Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Sun, 24 Mar 2024 09:28:51 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Bài giảng siêu âm các nguyên lý siêu âm Doppler https://benh.vn/bai-giang-sieu-am-cac-nguyen-ly-sieu-am-doppler-6240/ https://benh.vn/bai-giang-sieu-am-cac-nguyen-ly-sieu-am-doppler-6240/#respond Mon, 04 Mar 2024 05:42:13 +0000 http://benh2.vn/bai-giang-sieu-am-cac-nguyen-ly-sieu-am-doppler-6240/ Năm 1842 Johan Christian Doppler nhà vật lý học người áo đã phát biểu hiệu ứng mang tên ông trong lĩnh vực ánh sáng, sau này các nhà vật lý đã chứng minh rằng hiệu ứng này còn xảy ra và đúng ở các môi trường vật chất dạng sóng khác như sóng Radio, sóng […]

Bài viết Bài giảng siêu âm các nguyên lý siêu âm Doppler đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Năm 1842 Johan Christian Doppler nhà vật lý học người áo đã phát biểu hiệu ứng mang tên ông trong lĩnh vực ánh sáng, sau này các nhà vật lý đã chứng minh rằng hiệu ứng này còn xảy ra và đúng ở các môi trường vật chất dạng sóng khác như sóng Radio, sóng âm thanh. Trong lĩnh vực sóng âm, nguyên lý của hiệu ứng Doppler được hiểu như sau: khi một chùm siêu âm được phát đi gặp một vật thì sẽ có hiện tượng phản hổi âm, tần số của chùm siêu âm phản hổi về sẽ thay đổi so với tần số của chùm phát đi nếu khoảng cách tương đối giữa nguổn phát và vật thay đổi: tần số tăng nếu khoảng cách giảm và ngược lại.

Af. Thay đổi tần số fo. Tần số phát xạ f: Tần số phản xạ V. Tốc độ vật di chuyển 0 Góc giữa chùm siêu âm và mạchmáu C. Tốc độ của siêu âm trong cơ thể (1540m/s)

Nguyên lý các kiểu siêu âm Doppler

Có 4 kiểu siêu âm Doppler: Doppler liên tục, Doppler xung, Doppler màu và Doppler năng lượng.

Nguyên lý của siêu âm Doppler liên tục

Đây là kiểu siêu âm Doppler đòi hỏi cấu trúc máy đơn giản nhất. Đầu dò của máy có chứa hai tinh thể gốm áp điện, một tinh thể có chức năng phát liên tục chùm sóng siêu âm và tinh thể kia có nhiệm vụ thu sóng phản hổi về. So sánh giữa tần số của chùm siêu âm phát và chùm siêu âm thu về là cơ sở để tính tốc độ di chuyển của vật. Trong cơ thể thì vật di chuyển để tạo nên tín hiệu Doppler chính là các tế bào máu di chuyển trong lòng mạch, trong đó chủ yếu là các hồng cầu. Tín hiệu Doppler có thể được biểu diễn dưới dạng âm thanh, đường ghi hoặc phổ.

Kiểu siêu âm Doppler liên tục có các ưu điểm như: cấu tạo của máy đơn giản, giá thành thấp, cho phép ghi được các dòng chảy có tốc độ cao, không có hiên tượng “aliasing”(cắt cụt đỉnh). Ngược lại, kiểu Doppler này có các nhược điểm như: không cho phép ghi chọn lọc ở môt vùng, máy ghi lại tất cả các tín hiệu dòng chảy mà chùm siêu âm đi qua.

Nguyên lý Doppler liên tục

1. Đầu dò

2. Mạch máu

fo. Tần số sóng phátTrong kiểu siêu âm Doppler xung thì chỉ có tín hiệu dòng chảy ở một vùng nhất định được ghi lại. Vị trí và thể tích vùng ghi tín hiệu Doppler (còn gọi là cửa ghi Doppler ) có thể thay đổi được. Vị trí cửa ghi Doppler được xác định bởi khoảng thời gian từ lúc phát đến lúc thu chùm siêu âm phản hồi về. Kích thước của cửa ghi Doppler phụ thuộc vào chiều rộng của chùm siêu âm và khoảng thời gian thu sóng phản hồi (t).

Sơ đồ của ghi Doppler

1. Đầu dò

2. Cửa ghi Doppler

T. Thời gian từ lúc phát tới lúc thu sóng phản hồi

t. Khoảng thời gian thu sóng phản hồi

Do vận tốc của của sóng âm trong cơ thể khá hằng định(1540cm/s) nên chiều sâu của vùng ghi tín hiệu Doppler – d (khoảng cách từ đầu dò tới vùng ghi tín hiệu) được xác định theo công thức

T là thời gian từ lúc phát đến lúc thu chùm siêu âm phản hồi

Chiều dài của cửa ghi Doppler được xác định bởi thời gian thu sóng phản hồi (1). Chiều rộng của cửa ghi Doppler phụ thuộc vào kích thước của chùm siêu âm.Tần số nhắc lại xung (pulse repetition frequency-PRF) là số lần trong một giây mà chùm siêu âm đi đến đích và quay về.

PRF được tính bằng kHz và thường được ghi là K để không nhầm với tần số Doppler (Af cũng được tính bằng kHz).

d. Chiều sâu của mạch máu C. Tốc độ của chùm siêu âm (1540m/s)PRF có ý nghĩa quan trọng trong kỹ thuật ghi phổ Doppler vì theo phương trình Shannon

Khi Af > PRF/2 thì có hiên tượng (aliasing), có nghĩa là đỉnh phổ Doppler bị cắt cụt và được ghi sang phía đối diên của đường 0.

Để tránh hiện tượng này có 4 biện pháp:

– Chuyển đường 0 xuống thấp, bỏ các tần số âm để làm tăng thêm các tần số dương trên đường 0

– Giảm Af bằng cách giảm tần số phát fo (chọn đầu dò có tần số thấp), hay tăng góc 0 để giảm Cos0 tuy nhiên góc 0 phải luôn < 600 để giảm sai số .

– Giảm độ sâu (d) bằng cách ép bệnh nhân để tăng PRF

– Sử dụng máy có tần số PRF cao.

Với tiến bộ của khoa học kỹ 30 thuật người ta đã chế tạo được các máy siêu âm Doppler có PRF cao bằng cách phát đi và thu về nhiều lần tín hiệu siêu âm trong thời gian chùm sóng âm đi tới vật và quay trở lại, nhưng không phải máy siêu âm Doppler nào cũng có khả năng này.Hiện nay các máy siêu âm xung có kỹ thuật nhắc lại tần số cao (gọi là HPRF- high pulse repetition frequency), tuy nhiên vẫn có giới hạn tối đa của HPRF, do vậy siêu âm Doppler xung chỉ cho phép đo được tốc độ cao nhất đinh.

So với kiểu siêu âm Doppler liên tục, kiểu Doppler xung có ưu điểm như: cho phép lựa chọn chính xác và thay đổi kích thước vùng cần ghi tín hiêu Doppler. Ngược lại kiểu siêu âm này cũng có môt số nhược điểm: hạn chế về tốc độ tối đa có thể đo được, hạn chế về độ sâu có thể thăm dò cũng như phụ thuộc nhiều vào góc 0.

