Bài viết Chuyển động của bé trong bụng mẹ – Có gì bất thường ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Mô tả hay về lần đầu tiên người mẹ cảm thấy con mình di chuyển bên trong. Những cử động đầu tiên đó có cảm giác như những con bướm nhỏ dịu dàng ngẫu nhiên vỗ cánh của chúng bên trong tử cung của bạn. Việc này có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong khoảng 16-22 tuần của thai kỳ. Nếu bạn đã có con trước đó, bạn có thể nhận ra những cảm giác sớm hơn với lần mang thai tiếp theo.
Bạn có thể không nhất thiết phải cảm thấy chúng mỗi ngày cho đến sau khoảng 24 tuần. Nếu bạn không cảm thấy em bé di chuyển mỗi ngày sau 24 tuần, hãy thông báo cho bác sĩ sản khoa của bạn.
Sau 28 tuần, em bé của bạn nên di chuyển ít nhất 10 lần trong hai giờ, mỗi ngày một lần. Em bé không cần phải di chuyển 10 lần liên tục trong hai giờ, nhưng em nên có một vài giờ hoạt động mỗi ngày. Nếu em bé ngừng di chuyển, đó có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy em bé gặp nạn. Em bé có thể bị vướng vào nhau thai hoặc bạn có thể có quá ít nước ối. Những biến chứng này có thể rất nghiêm trọng.
Nếu bạn không cảm thấy em bé của bạn di chuyển bình thường, thì hãy uống một ít nước trái cây và nghỉ ngơi bên trái trong 2 giờ và chú ý đến hoạt động của bé. Nếu bạn không nhận được 10 chuyển động hoặc cú đá khác nhau trong thời gian đó (hoặc trong hai giờ), hãy gọi cho bác sĩ sản khoa.
Nhận thức của một người mẹ về chuyển động của em bé có thể phụ thuộc vào một vài yếu tố – một là vị trí của nhau thai. Khi nhau thai được gắn vào phía trước tử cung, về cơ bản nó sẽ tạo ra một chiếc gối giữa cô ấy và em bé. Điều này làm cho việc cảm nhận các chuyển động thường xuyên trở nên khó khăn hơn. Nó cũng có thể là một lý do một người phụ nữ cảm thấy em bé di chuyển thực sự sớm trong một lần mang thai nhưng không lâu sau đó với lần tiếp theo.
Cân nặng của mẹ cũng có thể ảnh hưởng đến nhận thức về chuyển động. Nếu bạn thừa cân và có thêm phần đệm trong bụng, bạn có thể không cảm thấy các cử động rõ rệt. Tôi đã có một vài bệnh nhân bị thừa cân với nhau thai ở thành trước của tử cung, người hầu như không thể cảm thấy bất kỳ chuyển động nào trong suốt thai kỳ. (Tôi có cảm giác đây là những người phụ nữ xuất hiện trên những chương trình – tôi không biết tôi đã mang thai.) Trong tình huống này, cần thực hiện các bài kiểm tra nhịp tim hàng tuần (các bài kiểm tra không căng thẳng) để xác nhận mọi thứ đều vui vẻ và khỏe mạnh với đứa bé.
Một chuyển động nhịp nhàng xảy ra cứ sau vài giây có khả năng bé bị nấc. Cảm giác này đôi khi có thể gây bối rối, nhưng thực sự đó là một phần bình thường của sự phát triển của em bé và là một dấu hiệu trấn an rằng em bé khỏe mạnh.
Tôi thường sẽ nhận được các cuộc gọi liên quan từ các bệnh nhân có em bé thường di chuyển vào ban đêm và hôm nay di chuyển vào buổi sáng hoặc ngược lại. Bé không có lịch trình trong bụng mẹ. Một lần nữa nhắc lại – có một giờ hoạt động một ngày – hoặc đêm – là điều quan trọng. Không cần phải là cùng một giờ mỗi ngày.
Vào một thời điểm nào đó trong tam cá nguyệt thứ ba, những rung động quý giá đó đã từng khiến đôi mắt bạn trở nên mơ hồ với niềm hạnh phúc của người mẹ biến thành những cơn đau 3 giờ sáng khiến đôi mắt bạn rơi vào giấc ngủ vì một lý do hoàn toàn khác. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh không thể di chuyển nhiều quá nhiều và bạn thực sự không thể làm gì để giảm bớt những cử động đau đớn của thai nhi.
