tính trong khoảng vài ngày).

3. Biểu hiện lâm sàng của loạn thần do rượu

a) Ảo giác: thường là những ảo giác thật, có thể có nhiều ảo giác trên một bệnh nhân, có thể có ảo thanh, ảo thị, ảo giác xúc giác, ảo khứu …

  • Ảo thanh hay gặp nhất ở bệnh nhân, ảo thanh phần lớn được phát triển trên nền tảng những rối loạn khác kèm theo, đôi khi ảo thanh xuất hiện vào ngày cuối cùng của cơn uống rượu. Ảo thanh thường xuất hiện vào chiều tối và lúc thiêm thiếp ngủ. Có thể là ảo thanh thô sơ hay ảo thanh lời nói.
  • Giọng nói có thể nói chuyện với bệnh nhân hay nói chuyện với nhau. Cường độ ảo thanh có thể là tiếng kêu hay tiếng thì thầm, giọng nói biến đổi nhưng thường có những chủ đề liên quan với nhau. ảo thanh nặng lên về chiều tối. Thoái triển đột ngột sau một giấc ngủ sâu hay giảm dần về cường độ và tần số, khi ảo thanh hết hẳn thì bệnh nhân phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.
  • Ảo thị cũng thường gặp sau ảo thanh, nội dung ảo thị thường phù hợp với nội dung ảo thanh và hoang tưởng. Khi ảo giác có sảng thì bệnh nhân thấy những côn trùng, động vật với kích thước thu nhỏ. Khi ảo giác kèm theo ý thức u ám bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường không hoàn chỉnh và mất tính thứ tự.
  • Ảo xúc ít gặp hơn ảo thanh và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị, bệnh nhân thấy những côn trùng bò trên da thịt, chuột gậm nhấm chân tay mình gây cảm giác khó chịu. Đôi khi ảo xúc là cảm giác những vật lạ trong miệng và họng.
  • Ảo khứu và ảo vị chỉ gặp ở 9% bệnh nhân loạn thần do rượu với ảo giác chiếm ưu thế.

b) Hoang tưởng:

Paranoia do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thoái hoá do rượu. Thoạt đầu những ý tưởng ghen tuông chỉ có trong khi say. Dần dần mới trở nên bền vững và xuất hiện cả những khi bệnh nhân không uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình không chung thuỷ. Bệnh nhân rình mò, tra khảo, bắt vợ phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định người yêu của vợ mình thường là người quen biết.

Sự phức tạp của loạn thần có thể diễn ra theo 2 hướng:

  • Hoang tưởng ghen tuông là chủ đề duy nhất không thay đổi.
  • Ý tưởng hoang tưởng còn có nội dung khác liên quan đến sự thiệt hại vật chất (vợ lấy tiền cho người yêu, đầu độc bệnh nhân để có tự do với người yêu). Một số tác giả nhận thấy hoang tưởng ghen tuông thường xuất hiện sau loạn thần do rượu cấp tính, ở tuổi trung niên. Một số thống kê nhận thấy hoang tưởng ghen tuông gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế.

Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng bị theo dõi, hoang tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thụ có tính hình tượng cao.

Hoang tưởng bị theo dõi chi phối mãnh liệt hành vi, cảm xúc của bệnh nhân.

Thường có ảo tưởng lời nói, ảo tưởng cảm xúc và ảo thanh với nội dung đe dọa.

Hành vi có tính xung động, nguy hiểm cho bản thân và xung quanh. Bệnh nhân bỏ chạy, phòng thủ, có khi tự sát. Trong những trường hợp kéo dài thì hành vi ít nguy hiểm hơn. ít thấy các hoang tưởng bị theo dõi, bị chi phối bằng vật lý như trong tâm thần phân liệt. Theo Soayka H., 1990 hoang tưởng bị theo dõi chiếm 32% bệnh nhân ảo giác do rượu.

Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang tưởng ghen tuông trong paranoid cấp do rượu. Theo thống kê của một số tác giả hoang tưởng bị hại chiếm 71% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng chiếm ưu thế. Hoang tưởng bị hại có tỉ lệ cao nhưng không đặc hiệu cho loạn thần do rượu.

Ngoài ra ở bệnh nhân loạn thần do rượu còn thấy một số hoang tưởng khác như hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng nghi bệnh… nhưng với tỉ lệ thấp.

Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh cảnh lâm sàng của loạn thần do rượu. Theo thống kê của Soayle M., 1990 chỉ có 13% bệnh nhân loạn thần do rượu có ảo giác đơn thuần.

c) Cảm xúc và hành vi:

Hoang tưởng và ảo giác do rượu thường chi phối mạnh mẽ hành vi, cảm xúc của bệnh nhân loạn thần do rượu ở những cơn cấp tính. Bệnh nhân lo âu, sợ hãi và căng thẳng cao độ, đôi lúc khoái cảm. Hành vi thường né tránh, chạy trốn hoặc phản ứng tấn công người xung quanh.

Trong những trường hợp kéo dài mãn tính cảm xúc của bệnh nhân thường bị ức chế, đôi khi trở nên cau có, giận dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặc sững sờ, cảm giác không lối thoát nhưng cũng có khi trở nên độc ác, thô bạo với người thân.

d) Các bệnh cơ thể phối hợp:

Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn thấy các bệnh cơ thể phối hợp như viêm lo t dạ dày, xơ gan, rối loạn huyết áp và thần kinh thực vật. Ngoài ra ở nhiều bệnh nhân có biểu hiện trạng thái suy kiệt do nhiễm độc rượu lâu ngày.

Chẩn đoán bệnh loạn thần do rượu

Để chẩn đoán bệnh loạn thần do rượu cần một số những dấu hiệu bệnh lý và phân biệt với một số bệnh lý khác.

1. Chẩn đoán xác định

Các hoang tưởng, ảo giác chiếm vị trí hàng đầu. Không chẩn đoán khi có một sự ngộ độc hoặc cai rượu phối hợp, không tính đến những ảo giác do sử dụng chất gây ảo giác.

Có bằng chứng hiển nhiên nghiện rượu là nguyên nhân liên quan đến bệnh.

Những biểu hiện sau cho phép nghĩ đến một loạn thần không do rượu: hoang tưởng, ảo giác có trước khi dùng rượu, những giai đoạn tái diễn không liên quan đến rượu.