Phân tích phổ

Tín hiệu Doppler (Doppler liên tục hay Doppler xung) được phân tích dưới dạng âm thanh, đường ghi hay dạng phổ.

Do tần số Doppler (Af) nằm trong khoảng nghe thấy của tai người nên chỉ cần dùng loa thông thường có thể nghe thấy tín hiệu Doppler, và chẩn đoán có thể dựa trên sự thay đổi âm sắc và cường độ âm thanh.

Trong kiểu thể hiện tín hiệu Doppler bằng đường ghi, người ta dùng kỹ thuật đếm số lần tín hiệu vượt trên đường 0 (zero crossing detector). Tín hiệu Doppler được tính chung như một giao động, máy cho phép tính được số lần (tần số) dao động này vượt qua đường 0. Đường ghi tốc độ không thể hiện giá trị lớn nhất, cũng không phải giá trị trung bình của dòng chảy, nó được ước tính ^VA f. Vì vậy đường cong ghi được không biểu hiện tốc đô tức thì của dòng chảy mà chỉ thể hiện tốc độ chung của các dòng chảy mà chùm siêu âm gặp phải trên đường đi.Phổ Doppler là kết quả của sự phân tích tín hiệu Doppler (Af) bằng phép biến đổi nhanh của Fourier( Fast Fourier Transform-FFT)

Hợp âm Sol, Si, Rê được nghe thấy được phân tích bằng FFT thành ba âm cơ bản.

Tần số Doppler (Af) thu được là sự kết hợp của nhiều tần số khác nhau (do trong môt dòng chảy có nhiều tốc đô khác nhau). Phép biến đổi FFT cho phép phân tích nhanh (trong 5 micro giây) môt tần số Doppler thành các tần số thành phần (hình trên) và thể hiên cường đô của mỗi tần số thành phần này bằng đô sáng trên đường ghi phổ Doppler (Doppler spectrum). Như vậy phổ Doppler được coi như đường ghi tín hiêu theo không gian ba chiều: trục thời gian, trục tần số (hay tốc đô) và trục thứ ba là trục cường đô (biểu hiên bằng đô sáng) của các tần số thành phần.

Đường cong biểu diễn phổ Doppler của đông mạch đã được lọc bớt các tín hiêu tần số thấp để loại bỏ các các hiêu ứng Doppler của thành mạch có tần số thấp nhưng cũng loại bỏ bớt các tần số thấp của dòng chảy sát thành mạch. Trên đông mạch bình thường thì các tần số Doppler cao nhiều hơn các tần số thấp cho nên tạo ra cửa sổ ít tín hiệu trong thì tâm thu.

Siêu âm Doppler xung kết hợp với siêu âm cắt lớp (hê thống Duplex)Thăm khám siêu âm Doppler dễ dàng nhờ gắn cùng hê thống siêu âm cắt lớp và hiện nay tất cả các máy siêu âm Doppler xung đều được cấu tạo như vậy. Nhờ có hệ thống siêu âm cắt lớp mà mạch máu được dễ dàng nhận thấy để đặt cửa sổ ghi Doppler cũng như dô rông của nó nhính xác phù hợp với kích thước của mạch cần thăm khám. PRF cũng có thể được tự động điều chỉnh hay điều chỉnh tuỳ theo ý muốn phù hợp với từng mạch máu cần thăm khám cũng như góc thăm khám 0 phù hợp. Hình phổ Doppler được biểu hiên trên màn hình đổng thời với hình 2D hay riêng biệt để dễ dàng phân tích.

Khoa Chẩn đoán hình ảnh BV Bạch Mai

Bài viết Bài giảng siêu âm các nguyên lý siêu âm Doppler đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/bai-giang-sieu-am-cac-nguyen-ly-sieu-am-doppler-6240/feed/ 0
Khám siêu âm như thế nào? Ưu điểm và hạn chế của siêu âm https://benh.vn/kham-sieu-am-nhu-the-nao-uu-diem-va-han-che-cua-sieu-am-3044/ https://benh.vn/kham-sieu-am-nhu-the-nao-uu-diem-va-han-che-cua-sieu-am-3044/#respond Sun, 27 Aug 2023 04:25:57 +0000 http://benh2.vn/kham-sieu-am-nhu-the-nao-uu-diem-va-han-che-cua-sieu-am-3044/ Siêu âm cung cấp hình ảnh theo thời gian thực nên trở thành một công cụ tốt để hướng dẫn cho các thủ thuật xâm lấn tối thiểu chẳng hạn như tiêm cortisone, sinh thiết bằng kim, dùng kim hút các dịch trong khớp hoặc ở những nơi khác trên cơ thể.

Bài viết Khám siêu âm như thế nào? Ưu điểm và hạn chế của siêu âm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Siêu âm là một phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh hiện đại không cần xâm lấn vào trong cơ thể. Sóng siêu âm sẽ cho hình ảnh rõ nét các bộ phận trong cơ thể, đặc biệt là khu vực ổ bụng, nhờ đó hỗ trợ bác sỹ chẩn đoán bênh tốt nhất.

Bước 1. Chuẩn bị bệnh nhân

Bạn nên mặc đồ thoải mái, quần áo rộng rãi khi đi khám siêu âm. Có thể bác sĩ sẽ yêu cầu bạn cởi bỏ một phần quần áo và trang sức nằm trong khu vực phải khám xét. Đối với một số thủ thuật bạn có thể được yêu cầu mặc áo choàng để cuộc khám thuận tiện hơn.

Những sự chuẩn bị khác tùy thuộc vào từng vào loại siêu âm. Đối với một số loại siêu âm, bác sĩ có thể yêu cầu bạn không ăn hoặc uống trong vòng 12 giờ trước khi khám. Đối với một số loại khác bạn sẽ được yêu cầu uống khoảng 5 ly nước trong vòng 2 giờ trước khi khám và nhịn đi tiểu để bàng quang chứa đầy nước khi khám.

Bước 2. Cách thực hiện một ca siêu âm

Trong hầu hết các cuộc khám siêu âm, bệnh nhân sẽ được yêu cầu nằm ngửa trên bàn khám.

Một chất gel trong suốt, vô trùng sẽ được bôi lên vùng cơ thể cần thăm khám để giúp đầu dò tiếp xúc toàn bộ với cơ thể và hạn chế không khí chen vào giữa đầu dò và da bệnh nhân. Sau đó bác sĩ siêu âm sẽ ấn đầu dò vào da bệnh nhân và quét nó về phía sau và ra trước trên những vùng cơ thể được khám.

sieu-am-o-bung

Siêu âm Doppler cũng được thực hiện trên cùng một loại đầu dò.

Khi quá trình khám kết thúc, bệnh nhân sẽ được yêu cầu mặc lại quần áo và có thể phải ngồi đợi bác sĩ nghiên cứu thêm hình ảnh siêu âm với các trường hợp khó.

Thông thường, các bác sĩ siêu âm có thể nghiên cứu các hình ảnh siêu âm ngay trong thời gian thực hiện và bệnh nhân có thể nhận kết quả ra về ngay sau đó.