Giống như mỗi lần mang thai là duy nhất, các chuyển động của em bé cũng vậy. Cố gắng không so sánh thai kỳ này với những lần trước hoặc của đồng nghiệp của bạn. Nhận ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của chàng trai nhỏ của bạn. Chỉ cần nhớ, nếu anh ấy không đáp ứng số lần đá của anh ấy trong ngày, bạn cần gọi cho bác sĩ của bạn để kiểm tra mọi thứ.
Webmd.com
Bài viết Chuyển động của bé trong bụng mẹ – Có gì bất thường ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Sẩy thai, đẻ non, thai kém phát triển nguyên nhân do đâu? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bánh rau bị thoái hóa làm giảm cung cấp chất dinh dưỡng và oxy cho thai, thai suy dần, nhỏ lại các cơ quan chức năng của thai nhi suy giảm, làm thai bị chết trong tử cung, hoặc nếu đẻ ra thì cũng chết trong tuần đầu với tỷ lệ cao.
Thai dị dạng
Thai già tháng có thể gây chết thai
– Thai bị các bệnh di truyền, bệnh bẩm sinh, bị nhiễm khuẩn trong buồng tử cung đều có thể bị chết đột ngột, chết lưu hoặc sẩy thai, đẻ non, thai kém phát triển
– Đa thai: sinh đôi, sinh ba thai thường nhỏ, non yếu dễ đẻ non. Khi đẻ có thể thai mắc vào nhau hoặc mắc kẹt, hoặc ngôi thế bất thường. Mẹ sau đẻ dễ bị băng huyết.
– Bất đồng nhóm máu giữa mẹ và thai: thường gặp là yếu tố Rh, ngày nay người ta đã phát hiện bất đồng nhóm máu A – O – B giữa mẹ và con, hậu quả sơ sinh vàng da, tán huyết, dẫn đến vàng da nhân.
Tóm lại, hậu quả của thai nghén có nguy cơ cao, thường gây:
Benh.vn
Bài viết Sẩy thai, đẻ non, thai kém phát triển nguyên nhân do đâu? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Trang điểm khi mang thai sẽ ảnh hưởng tới chỉ số IQ của con đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Phthalate là một loại chất hóa học nhân tạo, được sử dụng nhằm mục đích thay đổi tính chất của sản phẩm. Chúng được tìm thấy trong tất cả mọi thứ từ nhựa PVC như sàn nhà, vòi hoa sen, cần gạt nước của xe ôtô hay thậm chí có thể là trong một số thực phẩm chúng ta dùng hàng ngày… Chúng được phát tán từ mọi thứ xung quanh ta và xâm nhập vào cơ thể khi chúng ta hít thở.
Trên thực tế, trong thời kỳ mang thai, nhiều phụ nữ thường đoạn tuyệt với mỹ phẩm vì lo ngại ảnh hưởng tới thai nhi. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ với thói quen làm đẹp vẫn luôn muốn mình xinh đẹp và tươi tắn trong khoảng thời gian này nên vẫn giữ thói quen trang điểm mỗi ngày. Các chuyên gia khuyến cáo, các bà mẹ nên hạn chế tối đa việc dùng mỹ phẩm, chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết vì ảnh hưởng của hóa chất phthalate trong các sản phẩm làm đẹp có thể làm giảm chỉ số IQ của trẻ.
Đại diện nhóm nghiên cứu cho biết: “Chỉ số IQ là một vấn đề đáng quan tâm. Việc thấp hơn chỉ số trung bình từ 6-7 điểm có thể sẽ để lại hậu quả đáng kể cho việc học tập, làm việc và cuộc sống của trẻ sau này”.
Để chứng minh tầm ảnh hưởng của phthalate đối với chỉ số IQ của trẻ, các nhà nghiên cứu đã thực hiện một cuộc thí nghiệm với 328 phụ nữ mang thai ở New York có tiếp xúc với phthalate. Kết quả cho thấy rằng, hóa chất này có tồn tại trong những mẫu nước tiểu ở 3 tháng cuối kỳ thai nhi của họ. Những đứa trẻ này chiếm khoảng 25% trong tổng số những trẻ có IQ thấp hơn trung bình từ 6,6 – 7,6 điểm.