Bệnh cảnh không diễn ra theo chiều hướng của một sảng tiến triển.

2. Chẩn đoán phân biệt

a. Với tâm thần phân liệt:

Về khởi phát hoang tưởng, ảo giác do rượu thường cấp tính, nhanh đi đến toàn phát trong khoảng vài giờ đến vài ngày. Còn trong tâm thần phân liệt khởi phát từ từ hơn, thường có giai đoạn ủ bệnh trước khi hoang tưởng, ảo giác phát triển rầm rộ.

Ảo giác do rượu thường là những ảo giác thật, ảo giác trong tâm thần phân liệt thường là những ảo giác giả có khi có ảo giác thật. Ảo thanh ra lệnh, bình phẩm đặc trưng trong tâm thần phân liệt ít thấy ở bệnh nhân loạn thần do rượu.

Hiện tượng bị động, bị chi phối hay tâm thần tự động đặc trưng cho tâm thần phân liệt ít thấy ở bệnh nhân loạn thần do rượu.

Phải xem xét tiền sử, bệnh sử, sự biến đổi nhân cách để có thể phân biệt tâm thần phân liệt và loạn thần do rượu.

b. Với sảng rượu:

Sảng rượu là một tình trạng cấp cứu, rối loạn toàn thân nặng nề hơn và có nhiều rối loạn chuyển hoá cơ thể, dễ dẫn đến tử vong.

Sảng rượu thường kèm theo rối loạn ý thức đặc thù. Sảng rượu thường gặp hiện tượng run còn gọi là sảng run.

Ảo giác trong sảng rượu thường gặp ảo thị, thấy những con vật kích thước thu nhỏ.

Điều trị bệnh loạn thần do rượu

Điều trị bệnh loạn thần do rượu cần tuân thủ đúng nguyên tắc điều trị theo từng giai đoạn bệnh.

1. Giai đoạn loạn thần

Việc điều trị nhằm làm mất trạng thái loạn thần và đề phòng các biến chứng.

Các thuốc an thần kinh: Một số tác giả khuyên nên sử dụng Halopéridol vì chúng không ảnh hưởng đến quá trình chuyển hoá thải trừ của rượu. Một số tác giả khuyên nên lựa chọn phối hợp an thần kinh tùy theo bệnh cảnh lâm sàng. Ở nước ta theo thống kê ban đầu 66,6% bệnh nhân loạn thần do rượu điều trị đơn thuần một loại an thần kinh chủ yếu là Halopéridol, 33,3% bệnh nhân điều trị phối hợp với các thuốc an thần kinh như Haloperidol, Tisercin, Aminazin …

Các thuốc bình thần: thường sử dụng Diazepam (Seduxen) để giải lo âu với liều lượng trung bình.

Các thuốc chống trầm cảm: thường sử dụng thuốc chống trầm cảm ba vòng như Amitriptilin, hoặc các thuốc chống trầm cảm mới như Stablon, Prozax… với liều thấp hoặc trung bình.

Liệu pháp Vitamin: nghiện rượu lâu thường dẫn đến thiếu Vitamin B1, giảm giữ trữ glucoza gây ra tình trạng suy kiệt. Dùng Vitamin B1 liều cao khắc phục được tình trạng này, phòng ngừa tiến triển xấu dẫn đến các bệnh não do rượu.

Liệu pháp tâm lý: nhằm mục đích thiết lập các mối quan hệ tin cậy, thông cảm với bệnh nhân, làm cơ sở cho việc điều trị tiếp theo.

2. Giai đoạn sau loạn thần

Phục hồi chức năng tâm lý xã hội để chống tái nghiện, giúp bệnh nhân tái hoà nhập với gia đình và cộng đồng. Phối hợp tâm lí, quản lí, lao động nghề nghiệp để có thể chuyển đổi hành vi của bệnh nhân theo chiều hướng tốt.

Bài viết Bệnh loạn thần do rượu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-loan-than-do-ruou-3447/feed/ 0
Rối loạn lo âu – Bệnh lý đáng sợ đe dọa sức khỏe tâm thần https://benh.vn/roi-loan-lo-au-2759/ https://benh.vn/roi-loan-lo-au-2759/#respond Sun, 14 Jun 2020 04:20:24 +0000 http://benh2.vn/roi-loan-lo-au-2759/ Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên (bình thường) của con người trước những khó khăn và các mối đe doạ của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt qua, tồn tại, vươn tới.

Bài viết Rối loạn lo âu – Bệnh lý đáng sợ đe dọa sức khỏe tâm thần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên (bình thường) của con người trước những khó khăn và các mối đe doạ của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt qua, tồn tại, vươn tới.

benh-roi-loan-lo-au

Rối loạn lo âu là gì?

  • Lo âu là một tín hiệu báo động, báo trước một nguy hiểm sắp xảy đến, cho phép con người sử dụng mọi biện pháp để đương đầu với sự đe doạ.
  • Lo âu bệnh lý là lo âu quá mức hoặc dai dẳng không tương xứng với sự đe doạ được cảm thấy, ảnh hưởng đến hoạt động của người bệnh, có thể kèm theo những ý nghĩ hay hành động có vẻ như quá mức hay vô lý.
  • Lo âu có thể là biểu hiện hay gặp của nhiều rối loạn tâm thần và cơ thể.

Trước một bệnh nhân lo âu cần xác định:

  • Lo âu bình thường hay bệnh lý.
  • Nếu là bệnh lý cần xác định lo âu nguyên phát hay thứ phát (do một bệnh tâm thần hoặc cơ thể khác).

Biểu hiện của bệnh Rối loạn lo âu

Triệu chứng cơ bản của rối loạn lo âu

là lo âu, hoảng sợ, thường phát sinh cấp, thời gian diễn biến bệnh kéo dài nhiều ngày nhiều tuần, có khi xuất hiện những cơn hoảng sợ cấp, lặp đi lặp lại.

Phân biệt lo âu bệnh lý với lo âu ở người bình thường

Bệnh lý rối loạn lo âu

  • Chủ đề: Không có chủ đề rõ ràng mang tính chất vô lý, mơ hồ (lo lắng về tương lai…).
  • Thời gian: Kéo dài lặp đi lặp lại.
  • Triệu chứng: Nhiều rối loạn thần kinh thực vật (mạch nhanh, thở gấp, chóng mặt, khô miệng, vã mồ hôi, lạnh chân tay, run rẩy, bất an…).