Trong một số kiểu siêu âm, đầu dò sẽ được đưa vào các lỗ tự nhiên của cơ thể. Những khảo sát này bao gồm:

  • Siêu âm tim qua ngả thực quản: đầu dò sẽ được đưa vào thực quản để khảo sát hình ảnh của tim.
  • Siêu âm qua ngả trực tràng: đầu dò sẽ được đưa vào trực tràng của bệnh nhân nam để quan sát tiền liệt tuyến.
  • Siêu âm qua ngả âm đạo: đầu dò sẽ được đưa và âm đạo của bệnh nhân nữ để quan sát tử cung và buồng trứng. Cách khám này chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của bệnh nhân. Bệnh nhân đã có gia đình hoặc bệnh nhân đã quan hệ tình dục

Hầu hết những đợt khám siêu âm sẽ hoàn thành trong khoảng từ 10 phút đến 1 giờ.

Những gì bệnh nhân sẽ cảm thấy trong lúc siêu âm và sau khi siêu âm

  • Hầu hết các thủ thuật siêu âm đều không đau, nhanh chóng và dễ dàng.

Sau khi bạn nằm trên giường theo đúng tư thế, bác sĩ sẽ bôi một ít gel ấm lên da và đặt đầu dò lên cơ thể, di chuyển nó ra sau và ra trước trên khu vực được khám cho đến khi ghi nhận được hình ảnh mong muốn. Thường không có sự khó chịu nào khi bác sĩ ấn đầu dò lên vùng cơ thể được khám.

  • Nếu siêu âm ở khu vực nhạy cảm, bạn có thể cảm thấy áp lực hoặc bị đau nhẹ do đầu dò.

Những khảo sát siêu âm cần phải đưa đầu dò vào những lỗ tự nhiên của cơ thể có thể gây ra một chút khó chịu.

  • Nếu được siêu âm Doppler, bạn sẽ có thể thật sự nghe thấy những âm thanh như mạch đập thay đổi cao độ khi đầu dò đặt vào vị trí dòng máu đang được theo dõi và đo đạc.
  • Sau khi siêu âm, gel sẽ được lau sạch khỏi cơ thể bệnh nhân.
  • Sau khi siêu âm, bạn không bị ảnh hưởng gì và có thể quay trở lại những sinh hoạt hằng ngày của mình.

Ai sẽ phân tích kết quả siêu âm

Các bác sĩ thuộc chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh và thăm dò chức năng là những bác sĩ được đào tạo để quan sát và phân tích các khảo sát hình ảnh học, sẽ là người phân tích hình ảnh và gửi kết quả đến các bác sĩ trực tiếp điều trị cho bạn. Trong một số trường hợp, các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh sẽ thông báo kết quả với bạn khi kết thúc cuộc khám.

Những ích lợi và nguy cơ của siêu âm

Siêu âm có thể có cả các lợi ích và nguy cơ đối với sức khỏe mà người bệnh cần lưu ý tìm hiểu trước khi thực hiện.

Ích lợi

  • Hầu hết các phương pháp siêu âm đều không xâm lấn (không dùng kim cũng như không cần phải tiêm thuốc) và thường không gây đau.
  • Siêu âm được sử dụng rộng rãi, dễ dàng và ít tốn kém hơn những phương tiện hình ảnh khác.
  • Siêu âm không dùng tia xạ ion hóa
  • Siêu âm có thể cho thấy hình ảnh rõ ràng của các mô mềm vốn thể hiện không tốt trên hình X quang.
  • Siêu âm không gây ra những vấn đề nào về sức khỏe và có thể thực hiện lập đi lập lại ở mức độ cần thiết.
  • Siêu âm là phương pháp khảo sát hình ảnh ưa thích để chẩn đoán và theo dõi ở những phụ nữ mang thai và thai nhi.
  • Siêu âm cung cấp hình ảnh theo thời gian thực nên trở thành một công cụ tốt để hướng dẫn cho các thủ thuật xâm lấn tối thiểu chẳng hạn như tiêm cortisone, sinh thiết bằng kim, dùng kim hút các dịch trong khớp hoặc ở những nơi khác trên cơ thể.

Nguy cơ của siêu âm

  • Đối với siêu âm chẩn đoán cơ bản thì vẫn chưa tìm thấy những tác dụng có hại của nó trên con người.
  • Theo tạp chí siêu âm của Mỹ: Không có một hậu quả sinh học nào được xác định cho đến nay ảnh hưởng lên bệnh nhân và thai nhi từ việc sử dụng siêu âm chẩn đoán và hiệu quả của siêu âm mang lại cao hơn nhiều so với nguy cơ của nó… nếu có.

Những giới hạn của siêu âm chẩn đoán

Sóng siêu âm bị cản trở bởi hơi hoặc không khí, do đó siêu âm không phải là phương tiện chẩn đoán hình ảnh lý tưởng cho ruột (tạng rỗng) và những cơ quan bị ruột che khuất. Trong hầu hết các trường hợp, khảo sát với barium, CT scan, và MRI là những phương pháp được lựa chon ở tình huống này.

Sóng siêu âm không đi qua được không khí, do đó khảo sát dạ dày, ruột non và ruột già có thể bị giới hạn. Khí ở ruột non có thể ngăn không quan sát được những cấu trúc nằm sâu hơn như tụy và động mạch chủ. Những bệnh nhân có khổ người lớn siêu âm khó khăn hơn do các mô làm suy giảm (làm yếu đi) sóng âm khi nó đi sâu hơn vào cơ thể.

Sóng âm khó xuyên thấu được xương và do đó chỉ có thể nhìn thấy được mặt ngoài của các cấu trúc xương chứ không nhìn được những gì nằm bên trong. Để quan sát được những cấu trúc bên trong của xương và một số khớp, các bác sĩ thường dùng một phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác, chẳng hạn như MRI.

Bài viết Khám siêu âm như thế nào? Ưu điểm và hạn chế của siêu âm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/kham-sieu-am-nhu-the-nao-uu-diem-va-han-che-cua-sieu-am-3044/feed/ 0
Nguyên lý siêu âm Doppler màu trong siêu âm tổng quát https://benh.vn/nguyen-ly-sieu-am-doppler-mau-trong-sieu-am-tong-quat-6241/ https://benh.vn/nguyen-ly-sieu-am-doppler-mau-trong-sieu-am-tong-quat-6241/#respond Fri, 11 Aug 2023 05:42:14 +0000 http://benh2.vn/nguyen-ly-sieu-am-doppler-mau-trong-sieu-am-tong-quat-6241/ Người ta áp dụng nguyên lý siêu âm Doppler xung nhiều cửa (multigate pulse Doppler) để thu tín hiệu Doppler trên môt vùng trong môt mặt cắt. Tín hiệu từ các cửa ghi Doppler này được mã hoá dưới dạng màu và thể hiện chồng lên hình ảnh siêu âm hai chiều tạo thành hình Doppler màu còn được gọi là bản đổ màu của dòng chảy (Color Flơ Mapping- CFM)

Bài viết Nguyên lý siêu âm Doppler màu trong siêu âm tổng quát đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Người ta áp dụng nguyên lý siêu âm Doppler xung nhiều cửa (multigate pulse Doppler) để thu tín hiệu Doppler trên môt vùng trong môt mặt cắt. Tín hiệu từ các cửa ghi Doppler này được mã hoá dưới dạng màu và thể hiện chồng lên hình ảnh siêu âm hai chiều tạo thành hình Doppler màu còn được gọi là bản đổ màu của dòng chảy (Color Flơ Mapping- CFM)