Bên cạnh quy định không cho phép hóa chất này xuất hiện trong đồ chơi của trẻ thì điều quan trọng nhất đối với các bà mẹ mang thai là: để bảo vệ đứa trẻ của bạn phát triển một cách bình thường, hãy là một người tiêu dùng thông minh.
Được biết, các nhà nghiên cứu đang điều tra 4 loại thuộc phthalate và đã chứng minh được tính nguy hại của hai loại: DnBP và DiBP. Hai loại này đều được tìm thấy trong một loạt các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày bao gồm: son môi, keo xịt tóc, sơn móng tay hay thảm trải nhà hoặc trong một số loại xà phòng… Ngoài ra, họ cũng khuyến cáo phụ nữ mang thai không nên sử dụng những vật dụng có mùi thơm như giấy ăn và không nên hâm lại thức ăn trong lò vi sóng bằng hộp nhựa. Một điểm quan trọng nữa là tuyệt đối không sử dụng nhựa tái chế.
An Nguyên – Benh.vn (Theo Daily mail)
Bài viết Trang điểm khi mang thai sẽ ảnh hưởng tới chỉ số IQ của con đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cân nặng, chiều cao chuẩn của thai nhi theo tuần tuổi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Tuần tuổi | Chiều dài | Trọng lượng | Tuần tuổi | Chiều dài | Trọng lượng |
Thai 1 tuần | – Trứng được thụ tinh, phôi thai được hình thành.- Dấu hiệu mang thai chưa rõ ràng | Thai 20 tuần | 25,6 cm | 300 g | |
Thai 2 tuần | Thai 21 tuần | 26,7 cm | 360 g | ||
Thai 3 tuần | Thai 22 tuần | 27,8 cm | 430 g | ||
Thai 4 tuần | Thai 23 tuần | 28,9 cm | 500 g | ||
Thai 5 tuần | – Hệ thần kinh hình thành.- Đã có dấu hiệu mang thai | Thai 24 tuần | 30 cm | 600 g | |
Thai 6 tuần | Thai 25 tuần | 34,6 cm | 660 g | ||
Thai 7 tuần | – Phôi thai hoàn thiện | Thai 26 tuần | 35,6 cm | 760 g | |
Thai 8 tuần | 1,6 cm | 1 g | Thai 27 tuần | 36,6 cm | 875 g |
Thai 9 tuần | 2,3 cm | 2 g | Thai 28 tuần | 37,6 cm | 1005 g |
Thai 10 tuần | 3,1 cm | 4 g | Thai 29 tuần | 38,6 cm | 1150 g |
Thai 11 tuần | 4,1 cm | 7 g | Thai 30 tuần | 39,9 cm | 1320 g |
Thai 12 tuần | 5,4 cm | 14 g | Thai 31 tuần | 41,1 cm | 1500 g |
Thai 13 tuần | 7,4 cm | 23 g | Thai 32 tuần | 42,4 cm | 1700 g |
Thai 14 tuần | 8,7 cm | 43 g | Thai 33 tuần | 43,7 cm | 1920 g |
Thai 15 tuần | 10,1 cm | 70 g | Thai 34 tuần | 45 cm | 2150 g |
Thai 16 tuần | 11,6 cm | 100 g | Thai 35 tuần | 46,2 cm | 2380 g |
Thai 17 tuần | 13 cm | 140 g | Thai 36 tuần | 47,4 cm | 2620 g |
Thai 18 tuần | 14,2 cm | 190 g | Thai 37 tuần | 48,6 cm | 2860 g |
Thai 19 tuần | 15,3 cm | 240 g | Thai 38 tuần | 49,8 cm | 3080 g |
Thai 20 tuần | 16,4 cm | 300 g | Thai 39 tuần | 50,7 cm | 3290 g |
20 tuần đầu, chiều dài của thai nhi được tính từ đỉnh đầu tới mông. | Thai 40 tuần | 51,2 cm | 3460 g | ||
Chiều dài tính từ đầu tới chân thai nhi |
Có rất nhiều yếu tố cho biết bào thai trong bụng mẹ có phát triển bình thường hay không và một trong những yếu tố đố là chỉ số cân nặng và chiều cao của thai nhi trong bụng mẹ. Thông qua các chỉ số này các bà mẹ sẽ biết cách điều chỉnh chế độ ăn uống và nghỉ ngơi cho hợp lý.