Lo âu bình thường

  • Chủ đề: Lo lắng có chủ đề, nội dung rõ ràng như ốm đau, công ăn việc làm…
  • Thời gian: Nhất thời khi có các sự kiện trong đời sống tác động đến tâm lý của chủ thể. Hết lo âu khi mất các tác động này.
  • Triệu chứng: Không có hoặc có rất ít rối loạn thần kinh thực vật.

Phân biệt lo âu bệnh lý với ám ảnh sợ

  • Lo âu bệnh lý: Không có chủ đề rõ ràng. Bệnh nhân (BN) thường than vãn, lo sợ chờ đợi một điều gì đó xảy ra với mình mà không biết rõ, kèm theo các rối loạn thần kinh thực vật. Không có hành vi né tránh.
  • Ám ảnh sợ: Thường khu trú vào đối tượng, tình huống xác định. Biết vô lý nhưng vẫn sợ, ám ảnh sợ có nội dung vô lý: Sợ đám đông, sợ ở nhà một mình, sợ chỗ rộng, sợ dị hình, sợ chỗ cao, sợ vật nhọn…. Có hành vi né tránh.

Cơn lo âu

Những biểu hiện cơ thể: luôn được BN quan tâm nhất

  • Hô hấp: Khó thở đa dạng như nghẹt thở, ho, nấc, ngáp rối loạn phát âm hoặc mất tiếng.
  • Tim mạch: Đánh trống ngực, mạch nhanh, rối loạn nhịp, đau vùng trước tim được mô tả như nóng bỏng, phồng lên, đau nhói hoặc bóp chặt lại, lan truyền đa dạng, đau thắt ngực, cơn co thắt mạch hoặc xung huyết (khi thì ở khắp nơi trong cơ thể, khi thì khu trú trú ở mặt, chi và ngón tay) thường kèm theo với rối loạn cảm giác.
  • Tiêu hoá: Co thắt thanh quản, thực quản, co thắt dạ dày và ruột kèm đau nhói hoặc co thắt, nôn, buồn nôn, ỉa chảy, mót dặn, ứa nước bọt hoặc khô miệng…
  • Tiết niệu: Đái dắt, đái nhiều…
  • Thần kinh-Cơ: run, rung mặt, đặc biệt rung mí mắt và cơn đau giả thấp khớp.
  • Cảm giác, giác quan và da: Tăng và loạn cảm giác, cơn ngứa, sởn da gà, tiết nhiều mồ hôi, đau nhói, nghe kém, nhìn mờ, đau đầu, chóng mặt, sợ chỗ rộng, đôi khi có triệu chứng không đứng không đi.

Các triệu chứng tâm thần

Nhiều tác giả phân biệt sợ với lo âu và chỉ ra mối liên quan giữa lo âu và chóng mặt. 3 thành phần cơ bản của trạng thái cảm xúc này:

  • Cảm giác bi quan không thực tế, đối với chủ thể điều này đến như là từ bi kịch nội tâm, xung đột vô thức.
  • Chờ đợi sự nguy hiểm: Lo lắng, lúng túng, nghi ngờ, lo sợ về quá khứ (sự luyến tiếc, ân hận), về hiện tại (nghi ngờ), về tương lai (đe doạ, linh cảm).
  • Hoảng loạn.

Trạng thái lo âu thường xuyên

Khi lo âu trở nên một tình trạng mãn tính.

Rối loạn tâm thần

Ít hơn so với cơn lo âu, nhưng các cảm giác giống nhau: Chờ đợi nguy hiểm, tri giác âm tính các sự kiện và tương lai, cảm giác lo lắng nhẹ, lúng túng: “Nghĩ gì, làm gì, tin gì, tôi đã lãng phí cuộc đời tôi, tôi đã không thành công một cái gi cả, tôi không có khả năng, không cần thiết, kiệt sức, thất vọng”. Chủ đề lo âu là chủ đề về sự hèn kém, thiếu may mắn, yếu ớt, sợ, quay lại hoàn cảnh phụ thuộc thời bé, sự thoái lùi về những xúc động đầu tiên trước thế giới bên ngoài. Cái tôi, không đáp ứng được các kích thích của ngoại cảnh, được giải toả bởi hành vi kêu gọi sự giúp đỡ, tin tưởng và công kích, phụ thuộc và kích thích theo kiểu phản ứng trẻ con.

Rối loạn cơ thể

  • Rối loạn giấc ngủ: Khó ngủ, giấc ngủ không sâu (thường hay dậy, ác mộng), thức dậy 3 giờ sáng, là giờ của cực điểm lo âu buổi sáng, là một trong các triệu chứng thường gặp nhất. Hiếm hơn là ngủ nhiều, 12 giờ hoặc hơn mà không tạo ra sự nghỉ ngơi và yên tĩnh tốt. Vai trò của giấc ngủ đối với lo âu đã được biết đến từ lâu. Nó giúp cho khả năng đáp ứng với những kích thích của trạng thái thức.
  • Sự kích thích: tăng cảm xúc. Tác nhân kích thích chỉ gây cho người bình thường một biểu hiện cảm xúc thích hợp như cười, khóc, run, đỏ mặt, nắm chặt tay. Ở người lo âu, nó trở thành kích thích, rối loạn vận mạch, co thắt nội tạng, tức giận bệnh l{, thay đổi khí sắc. Các phản ứng quá mạnh trong mọi trường hợp. Hậu quả của các rối loạn này là mệt và kiệt sức với hai cực buổi sáng và buổi chiều.
  • Các rối loạn chức năng: Rất thường gặp: rối loạn gan, tiêu hoá, viêm đại tràng, rối loạn nước tiểu, co thắt, loạn cảm giác bản thể, các rối loạn tình dục như ham muốn tình dục giảm hoặc mất.