Đường phát tín hiệu Cửa ghi Doppler

Việc mã hoá tốc độ dòng chảy trên siêu âm Doppler màu được thực hiện theo các nguyên tắc:

  • Các dòng chảy về phía đầu dò được thể hiện bằng màu đỏ, dòng chảy đi xa đầu dò được thể hiện bằng màu xanh. Có thể đảo ngược chiều qui ước này trên máy (dòng chảy về đầu dò chuyển thành màu xanh).
  • Dòng chảy có tốc độ càng lớn được thể hiện bằng màu càng sáng: ví dụ khi tốc đô dòng chảy càng tăng thì màu xanh thẵm chuyển thành màu xanh tươi, màu đỏ chuyển thành màu xanh lá cây và màu vàng thâm chí thành màu sáng (trắng).
  • Nếu tốc độ dòng chảy lớn sẽ có hiện tượng “aliasing” màu: chỗ tăng tốc biến thành màu đối lập nhưng phai nhạt; ví dụ như màu đỏ biến thành màu xanh nhạt.
  • Nếu có dòng rối (dòng chảy lôn xôn theo nhiều hướng với tốc đô khác nhau) thì có hình khảm màu: các ô đỏ, xanh, vàng nằm xen lẫn nhau không theo trật tự nào cả.

Ưu điểm của Siêu âm Doppler màu:

Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm: do có số ảnh/giây thấp, độ phân giải không gian kém, tốc độ thể hiện trên siêu âm Doppler màu không phải là tốc độ thực, nó chỉ có tính chất biểu thị chiều dòng chảy và thể hiện môt cách tương đối tốc độ dòng chảy.

Cho nên siêu âm Doppler màu cần phải giải quyết môt số khó khăn đó là:

  • Tín hiệu yếu nên cần có đầu dò có tần số Doppler thấp hơn tần số của siêu âm cắt lớp và chỉ môt số máy có chức năng tự động thay đổi tần số Doppler này.
  • Vì chỉ có môt đầu dò vừa cho các hình ảnh siêu âm cắt lớp (có hình ảnh rõ nét nhất khi giữa chùm sóng phát và vật là 900) và vừa cho hình ảnh Doppler màu (nó có hình ảnh rõ nét nhất khi góc giữa sóng âm và vật là 900), muốn giải quyết mâu thuẫn này môt số máy có đầu dò dẹt có mặt ngoài vát để tạo góc tốt cho siêu âm Doppler, môt số máy khác có thể thay đổi góc bằng phương pháp điện tử.
  • Phân tích trong thời gian thực rất nhiều các chỉ số, Hình ảnh siêu âm Doppler màu được tạo lên do nhiều đường phát tín hiệu (L) và trên mỗi đường này lại cần có nhiều xung (I) để có tín hiệu tốt, để đi hết chiều dài của đường phát cần có thời gian (T) và nó ngược lại với PRF ( PRF cao thì T giảm và ngược lại), với PRF là 5kHz thì T khoảng 200 microgiây. Số lượng ảnh thu được cho phép phân tích trong thời gian thực và nó phụ thuôc vào Tx I xL. Nếu L là 20 đường và I là 10 xung trên 1 đường và 200 microgiây cho mỗi đường phát thì mỗi hình ảnh sẽ mất 40 miligiây và ta có 25 ảnh /giây. Ngược lại nếu PRF thấp hơn, số xung và số đường phát nhiều hơn thì số ảnh sẽ ít hơn. Chính vì vậy mà trên siêu âm màu muốn có nhiều hình/giây thì cần phải giảm kích thước ảnh (giảm chiều sâu để tăng PRF, giảm chiều rông để giảm số lượng đường phát)

Do đó để có thể thực sự phân tích đầy đủ về hình thái và tính chất huyết động của mạch máu cần phải dựa trên sự kết hợp phân tích hình ảnh hai chiều, hình Doppler màu và phổ doppler. Máy siêu âm Doppler màu có cả 3 kiểu siêu âm này (hệ thống Triplex) tạo điều kiên thuận lợi cho thăm dò mạch máu.

Siêu âm Doppler năng lượng hay siêu âm Angio

Đo tín hiệu Doppler thấp nên tín hiêu Doppler (Af) được biến đổi mã hoá năng lượng. Hình ảnh này được gọi là siêu âm năng lượng hay siêu âm màu mã hoá năng lượng.

Hình ảnh mới này không còn là hình siêu âm Doppler màu nữa và có nhiều điểm khác so với siêu âm Doppler màu:

  • Không nhận biết được chiều của dòng chảy về phía đầu dò hay đi xa đầu dò.
  • Toàn bộ lòng mạch được lấp đầy các pixel màu vì Doppler năng lượng có độ nhạy gấp 3 lần Doppler màu và có hình ảnh chụp mạch trên siêu âm Doppler (Angio Doppler). Các mạch máu nhỏ cũng được nhiền thấy(các đông mạch liên thuỳ thận).
  • Hình ảnh chụp nhu mô có thể được thấy
  • Bằng siêu âm Doppler năng lượng có thể phát hiên tưới máu trong u, các mạch tân tạo tăng mạch trong viêm cũng có thể được phát hiên.
  • Không có hiên tượng “aliasing” màu, cũng như không còn phải phụ thuôc vào góc 0. Siêu âm Doppler năng lượng được ứng dụng chủ yếu trong thăm khám các mạch máu nhỏ và nhất là có tốc độ dòng chảy thấp mà siêu âm Doppler màu thông thường không đủ đô nhạy để phát hiện.

Bài viết Nguyên lý siêu âm Doppler màu trong siêu âm tổng quát đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nguyen-ly-sieu-am-doppler-mau-trong-sieu-am-tong-quat-6241/feed/ 0
Nguyên lý, cấu tạo máy siêu âm và các kiểu siêu âm https://benh.vn/sieu-am-la-gi-nguyen-ly-cau-tao-may-sieu-am-va-cac-kieu-sieu-am-3042/ https://benh.vn/sieu-am-la-gi-nguyen-ly-cau-tao-may-sieu-am-va-cac-kieu-sieu-am-3042/#respond Thu, 07 Jun 2018 04:25:55 +0000 http://benh2.vn/sieu-am-la-gi-nguyen-ly-cau-tao-may-sieu-am-va-cac-kieu-sieu-am-3042/ Siêu âm là một phương pháp khảo sát hình ảnh học bằng cách cho một phần của cơ thể tiếp xúc với sóng âm có tần số cao (siêu âm) để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể. Siêu âm không sử dụng các phóng xạ ion hóa (như X quang).

Bài viết Nguyên lý, cấu tạo máy siêu âm và các kiểu siêu âm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Siêu âm là một phương pháp khảo sát hình ảnh học bằng cách cho một phần của cơ thể tiếp xúc với sóng âm có tần số cao để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể. Siêu âm không sử dụng các phóng xạ ion hóa (như X quang). Do hình ảnh siêu âm được ghi nhận theo thời gian thực nên nó có thể cho thấy hình ảnh cấu trúc và sự chuyển động của các bộ phận bên trong cơ thể kể cả hình ảnh dòng máu đang chảy trong các mạch máu.