Bài viết Cân nặng, chiều cao chuẩn của thai nhi theo tuần tuổi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Nhóm thai nghén nguy cơ cao đối với mẹ và bé đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Thai nghén nguy cơ cao gặp khá phổ biến, ở bất cứ tuổi thai nào, nguyên nhân gây tăng tỷ lệ mắc bệnh, tử vong cho mẹ, thai và sơ sinh. Thai nghén nguy cơ cao còn có thể gây nên các loại bệnh tật, các dị dạng cho thai khi còn nằm trong tử cung hoặc làm cho trẻ bị trì trệ, kém phát triển khi đã ra đời
Tỷ lệ thai nghén nguy cơ cao thay đổi từ 5 – 40%.
Về mặt lâm sàng, người ta chia ra 4 nhóm nguy cơ:
1. Tuổi mẹ
Mang thai ở tuổi vị thành niên (dưới 18 tuổi) có nguy cơ tiền sản giật, thai chậm phát triển trong tử cung, doạ đẻ non và đẻ non, và mẹ thiểu năng dinh dưỡng, lây lan các bệnh viêm nhiễm theo đường tình dục.
Mẹ trên 35 tuổi có nguy cơ cao huyết áp do thai, tiền sản giật, nhau tiền đạo, bệnh béo phì, các bệnh nội khoa khác. Những bất thường về nhiễm sắc thể có thể gặp ở trẻ sinh ra từ các bà mẹ lớn tuổi
2. Cân nặng mẹ
– Mẹ nhẹ cân: khi cân nặng dưới 40kg khi có thai có thể do thiếu dinh dưỡng, bệnh chán ăn. Nguy cơ của thiếu cân trong thai kỳ là sinh ra một em bé nhẹ cân hơn tuổi thai, chậm phát triển trong tử cung, suy thai, thai ngạt, sơ sinh hạ đường máu, giảm thân nhiệt, tỷ lệ tử vong và bệnh lý cao.
– Mẹ béo phì: Là nhũng bà mẹ có cân nặng trên 70kg. Các biến chứng thường gặp ở mẹ béo phì là rốì loạn cao huyết áp có từ trước và trong khi có thai, tần suất gặp từ 4 – 7%, biến chứng đái đường cũng hay gặp. Ngoài ra còn gặp các biến chứng khác như viêm đường tiết niệu, viêm tĩnh mạch. Mẹ béo phì thường sinh một em bé lớn, ngôi thế không rõ ràng, tỷ lệ mổ lấy thai cao và dễ nhiễm trùng sau mổ.
3. Các bệnh di truyền
Các bệnh do cha mẹ truyền cho con, xảy ra trong quá trình thụ thai (phối hợp giữa tinh trùng và noãn) hoặc do sự tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Ví dụ như chứng tam bội thể 21 (trisomie) gây ra hội chứng Usker ở trẻ nhỏ với thoái hoá sắc tố ở võng mạc, điếc, xơ cứng teo cơ.
Rối loạn nhiễm sắc thể (đơn bội thể, tam bội thể) thường gây sẩy thai ở 12 tuần đầu. Bệnh Down gặp ở sản phụ nhiều tuổi, thai bé nhỏ, non yếu, gặp ô phụ nữ quá trẻ hoặc cơ thể nhỏ bé.
4. Điều kiện về kinh tế xã hội
Mức sống vật chất thấp, lao động quá nặng nhọc, sống ở nơi chật hẹp, thiếu vệ sinh, tinh thần căng thẳng thường làm thai kém phát triển, gây tỷ lệ đẻ non cao.
5. Yếu tố dinh dưỡng
Năng lượng dự trữ trong thời gian sắp có thai, thức ăn hàng ngày và thức ăn bổ sung trong thời gian mang thai có thể ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng và phát triển của thai. Thiếu năng lượng trường diễn dẫn tới sinh ra trẻ thiếu cân. Thiếu acid folic là nguyên nhân đầu tiên ảnh hưởng đến khuyết tật ống thần kinh. Mẹ thiếu vitamin B1 có liên quan tới một số trường hợp tử vong cấp của sơ sinh và các tình trạng tim của thai nhi bị sung huyết. Thiếu vitamin D có thể dẫn tới tình trạng hạ canxi huyết và cơn tetani của sơ sinh.