Khám lâm sàng và xét nghiệm

  • Tăng tương lực cơ và tăng phản xạ: Cơ co lại, khó giãn cơ, run nhẹ, nhanh, đa dạng. Các phản xạ gân, da, xương – quanh xương tăng.
  • Tim mạch: Thường ít, BN thường có đánh trống ngực và ngoại tâm thu. Ngay cả khi điện tâm đồ bình thường cũng thường thấy mạch nhanh, nhỏ, huyết áp thấp, chỉ số dao động mạch nhẹ.
  • Rối loạn mao mạch đa dạng, có thể có rối loạn tuần hoàn trung tâm (khuynh hướng giảm mỡ máu) hoặc ngoại biên (xanh tím đầu chi, bệnh Raynaud).
  • Hô hấp: Giảm khả năng hô hấp, hô hấp nhanh và nông ảnh hưởng đến sự đồng hoá tế bào.
  • Chức năng thực vật và nội tiết: Thường rối loạn nhẹ, đôi khi nặng nề, luôn thay đổi theo thời gian, có thể hồi phục, liên hợp với trạng thái tâm lý tạo nên các rối loạn này.

Bài viết Rối loạn lo âu – Bệnh lý đáng sợ đe dọa sức khỏe tâm thần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/roi-loan-lo-au-2759/feed/ 0
Trẻ em hoàn toàn có thể mắc các bệnh sau mà người lớn không nghĩ tới ( Phần I ) ! https://benh.vn/tre-em-hoan-toan-co-the-mac-cac-benh-sau-ma-nguoi-lon-khong-nghi-toi-phan-i-2-66194/ https://benh.vn/tre-em-hoan-toan-co-the-mac-cac-benh-sau-ma-nguoi-lon-khong-nghi-toi-phan-i-2-66194/#respond Tue, 06 Aug 2019 02:32:46 +0000 https://benh.vn/?p=66194  Bạn nghĩ rằng những bệnh này chỉ có những người lớn tuổi, thậm chí là người già mới có thể mắc phải ? Thế nhưng những căn bệnh sau đây hoàn toàn có thể xuất hiện ở trẻ em.

Bài viết Trẻ em hoàn toàn có thể mắc các bệnh sau mà người lớn không nghĩ tới ( Phần I ) ! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
 Bạn nghĩ rằng những bệnh này chỉ có những người lớn tuổi, thậm chí là người già mới có thể mắc phải ? Thế nhưng những căn bệnh sau đây hoàn toàn có thể xuất hiện ở trẻ em.

Sỏi thận

Khi một đứa trẻ nhận được những khối khoáng chất cứng này, thường là do bệnh hoặc do vấn đề trong đường tiết niệu. Đá cũng có thể hình thành nếu bé không uống đủ và nồng độ khoáng chất trong nước tiểu của bé quá cao. Một viên sỏi thận có thể rất đau đớn và có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng nếu nó chặn dòng nước tiểu. Những viên sỏi nhỏ thường tự đi qua, nhưng những viên sỏi có thể phải bị vỡ hoặc lấy ra

Bệnh rối loạn tâm thần

Một số rối loạn tâm thần thường được chẩn đoán ở thời thơ ấu, bao gồm ADHD và tự kỷ. Nhưng nhiều loại khác có thể bắt đầu khi bạn là một đứa trẻ, như trầm cảm, lo lắng và rối loạn ăn uống. Bác sĩ nhi khoa của bạn có thể giúp quyết định xem con bạn có nên đi khám bác sĩ chuyên khoa hay không

Đột quỵ

Đây là khi lưu lượng máu bị ngừng đến một phần của bộ não của bạn. Mặc dù nó phổ biến hơn nhiều ở người lớn tuổi, nhưng nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Ở trẻ em, nó thường gây ra bởi một vấn đề sức khỏe. Ví dụ, bệnh hồng cầu hình liềm có thể thu hẹp các động mạch trong não và khiến chúng dễ bị tắc nghẽn bởi cục máu đông. Các trường hợp khác, bao gồm rối loạn đông máu và các vấn đề trong tim hoặc mạch máu, có thể nâng cao cơ hội của trẻ. Trẻ em thường vượt qua cơn đột quỵ dễ dàng hơn người lớn

Viêm khớp

Các khớp xương cứng, đau thường đi kèm với sự hao mòn thông thường của lão hóa. Nhưng trẻ em cũng có thể có chúng. Chúng thường được gây ra bởi một vấn đề tự miễn, có nghĩa là sự tự vệ của cơ thể tấn công các mô khỏe mạnh và gây viêm. Nhưng béo phì cũng có thể khiến trẻ dễ bị viêm khớp và các vấn đề về khớp khác. Trọng lượng tăng thêm gây căng thẳng cho các khớp và có thể làm hỏng các tấm tăng trưởng giúp kiểm soát chiều dài và hình dạng xương của con bạn

Loãng xương

Việc mất khối lượng xương phổ biến ở phụ nữ lớn tuổi đôi khi có thể xuất hiện ở trẻ em. Nó có thể là tác dụng phụ của bệnh hoặc thuốc như steroid hoặc thuốc ung thư. Nó cũng có thể xảy ra nếu con bạn không nhận đủ canxi hoặc vitamin D, hoặc nếu bé không thể hoạt động thể chất. Trong trường hợp không có nguyên nhân rõ ràng, trẻ em có thể đơn giản phát triển ra khỏi nó. Một đứa trẻ bị loãng xương có thể bị đau khi đi lại, hoặc xương của nó có thể dễ gãy hơn

Bệnh tăng nhãn áp

Một số trẻ em được sinh ra với các vấn đề trong mắt khiến cho chất lỏng không điều tiết được ra. Điều đó gây ra sự tích tụ nguy hiểm của áp lực bên trong mắt. Bạn có thể nhận thấy em bé của bạn nhạy cảm với ánh sáng hoặc có một lượng nước mắt bất thường. Đôi mắt của cô ấy có thể mở to hoặc nhìn mờ . Bệnh tăng nhãn áp ở trẻ em được điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật để giữ cho dây thần kinh thị giác không bị tổn thương và bảo vệ thị lực của cô

Benh.vn ( TH webmd.com )

Bài viết Trẻ em hoàn toàn có thể mắc các bệnh sau mà người lớn không nghĩ tới ( Phần I ) ! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tre-em-hoan-toan-co-the-mac-cac-benh-sau-ma-nguoi-lon-khong-nghi-toi-phan-i-2-66194/feed/ 0
Bẻ khớp tay – triệu chứng của rối loạn thần kinh https://benh.vn/be-khop-tay-trieu-chung-cua-roi-loan-than-kinh-48588/ https://benh.vn/be-khop-tay-trieu-chung-cua-roi-loan-than-kinh-48588/#respond Wed, 24 Apr 2019 01:12:46 +0000 https://benh.vn/?p=48588 Nếu bẻ khớp thường xuyên, cấu trúc xương sẽ tự động thích nghi và màng khớp cùng các dây chằng bao quanh sẽ giãn ra, dẫn đến các vấn đề như hao mòn, thoái hóa và viêm mặt sụn khớp.