Siêu âm là một khảo sát y học không xâm lấn (không gây chảy máu) giúp cho các bác sĩ có thể chẩn đoán và điều trị bệnh.

sieu-am

Các kiểu siêu âm

  • Siêu âm quy ước tạo ra những hình ảnh các lát cắt mỏng và phẳng của cơ thể.
  • Những tiến bộ trong kỹ thuật siêu âm bao gồm siêu âm 3 chiều (3D) có khả năng tái tạo lại dữ liệu thu nhận được từ sóng âm thành hình ảnh 3 chiều.
  • Siêu âm 4 chiều (4D) là siêu âm 3 chiều có ghi nhận sự chuyển động.
  • Siêu âm Doppler cũng có thể là một phần của quá trình khám siêu âm. Đây là một kỹ thuật đặc biệt giúp đánh giá dòng máu chảy trong các mạch máu, bao gồm các động mạch và tĩnh mạch chính của cơ thể ở bụng, cánh tay, chân, và cổ.

Có 3 loại siêu âm Doppler:

  • Siêu âm Doppler màu: dùng máy vi tính để chuyển giá trị Doppler thành một chuỗi các màu sắc để diễn tả tốc độ và hướng đi của dòng máu chảy bên trong các mạch máu.
  • Siêu âm Doppler năng lượng là một kỹ thuật mới nhạy cảm hơn siêu âm Doppler màu và có khả năng cung cấp thông tin chi tiết hơn về dòng máu, đặc biệt là ở những dòng máu nhỏ. Tuy nhiên, siêu âm năng lượng không giúp cho các bác sĩ xác định được hướng đi của dòng máu mà thông tin này có thể trở nên quan trọng trong một số trường hợp.
  • Siêu âm phổ. Thay vì biểu diễn giá trị Doppler theo dạng trực quan, siêu âm Doppler phổ biểu diễn đại lượng dòng máu dưới dạng biểu đồ dưới dạng khoảng cách đi được trong mỗi đơn vị thời gian.

Máy siêu âm và nguyên lý hoạt động

  • Bộ điều khiển gồm có máy vi tính và nguồn điện, màn hình và đầu dò được dùng để scan cơ thể và các mạch máu.
  • Đầu dò là một thiết bị nhỏ cầm tay tương tự như chiếc microphone, được nối với máy bằng một sợi dây. Đầu dò sẽ phát sóng âm có tần số cao vào cơ thể rồi sau đó thu lại sóng dội ngược từ các mô trong cơ thể.
  • Nguyên lý hoạt động của nó tương tự như thiết bị phát hiện tàu ngầm được dùng ở các tàu thuyền hoặc tàu ngầm trên biển.

Bài viết Nguyên lý, cấu tạo máy siêu âm và các kiểu siêu âm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/sieu-am-la-gi-nguyen-ly-cau-tao-may-sieu-am-va-cac-kieu-sieu-am-3042/feed/ 0
Siêu âm Doppler chẩn đoán tổn thương xơ vữa, tắc mạch https://benh.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-ton-thuong-xo-vua-tac-mach-6244/ https://benh.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-ton-thuong-xo-vua-tac-mach-6244/#respond Sun, 05 Feb 2017 05:42:18 +0000 http://benh2.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-ton-thuong-xo-vua-tac-mach-6244/ Siêu âm Doppler chẩn đoán tổn thương xơ vữa, tắc mạch . Cho dù có một số hạn chế thì siêu âm cũng là phương pháp tốt để cho thấy trực tiếp trên cơ thể sống các tổn thương xơ vữa thành mạch, nó là phương pháp không can thiệp và cho nghiên cứu thành mạch ở các diện cắt khác nhau, cũng như theo dõi tiến triển của bệnh.

Bài viết Siêu âm Doppler chẩn đoán tổn thương xơ vữa, tắc mạch đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Siêu âm Doppler chẩn đoán tổn thương xơ vữa, tắc mạch . Cho dù có một số hạn chế thì siêu âm cũng là phương pháp tốt để cho thấy trực tiếp trên cơ thể sống các tổn thương xơ vữa thành mạch, nó là phương pháp không can thiệp và cho nghiên cứu thành mạch ở các diện cắt khác nhau, cũng như theo dõi tiến triển của bệnh.

Nghiên cứu hình thái các mảng xơ vữa có vai trò hết sức quan trọng cho dù nó vẫn chưa giúp ích nhiều cho phẫu thuật. Ví dụ như tổn thương của động mạch cảnh khi mảng xơ vữa gây hẹp tới trên 70% thì có chỉ định phẫu thuật và thường có biểu hiện lâm sàng. Nhưng ở những người có các mảng xơ vữa thì luôn có nguy cơ tắc mạch ngay cả khi các mảng xơ vữa chưa gây hẹp nhiều và chưa có thay đổi của phổ Doppler, di chuyển của của huyết khối, hay bong thành phần mảng xơ vữa, lắng đọng tiểu cầu thường xảy ra trong các mảng xơ vữa tiến triển.

Với các máy siêu âm thế hê mới có độ phân giải cao cùng phối hợp siêu âm Doppler màu cho phép nghiên cứu rõ hơn các mảng xơ vữa nhất là các mảng xơ vữa đổng âm hay giảm âm. Siêu âm là phương pháp tốt để nghiên cứu thành mạch của các mạch máu nằm nông như đông mạch cảnh, đông mạch đùi…

Hình ảnh thành mạch bình thường:

Môt mạch máu bình thường có cấu trúc hình ống, bờ đều nhẵn, trong lòng không có âm vang. Hình ảnh siêu âm bình thường của thành mạch với đầu dò tần số cao bao gổm 3 lớp: lớp trong cùng màu xám giảm âm là gianh giới giữa dòng chảy và lớp nôi mạc, lớp giữa tăng âm là gianh giới giữa nôi mạc và lớp cơ, lớp ngoài giảm âm gần như trống âm là gianh giới giữa lớp cơ và ngoại mạc. Trong thực tế khi đo chiều dày thành mạch bao gổm chiều dày cả lớp nôi mạc và trung mạc.

Cùng với tuổi già và thâm nhiễm xơ vữa thành mạch, lớp trung mạc dày ra và tăng đâm trong khi bờ trong lòng mạch ngày càng không rõ nét, bờ không đều và vôi hoá từng lớp.

Với những tổn thương khu trú thì khi thăm khám siêu âm cần phải đo các kích thước của mảng xơ vữa (chiều dày, chiều dài, chiều ngang) và cấu trúc âm của nó.

Các kích thước mảng xơ vữa: Để đo kích thước mảng xơ vữa cần phải cắt nhiều lớp ở các bình diên khác nhau. Đo các kích thước: chiều dày mảng xơ vữa, lan toả mảng xơ vữa theo chiều dài, mảng xơ vữa chiếm toàn bô chu vi thành mạch hay chỉ môt phần lòng mạch, cũng cần phải mô tả vị trí mảng xơ vữa liên quan với các vị trí giải phẫu như: chỗ chia đôi đông mạch cảnh, đông mạch đùi…

Bề mặt mảng xơ vữa: cần phải được thăm khám kỹ lưỡng, nó được mô tả là đều hay không đều có những chỗ lõm vào hay không, hay có những hốc nham nhở hay không và mục đích là tìm những hình loét của mảng xơ vữa.