Ngoài ra các yếu tố về môi trường, mẹ nghiện thuốc lá, nghiện rượu cũng là các yếu tố nguy cơ.
1. Các bệnh nhiễm khuẩn của mẹ
– Thường nặng lên gây nhiều nguy cơ cho thai:
– Hậu quả của nhiễm khuẩn:
Lây nhiễm chu sinh (viêm gan), trong quý II và III lây nhiễm qua bánh rau có thể gây ra nhiễm khuẩn bẩm sinh với nguy cơ thai bị bệnh.
2. Các bệnh về gan
Thường gặp viêm gan do virus gây suy gan cấp, xơ gan làm giảm chức năng gan, gây chảy máu, hôn mê, tử vong trong cuộc đẻ. Đối với thai thường bị dị dạng ở 10 tuần lễ đầu hoặc bị sẩy thai. Từ tuần lễ thứ 12 trở đi làm thai bị viêm gan, gây dễ sẩy, đẻ non hoặc chết lưu. Nếu thai nhi sinh ra từ mẹ mang kháng nguyên HBs gần 2% trong số trẻ này trở thành người mang virus mạn tính sẽ có nguy cơ bị tổn thương gan nặng.
Bảng l: Nguy cơ lây cho trẻ sơ sinh phụ thuộc vào tình trạng huyết thanh của mẹ ở quý 3
Tinh trạng huyết thanh của thai phụ ở quý 3 |
Nguy cơ lây cho TSS khi đẻ hoặc sau đẻ |
Xử trí
|
Kháng nguyên HBs (+) / KN HBe (+)
Khángnguyên HBs (+) / KNHBe (-) Kháng nguyên HBs(-) / Kháng thể HBc(+) Kháng nguyên HBs (-) / kháng thể HBs(+) |
90 đến 100%
20% Không biết – ít 0% |
Tiêm huyết thanh
Tiêm huyết thanh Không xử trí Không xử trí |
Dự phòng cho trẻ sơ sinh mang virus bằng cách tiêm Immoglobuline đặc hiệu 0,5ml/kg tiêm bắp sau sinh 48 giờ.
Sau đó tiêm hàng tháng 0,16ml/kg trong 6 tháng và nhắc lại sau một năm.
3. Các bệnh về thận
Viêm thận, viêm mủ bể thận, cao huyết áp, các bệnh này sẽ nặng lên lúc mang thai gây nhiều biến chứng như: rau bong non, sản giật do co thắt tiểu động mạch, lượng máu rau thai ít làm rau bị xơ hoá, bánh rau nhỏ, thai kém phát triển, chết lưu. Tăng tỷ lệ tử vong chu sinh, cần điều trị tích cực và có hệ thống hoặc phải đình chi thai nghén để cứu mẹ.
Nguy cơ cho mẹ: Cao huyết áp, gia tăng mức độ thương tổn thận.
4. Các bệnh tim mạch
Chủ yếu là bệnh tim mắc phải thường nặng lên, cơ thể của thai luôn trong tình trạng thiếu kém phát triển. Thiếu oxy cơ tử cung gây đẻ non, sẩy thai, tử vong và bệnh lý thai tăng gấp 2 ở bệnh nhân có loạn nhịp hoàn toàn và gấp 5 lần ở tim mất bù. Khi đẻ nếu có can thiệp bằng forceps thì dễ gây sang chấn cho thai hoặc đôi lúc phải đình chỉ thai nghén vì bệnh lý của mẹ quá nặng. Nguy cơ trẻ bị tim bẩm sinh từ 10 -24% nếu mẹ hoặc bố cũng bị tim bẩm sinh. Nguy cơ cho mẹ: suy tim, phù phổi cấp, tử vong mẹ tăng.
5. Các bệnh về máu
Thai nghén được coi là thiếu máu khi Hb <10gr. Thường gặp thiếu máu hồng cầu nhỏ, nhược sắc do thiếu sắt hoặc thiếu máu hồng cầu to ưu sắc do thiếu acid folic, do cung cấp không đủ khi ăn uống hay do kém hấp thu ở hệ thống tiêu hoá. Ở Việt Nam thường gặp do dinh dưỡng kém hay do giun móc làm cho thai kém phát triển, đẻ non, sẩy thai, hoặc chết lưu. Mẹ có thể bị suy tim khi mang thai, biến chứng lúc sinh và sổ nhau, tăng nguy cơ tắc mạch, nhiễm trùng.