Bài viết Bẻ khớp tay – triệu chứng của rối loạn thần kinh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>

Nếu bẻ khớp thường xuyên, cấu trúc xương sẽ tự động thích nghi và màng khớp cùng các dây chằng bao quanh sẽ giãn ra, dẫn đến các vấn đề như hao mòn, thoái hóa và viêm mặt sụn khớp.

be-khop-ngon-tay

Bẻ khớp ngón tay, ngón chân là thói quen của nhiều người khi cảm thấy mỏi, tê cứng các ngón tay, hoặc sau khi làm một công việc nào đó lâu. Bẻ khớp khiến chúng ta thấy thoải mái, dễ chịu hơn nhưng việc làm này lại gây ảnh hưởng đến sức khỏe.

Viêm khớp

Mỗi khớp xương được cấu tạo bởi 2 mặt khớp, bao phủ bởi bao khớp và hệ thống dây chằng có chức năng bó và giữ vững các khớp. Khi bẻ đốt ngón tay, không giống như các co giãn linh hoạt thông thường, các khớp bị co giãn đột ngột nên phát ra tiếng kêu. Nếu quá ngưỡng giãn, bao khớp phải chịu một tác động rất lớn khiến dây chằng dễ bị giãn và rách.Viêm khớp

Thoái hóa khớp

Việc duy trì thói quen bẻ khớp ngón tay trong thời gian dài, bạn dễ bị đau nhức các khớp khi về già.

Trong sụn khớp có 2 % là tế bào sụn và không có khả năng hồi phục khi bị thương. Nắn, bẻ khớp sẽ làm sụn bào mòn, gai xương sẽ mọc ra, tác động đến mô xung quanh khớp gây ra hiện tượng sưng và đau ngón tay.

Càng lớn tuổi, gân, sụn, dây chằng kém linh động và dễ tổn thương hơn nên việc vặn bẻ khớp sẽ làm tốc độ thoái hóa khớp diễn ra nhanh hơn.

Hao mòn mặt khớp

Nếu bẻ đốt tay trong thời gian dài, sự cọ xát và áp lực lên mặt khớp cao hơn khiến hao mòn mặt khớp, nghiêm trọng hơn là nguy cơ thoái hóa và viêm mặt sụn khớp. Mỗi lần bẻ nắn khớp là một lần gây vi chấn thương đến khớp và kéo theo tế bào sụn sẽ bị vi chấn thương. Nếu các vi chấn thương trên cùng một ổ khớp tích tụ nhiều, lâu dầu sẽ hao hụt chất sụn.

Rối loạn thần kinh

Bẻ khớp ngón tay là dấu hiệu tâm lý chưa ổn định nếu làm quá thường xuyên.Còn là dấu hiệu rối loạn thần kinh tùy vào mức độ nghiêm trọng và thời gian

Xem video để cập nhật thêm các thông tin khác

Bài viết Bẻ khớp tay – triệu chứng của rối loạn thần kinh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/be-khop-tay-trieu-chung-cua-roi-loan-than-kinh-48588/feed/ 0
Vai trò bất ngờ của hệ vi sinh vật đường ruột trong bệnh tâm thần phân liệt https://benh.vn/vai-tro-bat-ngo-cua-he-vi-sinh-vat-duong-ruot-trong-benh-tam-than-phan-liet-59479/ https://benh.vn/vai-tro-bat-ngo-cua-he-vi-sinh-vat-duong-ruot-trong-benh-tam-than-phan-liet-59479/#respond Mon, 25 Mar 2019 15:21:25 +0000 https://benh.vn/?p=59479 Nghiên cứu mới đây về bệnh tâm thần phân liệt đã cung cấp thêm bằng chứng rằng: hệ vi sinh vật đường ruột, và các chất chúng sản sinh ra có thể ảnh hưởng tới sức khỏe tâm thần ở con người.

Bài viết Vai trò bất ngờ của hệ vi sinh vật đường ruột trong bệnh tâm thần phân liệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nghiên cứu mới đây về bệnh tâm thần phân liệt đã cung cấp thêm bằng chứng rằng: hệ vi sinh vật đường ruột, và các chất chúng sản sinh ra có thể ảnh hưởng tới sức khỏe tâm thần ở con người.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Sciences Advances do các nhà khoa học từ Đại học Y Trùng Khánh và Đại học Tôn Trung Sơn, Trung Quốc, Đại học Y ngoại ô SUNY, và nhiều trường khác phối hợp thực hiện. Họ đã dùng phương pháp khảo sát vùng gen 16S ARN để so sánh cấu trúc hệ vi sinh vật đường ruột ở hàng loạt bệnh nhân tâm thần phân liệt đã hoặc không dùng thuốc điều trị, cũng như ở các tình nguyện viên khỏe mạnh làm đối chứng.

Nhìn chung, kết quả cho thấy hệ vi sinh vật đường ruột ở những người bị tâm thần phân liệt kém đa dạng và có một số thay đổi so với hệ vi sinh vật đường ruột ở những người khỏe mạnh. Nhóm nghiên cứu đã thu hẹp nghiên cứu trên một số taxa vi khuẩn nhất định có liên quan rõ rệt tới bệnh tâm thần phân liệt và mức độ trầm trọng của các triệu chứng tâm thần phân liệt. Họ cũng đánh giá sâu hơn kết quả bằng cách đo các chỉ số về hệ thần kinh trung ương và chất chuyển hóa ngoại vi, cũng như giải trình tự metagenomics vi khuẩn đường ruột ở chuột vô khuẩn đã được cấy phân của bệnh nhân tâm thần phân liệt.