Cấu trúc âm mảng xơ vữa

Được mô tả là đồng âm, giảm âm thâm chí rỗng âm, và tăng âm. Các mảng xơ vữa tăng âm có thể có bóng cản âm hay không có bóng cản âm. Ngoài ra mảng xơ vữa còn đổng đều âm hay không đều.

– Mảng đồng âm, đồng đều bám vào thành tương ứng với lớp lipid bám vào thành không có thâm nhiễm xơ hay vôi hoá

.- Mảng có âm không có bóng cản là tổ chức mỡ đã biến đổi xơ hoá

– Mảng tăng âm có bóng cản chứng tỏ có vôi hoá trong mảng xơ vữa.

– Mảng xơ vữa không đều, có bờ gồ ghề hay lồi lõm thường hay gặp ở gây rối loạn dòng chảy được thấy rõ trên mảng xơ vữa (mũi tên cong), phối hợp với siêu âm Doppler màu.

Có hình giảm âm hay trống âm trong mảng xơ vữa không phải luôn luôn có nghĩa là có loét vi có chảy máu bên trong mảng xơ vữa cũng có biểu hiên tương tự. Nói chung người ta coi mảng xơ vữa tiên lượng xấu khi có cấu trúc âm không đều và nhất là khi nó có các vùng rỗng âm bên trong, với bờ không đổng đều. Tuy nhiên không thể chỉ dựa vào các dấu hiêu trên siêu âm để quyết định có phẫu thuât hay không cho bênh nhân.

Các bẫy trong chẩn đoán: trong siêu âm cắt lớp mạch máu chủ yếu liên quan đến các hinh giả do:

– Các âm nhắc lại trong lòng mạch có thể cho hinh giống như mảng xơ vữa hay huyết khối, nhưng khi thay đổi vị trí đầu dò thi hinh này cũng thay đổi theo nên ta có thể dê dàng phân biêt được.

– Thành mạch có thể không được thấy rõ do chùm sóng âm tiếp tiếp với thành mạch, hinh này thường thấy khi cắt ngang lòng mạch hay những vùng mạch ngoằn ngoèo, vùng gấp góc…; đông mạch và tĩnh mạch chạy song song thì thành của chúng có thể không thấy rõ và cho hình giả là chạc ba động mạch nên cần làm nghiệm pháp ấn mạnh đầu dò thì tĩnh mạch sẽ xẹp.

– Các lớp cắt trên siêu âm có đô dày nhất đĩnh phụ thuôc vào độ phân giải không gian của từng máy, chính vì vây mà cấu trúc bên ngoài mạch có thể chồng vào bên trong lòng mạch hay thành mạch cho hình giả (hiệu ứng khối).

Huyết khối:

Huyết khối mới thông thường có âm và đều âm, điều này đúng chủ yếu với huyết khối tĩnh mạch, còn huyết đông mạch có hình ảnh thay đổi và đa dạng. Thường thì cùng môt nơi tắc mạch có huyết khối ở nhiều giai đoạn khác nhau, lẫn cả huyết khối mới và cũ. Thường thì huyết khối hay xuất hiện ở vùng tổn thương xơ vữa có trước và cho hình ảnh phối hợp mảng xơ vữa và huyết khối.

Huyết khối cũ có ít dấu hiệu đạc trưng, có cấu trúc âm không đều, có thể ít âm. Cục huyết khối dính vào thành cho hình ảnh cục tắc mạch có âm, có thể tăng âm, gianh giới rõ.

Khoa Chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Bạch Mai

Bài viết Siêu âm Doppler chẩn đoán tổn thương xơ vữa, tắc mạch đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-ton-thuong-xo-vua-tac-mach-6244/feed/ 0
Siêu âm Doppler chẩn đoán hẹp động mạch https://benh.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-hep-dong-mach-6243/ https://benh.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-hep-dong-mach-6243/#respond Sun, 05 Feb 2017 05:42:17 +0000 http://benh2.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-hep-dong-mach-6243/ Siêu âm Doppler chẩn đoán hẹp động mạch, hậu quả của hẹp động mạch và tắc mạch

Bài viết Siêu âm Doppler chẩn đoán hẹp động mạch đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Siêu âm Doppler chẩn đoán hẹp động mạch, hậu quả của hẹp động mạch và tắc mạch

Triệu chứng học của hẹp động mạch

Có hai nguyên nhân gây thiếu máu não hay thiếu máu ngoại biên là do: các tổn thương gây hẹp khít hay huyết khối đông mạch làm thay đổi tưới máu ở vùng phía sau tổn thương, di chuyển của huyết khối hay mảnh xơ vữa gây lên tắc mạch ở vùng sau tổn thương.

Thăm khám siêu âm có mục đích làm chẩn đoán xác định có hẹp, đánh giá mức đô hẹp và ảnh hưởng của nó đến huyết đông, mô tả các tổn thương mảng xơ vữa và nếu có thể thì đánh giá tiên lượng khả năng gây tắc mạch của mảng xơ vữa.

Chẩn đoán có hẹp động mạch bằng siêu âm

Các phương pháp thăm khám Doppler đóng vai trò quan trọng trong viêc phát hiện các hẹp động mạch, siêu âm cắt lớp gặp nhiều khó khăn trong viêc đánh giá hẹp đông mạch, cho dù đã dùng các đầu dò có tần số khác nhau và có độ phân giải cao.

Siêu âm cắt lớp: có thể trực tiếp đánh giá được mức đô hẹp lòng mạch bằng cách đo thiết diên ngang cuả mạch và đo diện tích còn lại của lòng mạch trên lớp cắt ngang. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng cắt được lớp cắt ngang vuông góc hoàn toàn với lòng mạch do vị trí của mạch, hay do nó chia nhánh, đường đi ngoằn ngoèo.

Tỷ lê % hẹp = (1- diện tích còn lại/diên tích của cả lòng mạch) x 100.

Mảng xơ vữa cũng không phải lúc nào cũng đánh giá được môt cách chính xác do tính chất giảm âm cuả nó, hay do có các vôi hoá cản trở thăm khám. Kết hợp với siêu âm Doppler thì có thể vạch ra được gianh giới của lòng mạch nếu như đô phân giải không gian ít nhất phải bằng đô phân giaỉ không gian của siêu âm cắt lớp (tuy nhiên nó bao giờ cũng thấp hơn phân giải không gian của siêu âm cắt lớp), hay kích thước của hình ảnh màu không phụ thuộc vào cường độ tín hiệu của Doppler (điều này cũng khó thực hiên, ngày nay với siêu âm Doppler năng lượng thì có thể thực hiện đươc, tuy nhiên ta không biết chiều của dòng chảy).

Trong thực tế’ thì siêu âm Doppler màu có thể giúp vẽ được bờ ngoài của mảng xơ vữa nhưng không thể đo đạc được chĩnh xác các kích thước của mảng xơ vữa.

Siêu âm cắt lớp cũng cho phép phát hiện được hậu quả cơ học của hẹp khít hay tắc mạch. Một động mạch bình thường thì thành mạch luôn đập, di động theo theo chiều ngang trong khi trước chỗ tắc hay hẹp rất khít thì đập ngang này mất đi và được thay bằng đâp mạnh theo trục giống như chuyển động của pitông. Dấu hiệu này không phải là dấu hiệu đặc hiệu nhưng nó có giá trị gây chú ý để định hướng cho người khám. Ghi phổ Doppler cũng không phải có khả năng kỳ diệu để chẩn đoán hẹp động mạch. Phối hợp với siêu âm màu cũng không phải là cải thiện được nhiều độ hạy và độ đặc hiệu của siêu âm Doppler.

Ngày nay người ta phải phối hợp nhiều phương pháp thăm khám siêu âm khác nhau (hai bình diện Doppler liên tục, Doppler xung và Doppler màu) trong thăm khám bệnh lý mạch máu, nó giúp cho chẩn đoán khá chính xác các bệnh lý mạch máu với điều kiện thầy thuốc tiến hành thăm khám có đủ kinh nghiệm, và hiểu được rõ ràng các bẫy trong chẩn đoán, các giới hạn của phương pháp.

Hậu quả của hẹp động mạch

Hẹp động mạch gây lên rối loạn dòng chảy tại chỗ (là cơ sở của các dấu hiệu trực tiếp), gây rối loạn dòng chảy ở đầu xa (tạo lên các dấu hiệu gián tiếp). Phát hiện các bất thường dòng chảy đòi hỏi phải có kinh nghiệm và thời gian, các hẹp nhiều đoạn hay hẹp dài cũng có những thay đổi dòng chảy không giống nhau, để đơn giản ta nghiên cứu thay đổi dòng chảy ở một đoạn ngắn.

Dấu hiệu trực tiếp:

Hẹp lòng mạch gây lên hai biến đổi chính được phát hiện trên siêu âm Doppler:

– Dòng chảy tăng tốc ở chỗ động mạch bị hẹp, hẹp càng khít thì tốc độ dòng chảy càng tăng, tốc độ tỷ lệ nghịch với diện tích còn lại của lòng mạch nếu  như thành mạch còn đều nhẵn. Mối tương quan giữa tăng tốc và mức độ hẹp tổn tại nếu như lưu lượng máu qua vùng tổn thương còn được đảm bảo, nhưng trong những trường hợp hẹp quá khít thì không còn mối tương quan này nữa và chẩn đoán có thể nhầm lẫn.

– Dòng chảy rối: dòng chảy bị rối loạn không còn tính chất của dòng chảy thành các lớp bình thường, dòng chảy gồm nhiều vêctơ có các cường độ và các hướng khác nhau, ngưỡng mà từ đó dòng chảy mất tính chất bình thường để trở lên rối loạn được xác định bằng số Reynolds (nó không có kích thước), nó phụ thuộc vào kích thướng lòng mạch, tốc độ dòng chảy và độ nhớt của máu.

Số Reynolds tăng khi tốc độ dòng chảy tăng, như thế’ là tăng tốc độ dòng chảy là kết quả của hẹp lòng mạch và tạo điều kiên cho dòng chảy rối loạn. Điều này giải thích cho hiên tượng khi làn nghiêm pháp gắng sức thì sẽ tăng tốc độ dòng chảy động mạch và phát hiên được các rối loạn dòng chảy do hẹp lòng mạch mà ở điều kiên nghỉ ngơi bình thường không phát hiên được. Chạy trên thảm quay hay đơn giản là co duỗi chân nhiều lần có thể làm xuất hiên các rối loạn dongf chảy do hẹp mà không phát hiên được khi nghỉ ngơi. Khi làm nghiêm pháp gắng sức thì giải phóng các chất giãn mạch, nó lamg giảm sức cản ngoại biên, làm giảm áp lực tại chỗ nên làm tăng trênh áp tống qua chỗ hẹp cho nên làm tăng lưu lượng và tăng tốc độ dòng chảy.

Số Reynolds tăng khi kích thước lòng mạch tăng, như vây không có dòng chảy rối ngay tại chỗ hẹp vì ở đó lòng mạch bị hẹp lại nhưng ngay lâp tức nó xuất hiên ở sau chỗ hẹp do ở đó lòng mạch rộng ngay ra đột ngột trở về bình thường ( thường hay giãn nhẹ); nếu có giãn sau hẹp thì chắc chắn sẽ có dòng chảy rối. Giảm độ nhớt của máu do điều trị chống đông hay thiếu máu cũng tạo điều kiên xuất hiên dòng rối.

Dấu hiệu trực tiếp và gián tiếp của hẹp động mạch Trước hẹp: Tốc độ dòng chảy giảm, sức cản tăng Chỗ hẹp: tăng tốc, dòng rối Sau hẹp: Tốc độ giảm, thời gian tăng tốc kéo dài., sức cản thấp

Ở người bình thường thì số Reynolds khoảng 2000, nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến việc xuất hiện dòng rối         như: hẹp trên cơ sơ của mảng xơ vữa thì có dòng rối nhiều hơn khi hẹp có thành mạch đều nhẵn, ở thì tâm thu thì dòng rối nhiều hơn thì tâm trương.

Phân tích phổ Doppler và tín hiệu âm thanh:

.Tăng tốc độ dòng chảy vùng hẹp biểu hiên bằng vùng tín hiệu Doppler tần số cao nhưng năng lượng thấp mờ cùng âm tần số cao, số lượng hồng cầu lưu thông qua chỗ hẹp với tốc độ nhanh càng ít đi khi mức độ hẹp càng nặng.

. Do tốc độ dòng chảy chậm lại trước chỗ hẹp và có dòng rối ngay sau chỗ hẹp làm cho xuất hiện vùng phổ Doppler tần số thấp nhưng năng lượng cao đậm nét trên đường phổ Doppler. Khi mức đô hẹp càng tăng thì năng lượng phổ Doppler chuyển dần về đường không.

. Khi có dòng rối xuất hiên thì trên phổ Doppler có các tần số âm (nằm phía dưới đường không) chứng tỏ có dòng chảy đi ngược chiều dòng chảy và gợi ý tổn thương hẹp khít.

Khi có hẹp thì đường phổ Doppler bao giờ cũng rông ra do pha trôn giữa dòng chảy tần số cao và dòng chảy tần số thấp.

Trên siêu âm Doppler màu có dòng chảy mất bão hoà màu và dòng rối khảm màu sau hẹp, nếu mức đô hẹp càng nhiều thì chúng càng tăng.

Dấu hiệu gián tiếp:

Các dấu hiệu gián tiếp trước và sau chỗ hẹp cũng phụ thuôc vào mức độ hẹp

– Trước chỗ hẹp: Hẹp lòng mạch làm cho sức cản thành mạch tăng lên, chính vì vậy mà chỉ số sức cản (RI) và chỉ số sức đập (PI) cũng tăng lên tức là dòng chảy trong kỳ tâm trương giảm. Dấu hiêu này càng rõ ràng nếu đo ngay sát vùng hẹp, càng đo xa vùng hẹp thì càng không chính xác, nhất là đo trước vùng có mạch nối bàng hệ (có sức cản thấp) thì chính mạch bàng hênày làm giảm chỉ số sức cản và nếu tuần hoàn bàng hê nhiều thì có thể làm cho các chỉ số này giảm đi.