Trước đó, nhiều nghiên cứu cũng đã nhắc đến việc hệ vi sinh vật đường ruột và trục não – ruột – hệ vi sinh vật có thể liên quan tới những tình trạng như lo âu, rối loạn trí nhớ và nhận thức. Trong nghiên cứu này, các tác giả Bành Tấn, Hồng Ngụy và Julio Licinio viết: “Những kết quả thu được gợi ý rằng chỉ riêng hệ vi sinh vật đã có khả năng thay đổi chức năng và phản ứng hóa học trên não, và từ đó có thể dẫn tới bệnh tâm thần phân liệt.”

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật khảo sát vùng gen 16S V3 và V4 rARN của Illumina để xác định các thành phần vi khuẩn ruột ở mẫu phân tươi đông lạnh của 58 bệnh nhân. Các bệnh nhân này đã được điều trị bằng thuốc chống loạn thần nhưng vẫn còn triệu chứng bệnh. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành kỹ thuật này trên mẫu phân của 5 người bệnh tâm thần phân liệt nhưng không dùng thuốc và 69 người khỏe mạnh làm đối chứng.

Trong số 864 đơn vị phân loài (OTUs) được định danh, nhóm nghiên cứu thấy rằng 56 đơn vị phân loài độc chiếm trong đường ruột các bệnh nhân tâm thần phân liệt, trong khi 64 đơn vị phân loài khác gần như chỉ có ở những người khỏe mạnh đối chứng. Ở các bệnh nhân tâm thần phân liệt, họ vi khuẩn Veillonellaceae, Prevotellaceae, Bacteroidaceae, và Coriobacteriaceae có xu hướng phát triển mạnh hơn, nhưng đa dạng alpha và mức độ dồi dào của vi khuẩn nhìn chung lại bị giảm xuống.

Trong một loạt thí nghiệm tiếp theo, nhóm nghiên cứu tập trung vào các vi khuẩn có sự khác biệt giữa người bị tâm thần phân liệt và người khỏe mạnh, định danh các vi khuẩn liên quan tới mức độ nghiêm trong của các triệu chứng bệnh, và chứng minh vi khuẩn đường ruột từ bệnh nhân tâm thần phân liệt có thể gây ra trên chuột những thay đổi về hành vi, thay đổi trên vùng hồi hải mã, công thức máu và các chất chuyển hóa trong phân.

Những phát hiện về chuyển hóa và gen trong những con chuột này cho thấy: sự thay đổi về hệ vi sinh vật đường ruột có thể liên quan tới sinh lý bệnh của bệnh tâm thần phân luật thông qua con đường chuyển hóa amino acid và lipid (não – ruột – hệ vi sinh vật).

Các nhà khoa học sẽ tiếp tục tiến hành những dự án mới để tìm hiểu sâu thêm về mối liên hệ não – ruột – hệ vi sinh vật trong căn bệnh tâm thần phân liệt này, và hứa hẹn mở ra những phương án điều trị tích cực trong tương lai.

Bài viết Vai trò bất ngờ của hệ vi sinh vật đường ruột trong bệnh tâm thần phân liệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/vai-tro-bat-ngo-cua-he-vi-sinh-vat-duong-ruot-trong-benh-tam-than-phan-liet-59479/feed/ 0
Gia tăng tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở thanh thiếu niên Việt Nam https://benh.vn/gia-tang-tinh-trang-roi-loan-suc-khoe-tam-than-o-thanh-thieu-nien-viet-nam-10073/ https://benh.vn/gia-tang-tinh-trang-roi-loan-suc-khoe-tam-than-o-thanh-thieu-nien-viet-nam-10073/#respond Sun, 06 Jan 2019 00:28:20 +0000 http://benh2.vn/gia-tang-tinh-trang-roi-loan-suc-khoe-tam-than-o-thanh-thieu-nien-viet-nam-10073/ Sinh con ra ai cũng muốn con khỏe mạnh, ngoan ngoãn, học giỏi. Tuy nhiên nghiên cứu sức khỏe tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam thời gian vừa qua cho thấy đang xuất hiện rất nhiều vấn đề về tâm sinh lý dẫn đến những hậu quả đau lòng...

Bài viết Gia tăng tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở thanh thiếu niên Việt Nam đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Sinh con ra ai cũng muốn con khỏe mạnh, ngoan ngoãn, học giỏi. Tuy nhiên nghiên cứu sức khỏe tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam thời gian vừa qua cho thấy đang xuất hiện rất nhiều vấn đề về tâm sinh lý dẫn đến những hậu quả đau lòng…

Những sự việc đau lòng

Những sự việc đau lòng xảy ra trong thời gian qua như một nữ sinh lớp 11 ở Hà Nội vừa nhảy từ tầng 25 xuống đất, một em học sinh lớp 10 cũng đã tự tử ngay trong khuôn viên Trường THPT Hòn Gai, tỉnh Quảng Ninh đã khiến cho dư luận xã hội đặt câu hỏi nguyên nhân sâu xa nào khiến các em có thể tự kết liễu cuộc đời mình và xót xa, lo lắng về sức khỏe tâm thần của các em.

tự tử bằng thuốc

Nghiên cứu mới về sức khỏe tâm thần của trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam được thực hiện bởi Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, Bộ LĐ-TB&XH và Viện nghiên cứu phát triển Hải ngoại đã cảnh báo: sức khỏe tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên nước ta đang xuất hiện rất nhiều vấn đề và nếu không được quan tâm đích đáng, những hậu quả nghiêm trọng sẽ tiếp diễn.

Những con số biết nói

Nghiên cứu mới cho thấy tỷ lệ trẻ em và vị thành niên Việt Nam bị mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần chung là từ 8 đến 29%; tỷ lệ tự tử ở trẻ vị thành niên là 2,3%. Vấn đề sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội ở trẻ em và vị thành niên đang lan rộng và gia tăng.

Yếu tố nguy cơ tiềm tàng dẫn đến các vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ em được chỉ ra gồm: Một là kỳ vọng và áp lực lớn từ gia đình và nhà trường về học tập; Hai là việc tăng tiếp xúc với Internet. Cùng với đó, những tác động của hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội đã khiến lứa tuổi vị thành niên xuất hiện rất nhiều những vấn đề tâm lý bất thường.

Cụ thể, tổng đài tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567 tiếp nhận các cuộc gọi từ các trẻ em và vị thành niên đã phân loại tới 23 vấn đề khác nhau, từ quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, những vấn đề về nhà trường, các vấn đề giới tính, tình dục. Nhiều em gọi đến trong tình trạng gần như tuyệt vọng.