– Sau chỗ hẹp:

Do sức cản tăng ở vùng hẹp, ở mữc đô hẹp nhất định thì gây giảm áp lực mạch, nên thành mạch phản ứng lại bằng giãn mạch để giảm sức cản nhằm duy trì lưu lượng dòng chảy bình thường. Do vậy mà các chỉ số sức cản và sức đập đều giảm đi ở sau chỗ hẹp, mặt khác vùng hẹp như cái lọc đã lọc các thành phần tốc đô nhanh để cho phổ môt pha, dạng đường cong có biên đô thấp và có dòng chảy tâm trương liên tục.

Hê thống các mạch bàng hê cũng đóng vai trò lọc đối với đường tốc đô do nó có sức trở kháng riêng và cũng do có nhiều đường dẫn lưu ra khỏi vùng hẹp làm cho phổ Doppler mất tính đổng bô trở lên không còn thay đổi nhiều theo nhịp tim.

Thay đổi phổ Doppler sau chỗ hẹp phụ thuộc vào mức đô hẹp và vào hê thống mạch bàng hê, nó nói lên mức độ hẹp về mặt chức năng nhưng không cho biết tính chất giải phẫu của hẹp .

Dấu hiệu trực tiếp và gián tiếp của tắc mạch:

a. không có tuần hoàn bàng hệ

b.tuần hoàn bàng hệ tốt

c. tuần hoàn bàng hệ không tốt lắm.

Hậu quả của tắc mạch.

Dấu hiệu trực tiếp: Dấu hiệu trực tiếp của tắc mạch rất đơn giản đó là không có tín hiệu dòng chảy trên siêu âm Doppler ở vùng tắc mạch

Dấu hiệu gián tiếp trước chỗ tắc: biểu hiện bằng tăng các chỉ số sức cản (RI) và chỉ số sức đập (PI) do giảm dòng chảy liên tục thì tâm trương. Dấu hiệu này càng rõ nếu mới tắc, dấu hiệu này không rõ nếu tắc cũ đã có các tuần hoàn bàng hệ qua chỗ tắc .

Dấu hiệu gián tiếp sau chỗ tắc: tuỳ thuộc vào mức độ tuần hoàn bàng hệ

-Khi không có tuần hoàn bàng hệ: thì sau chỗ tắc không có tín hiệu dòng chảy.

-Khi tuần hoàn bàng hệ tái tạo lại dòng chảy sau chỗ tắc thì dòng chảy bị thay đổi nhiều với chỉ số sức cản giảm, giảm lưu lượng dòng chảy chung và mất thay đổi tốc đô dòng chảy bình thường. Dòng chảy sau tắc có phổ Doppler thay đổi tuỳ thuôc vào hệ thống tuần hoàn bàng hệ nhiều hay ít.

Các dấu hiệu gián tiếp có vai trò trong việc đánh giá tình trạng huyết đông gây ra do hẹp hay tắc đông mạch nhưng nó không có vai trò để chẩn đoán xác định nguyên nhân gây tắc hay hẹp cũng như tình trạng giải phẫu vùng hẹp-tắc. Các dấu hiệu gián tiếp không có tính đặc hiệu, chỉ có các dấu hiệu trực tiếp tại vùng tổn thương mới có giá trị chẩn đoán xác định.

Phối hợp siêu âm Doppler và siêu âm cắt lớp trong thăm khám mạch máu có tác dụng hỗ trợ nhau, giúp cho dễ dàng hiểu và phân tích phổ Doppler ghi được ở vùng nghi ngờ tổn thương cũng như trước và sau vùng tổn thương. Nó cho phép phân tích được những thay đổi ghi nhận được trên phổ Doppler do các thay đổi bình thường của đường đi của mạch máu, hay do hình thái giải phẫu của vùng chạc ba đông mạch, không đánh giá quá mức đô hẹp do đoạn hẹp dài. Phối hợp hai loại siêu âm Doppler và siêu âm cắt lớp giúp cho loại bỏ được các bẫy trong chẩn đoán.

Bài viết Siêu âm Doppler chẩn đoán hẹp động mạch đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/sieu-am-doppler-chan-doan-hep-dong-mach-6243/feed/ 0
Tác dụng siêu âm trong chẩn đoán bệnh https://benh.vn/tac-dung-sieu-am-trong-chan-doan-benh-3043/ https://benh.vn/tac-dung-sieu-am-trong-chan-doan-benh-3043/#respond Wed, 04 Feb 2015 04:25:56 +0000 http://benh2.vn/tac-dung-sieu-am-trong-chan-doan-benh-3043/ Những công dụng phổ biến của siêu âm

Bài viết Tác dụng siêu âm trong chẩn đoán bệnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Siêu âm giúp chẩn đoán được nhiều loại bệnh khác nhau và tiếp cận được những tổn thương của các cơ quan khi bị bệnh.

Siêu âm giúp các bác sĩ đánh giá được những triệu chứng:

  • Đau
  • Sưng, phù nề
  • Nhiễm trùng

Siêu âm là cách hữu ích để kiểm tra nhiều cơ quan bên trong cơ thể, bao gồm (nhưng không chỉ giới hạn trong) những cơ quan sau:

Tim và các mạch máu, bao gồm động mạch chủ bụng và những nhánh chính của nó.

  • Gan
  • Túi mật
  • Lách
  • Tụy
  • Thận
  • Bàng quang
  • Tử cung, buồng trứng và trẻ chưa sinh (thai nhi) ở những thai phụ.
  • Mắt
  • Tuyến giáp và tuyến cận giáp
  • Bìu (tinh hoàn)

Siêu âm cũng được dùng để:

Hướng dẫn thực hiện các thủ thuật như sinh thiết bằng kim, là thủ thuật đưa kim vào để lấy một mẫu tế bào từ một vùng bất thường của cơ thể để đem đến phòng xét nghiệm kiểm tra.Thể hiện hình ảnh của vú để hướng dẫn sinh thiết ung thư vú. Siêu âm vú được chỉ định cho phụ nữ trẻ, dưới 35 tuổi khi có bất thường ở vú hoặc kiểm tra vú định kỳ mỗi năm.Chẩn đoán nhiều loại bệnh tim và khảo sát những tổn thương sau một cơn đau tim hoặc một bệnh khác.

Siêu âm Doppler giúp các bác sĩ quan sát và đánh giá:

Sự tắc nghẽn của dòng máu (chẳng hạn như huyết khối).

Hẹp các mạch máu (có thể gây ra do mảng vữa).

Những khối u và dị tật bẩm sinhVới những thông tin về tốc độ và thể tích của dòng máu thu được từ hình ảnh siêu âm Doppler, các bác sĩ thường có thể xác định được bệnh nhân có đủ điều kiện để thực hiện thủ thuật (chẳng hạn như tạo hình mạch máu) hay không.

Bài viết Tác dụng siêu âm trong chẩn đoán bệnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tac-dung-sieu-am-trong-chan-doan-benh-3043/feed/ 0