Trước trách nhiệm lớn lao đối với thế hệ trẻ, các cơ quan ban ngành của nhà nước đã và đang xây dựng hệ thống hỗ trợ tâm lý trẻ em như các đường dây nóng, cán bộ trợ giúp ở cấp phường, xã. Cuối cùng hơn hết, cha mẹ, thầy cô, phải làm tròn trách nhiệm của mình trong việc quan tâm, chăm sóc các em. Có như vậy mới giảm bớt tình trạng bất ổn về sức khỏe tâm thần của trẻ, đang ở mức báo động như hiện nay.

Benh.vn (Theo vtv.vn)

Bài viết Gia tăng tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở thanh thiếu niên Việt Nam đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/gia-tang-tinh-trang-roi-loan-suc-khoe-tam-than-o-thanh-thieu-nien-viet-nam-10073/feed/ 0
Bệnh rối loạn cơ thể hóa https://benh.vn/benh-roi-loan-co-the-hoa-5088/ https://benh.vn/benh-roi-loan-co-the-hoa-5088/#respond Thu, 11 Oct 2018 05:16:43 +0000 http://benh2.vn/benh-roi-loan-co-the-hoa-5088/ Rối loạn cơ thể hoá là rối loạn được biểu hiện chủ yếu bằng các triệu chứng cơ thể (ban đầu là các triệu chứng chức năng, nếu kéo dài có thể có cả các triệu chứng thực tổn). Các triệu chứng này rất đa dạng, thường xuyên biến đổi ít nhiều chịu tác động của các yếu tố căng thẳng tâm lý. Bệnh nhân luôn tin là mình mắc một bệnh cơ thể thực sự mặc dù đi khám bệnh và làm xét nghiệm nhiều lần đã cho kết quả âm tính.

Bài viết Bệnh rối loạn cơ thể hóa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Rối loạn cơ thể hóa là rối loạn được biểu hiện chủ yếu bằng các triệu chứng cơ thể (ban đầu là các triệu chứng chức năng, nếu kéo dài có thể có cả các triệu chứng thực tổn). Các triệu chứng này rất đa dạng, thường xuyên biến đổi ít nhiều chịu tác động của các yếu tố căng thẳng tâm lý. Bệnh nhân luôn tin là mình mắc một bệnh cơ thể thực sự mặc dù đi khám bệnh và làm xét nghiệm nhiều lần đã cho kết quả âm tính.

Tỉ lệ hiện mắc của rối loạn cơ thể hóa là 0,2-2% ở nữ giới và 0,2% của nam giới.

Đặc điểm lâm sàng bệnh rối loạn cơ thể hóa

– Các triệu chứng cơ thể rất da dạng, phong phú; cũng có thể chỉ tập trung vào một hoặc hai cơ quan, bộ phận như: tiêu hóa, tim mạch, hô hấp, thần kinh thực vật v.v…

– Nét chính là các triệu chứng cơ thể luôn thay đổi, tái diễn. Những triệu chứng phổ biến nhất là những cảm giác ở dạ dạy – ruột (đau, ói, ợ, nôn, buồn nôn v.v…), cảm giác da khác (ngứa, cháy bỏng, tê cóng, đau đớn v.v…). Các phàn nàn về tình dục và kinh nguyệt cũng thường gặp.

– Trầm cảm và lo âu thường có; tiến triển của rối loạn là mạn tính và giao động.

– Rối loạn phổ biến ở nữ nhiều hơn nam, và thường bắt đầu sớm ở tuổi thành niên.

– Người bệnh thường xuyên đi khám bệnh, từ chuyên khoa này đến chuyên khoa khác mặc dù các xét nghiệm đều âm tính và các thầy thuốc đã giải thích nhiều lần là không có bệnh cơ thể.

– Nếu có bất kỳ rối loạn cơ thể nào, thì chúng cũng không giải thích được bản chất và phạm vi của các triệu chứng hoặc sự khó chịu và bận tâm của bệnh nhân. Bệnh nhân thường chống lại những cố gắng muốn thảo luận về khả năng có nguyên nhân tâm lý.

– Trong các rối loạn này, thường có hành vi gợi sự chú ý, đặc biệt có những bệnh nhân tức giận vì không thuyết phục được bác sĩ tin rằng bản chất bệnh mình là bệnh cơ thể và cần được khám xét thêm.

– Một số bệnh nhân quan tâm đến việc điều trị để làm giảm nhẹ các triệu chứng, nhưng số khác lại lo mình bị mắc một bệnh cơ thể, thường là nặng, khó chữa nằm bên dưới các triệu chứng hiện có.

Chẩn đoán bệnh rối loạn cơ thể hóa

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

Chẩn đoán xác định đòi hỏi: Phải có 6 trong các triệu chứng sau và các triệu chứng phải luôn thay đổi, xảy ra trong ít nhất 02 nhóm:

– Các triệu chứng tiêu hóa:

  • Đau bụng
  • Buồn nôn, nôn hoặc trào ngược thức ăn.
  • Cảm giác đầy bụng hoặc chướng hơi hay trung tiện.
  • Có vị khó chịu trong miệng hoặc lưỡi bẩn.

– Các triệu chứng tim mạch:

  • Khó thở khi không gắng sức.
  • Đau vùng ngực

– Các triệu chứng tiết niệu sinh dục.

  • Rối loạn tiểu tiện hoặc phàn nàn vì hay đi tiểu.
  • Có cảm giác khó chịu trong hoặc xung quanh vùng sinh dục.
  • Phàn nàn vì ra dịch âm đạo bất thường.

– Các triệu chứng trên da và cơ khớp

  • Rối loạn sắc tố hoặc nhiễm trùng trên da.
  • Đau ở các chi, các đầu ngón tay và chân hoặc các khớp.
  • Cảm giác kim châm hoặc tê rất khó chịu trên da.

Ít nhất 2 năm phàn nàn về những triệu chứng cơ thể nêu trên mà không tìm thấy một giải thích thoả đáng nào về mặt cơ thể (bất kỳ một rối loạn cơ thể nào tính cho đến thời điểm hiện tại cũng không thể giải thích được mức độ trầm trọng, phạm vi, sự đa dạng và tính dai dẳng của các triệu chứng cơ thể). Nếu xuất hiện một số triệu chứng rõ ràng do kích thích thần kinh thực vật, thì chúng không phải là đặc trưng chính và chúng cũng không tồn tại dai dẳng hoặc làm bệnh nhân suy sụp.

Các triệu chứng đó gây ra sự khó chịu dai dẳng và dẫn đến bệnh nhân phải đi khám nhiều lần (3 lần trở lên) hoặc tự ý dùng thuốc dai dẳng, bệnh nhân thường được những nhân viên chăm sóc sức khoẻ hoặc do bác sĩ chuyên khoa chỉ định làm một loạt xét nghiệm.

rối loạn cơ thể hóa

Từ chối dai dẳng sự đảm bảo của y học rằng không có nguyên nhân về mặt cơ thể nào phù hợp với các triệu chứng cơ thể đó.

Cận lâm sàng

Các xét nghiệm loại trừ các bệnh cơ thể bên dưới tương ứng với các triệu chứng đều âm tính.

Chẩn đoán phân biệt

Cần chẩn đoán phân biệt rối loạn cơ thể hóa với các rối loạn:

Các rối loạn cơ thể: các bệnh lý nội khoa như xơ cứng rải rác, nhược cơ, lupus ban đỏ, AIDS, cường giáp trạng, cường đối giao cảm v.v… cần phải khám lâm sàng và làm xét nghiệm để loại trừ. Nếu bệnh khởi phát ở bệnh nhân trên 40 tuổi, trước tiên phải nghĩ đến nguyên nhân thực thể.

Các rối loạn lo âu và trầm cảm: trong rối loạn lo âu và trầm cảm thì lo âu và trầm cảm đủ rõ rệt và dai dẳng và còn kèm theo các triệu chứng khác của lo âu và trầm cảm. Điều trị bằng các thuốc giải lo âu và thuốc chống trầm cảm bệnh thuyên giảm rõ rệt.

Rối loạn nghi bệnh: các triệu chứng thường chỉ tập trung vào một số hệ thống cơ quan nội tạng, bệnh nhân chỉ bận tâm vào một số rối loạn cơ thể và tin vào khả năng bị một bệnh cơ thể nằm bên dưới các triệu chứng. Trong khi đó sợ uống thuốc và tác dụng phụ của thuốc và tìm kiếm sự trấn an bằng cách thường xuyên đến khám tại các thầy thuốc khác nhau.

Các rối loạn hoang tưởng: các hoang tưởng về cơ thể trong tâm thần phân liệt, hoang tưởng nghi bệnh trong các rối loạn trầm cảm có loạn thần v.v… thì các triệu chứng cơ thể ít có tính chất cố định hơn, tính chất lạ kỳ của những điều bệnh nhân tin là điển hình nhất của các rối loạn hoang tưởng.

Điều trị bệnh rối loạn cơ thể hóa

Nguyên tắc điều trị

Dành cho bệnh nhân một thời gian để họ kể bệnh một cách tường tận. Giải thích cho bệnh nhân về các cơ chế của bệnh. Thoả thuận một kế hoạch điều trị thống nhất với bệnh nhân và những người khác có liên quan.  An ủi bệnh nhân một cách hợp lý (ví dụ: đau bụng không có nghĩa là bị ung thư). Thảo luận về những stress tâm lý liên quan đến sự xuất hiện các triệu chứng. Khuyên bệnh nhân không chờ đến khi các triệu chứng mất hết rồi mới trở lại các hoạt động ngày thường.

Điều trị dược lý

– Thuốc chỉ có thể làm giảm nhẹ các triệu chứng. Các bệnh nhân rối loạn dạng cơ thể thường nhạy cảm với các tác dụng phụ.

– Các thuốc giải lo âu (Benzodiazepine) chỉ nên dùng cho các chỉ định đặc biệt cần đề phòng lạm dụng thuốc.

– Các thuốc chống trầm cảm: 3 vòng amitriptylin 25-50mg/ngày và các thuốc chống trầm cảm mới: sertraline 50mg/ngày, mirtazapine 30mg/ngày….

– Tránh dùng các thuốc giảm đau không cần thiết.

– Nếu bệnh nhân có cường giao cảm rõ rệt có thể dùng liều thấp thuốc chẹn bêta như propranolol 10-20mg. Trong các rối loạn cơ thể hóa mạn tính, đôi khi gợi ý dùng các thuốc chống loạn thần mới liều thấp dogmatil 50-100mg/ngày.

Liệu pháp tâm lý

Nhằm mục đích giúp bệnh nhân giải quyết các xung đột nội tâm hoặc tạo cảm giác thư thái, giúp kiểm soát các triệu chứng cũng như tình trạng lo âu.

– Liệu pháp thư giãn luyện tập có thể làm giảm nhẹ các triệu chứng liên quan đến sự căng thẳng.

– Liệu pháp tâm lý nhóm tạo ra những nâng đỡ và quan hệ xã hội cần thiết để giúp người bệnh vượt qua những khó khăn về tâm lý.

– Liệu pháp giải thích hợp lý: thảo luận với bệnh nhân về bản chất và căn nguyên gây bệnh, giúp được người bệnh nhận biết được các triệu chứng và từng bước loạn bỏ chúng, hướng dẫn họ cách ứng phó với một bệnh mạn tính và tuân thủ chế độ điều trị.

Tiên lượng bệnh

– Tiến triển phụ thuộc vào nhận biết sớm và điều trị kịp thời.

– Bệnh có thể diễn biến thành bệnh cơ thể tâm sinh

Phòng bệnh rối loạn cơ thể hóa

– Tăng cường sức khoẻ thể chất bằng tập luyện thể dục thể thao, tập dưỡng sinh, chế độ ăn hợp lý và đủ dinh dưỡng.

– Xây dựng lối sống lành mạnh, giảm thiểu các tình huống stress trong gia đình, cơ quan có ảnh hưởng đến cuộc sống khỏe.

– Tăng cường truyền thông giáo dục sức cho cộng đồng hiểu về bệnh tâm thần, nhất là các rối loạn dạng cơ thể để bệnh nhân và gia đình hiểu về bệnh và phối hợp điều trị tốt.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh rối loạn cơ thể hóa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-roi-loan-co-the-hoa-5088/feed/ 0