6. Các bệnh nội tiết
Đái đường, Basedow, Addison gây nguy cơ cao cho thai. Bệnh Basedow có thể gây đẻ non, thai suy dưỡng, nhiễm độc thai nghén, Đối với mẹ làm tăng tỷ lệ tử vong.
7. Các bệnh phụ khoa
– Thiểu năng nội tiết (Estrogen, Progesteron) gây sẩy thai.
– Viêm nhiễm đường sinh dục, gây ra viêm màng thai, nhiễm khuẩn ối, nhiễm khuẩn thai.
– Các dị dạng tử cung, u xơ, hở eo… gây sẩy thai hay đẻ non.
8. Các bệnh khác
Ung thư, thường tiến triển nhanh. Các bệnh nghề nghiệp như nhiễm độc chì, thuỷ ngân, các chất hoá học, phóng xạ, nghiện rượu, thuốc lá thường gây ra dị dạng, sẩy thai, thai lưu hoặc đẻ non.
– Đẻ khó, can thiệp thủ thuật gây sang chấn cho thai nhi
– Sản phụ có tiền sử sẩy thai liên tiếp, chết lưu, đẻ non nhiều lần dễ gây ra nguy hiểm cho thai, đẻ con chết nhiều lần. Khi người phụ nữ có tiền sử sẩy thai liên tiếp từ 3 lần trở lên thì chỉ có cơ hội đẻ con sống là 30% và nguy cơ đẻ non cao hơn 20% so với người bình thường.
– Điều trị vô sinh
– Mổ lấy thai, sẹo cũ ở tử cung (bóc u, tạo hình…)
1. Tiền sản giật – sản giật
Làm thai kém phát triển, đẻ non do mẹ bị sản giật, rau bong non, nhiều khi gây tử vong cho cả mẹ và thai.
2. Nguyên nhân do phần phụ của thai
– Nguyên nhân do bánh nhau
– Nguyên nhân do màng ối
Rỉ ối, vỡ ối non gây nhiễm khuẩn ối, nhiễm khuẩn cho thai nhi. Thai phụ đôi khi phải mổ cắt tử cung ở những thể nhiễm trùng nặng.
– Nguyên nhân do dây rau
Dây rau ngắn, dây rau cuốn cổ dây rau thắt nút, khối u ở dây rau dây rau bị chèn ép, hoặc sa dây rau đều làm cho thai nhi bình chỉnh không tốt, hoặc ngăn cản tuần hoàn nhau thai làm cho thai chết.
– Nguyên nhân do nước ối
Đa ối
Thiểu ối
3. Các nguyên nhân do thai
– Thai già tháng: Bánh rau bị thoái hóa làm giảm cung cấp chất dinh dưỡng và oxy cho thai, thai suy dần, nhỏ lại các cơ quan chức năng của thai nhi suy giảm, làm thai bị chết trong tử cung, hoặc nếu đẻ ra thì cũng chết trong tuần đầu với tỷ lộ cao.
– Thai dị dạng
Benh.vn
Bài viết Nhóm thai nghén nguy cơ cao đối với mẹ và bé đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Quá trình hình thành các bộ phận của thai nhi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Để giải đáp cho thắc mắc này, các nhà khoa học của Mỹ đã ghi lại những hình ảnh kỳ diệu về sự hình thành và phát triển các cơ quan của bé.
Quá trình thụ thai đã diễn ra và một quả bóng bé xíu xiu, tập hợp của các tế bào đang không ngừng phân chia và bám chắc vào dạ con. Khối tế bào này lớn rất nhanh và trở thành một phôi mầm
Phôi mầm lúc này đã trở thành một bào thai thực sự. Nó có cỡ một hạt đậu với xương sống và hệ thần kinh nguyên thủy đã hình thành. Bào thai đã có một hệ huyết mạch riêng và có thể thuộc một nhóm máu khác với nhóm máu của mẹ. Những mạch máu sẽ trở thành dây cuống rốn và trên phôi mầm những chiếc chồi bé xíu bắt đầu “nảy ra” (khởi thủy của các chi – chân, tay – sau này).
Đặc điểm khuôn mặt bé dần hình thành.
Khuôn mặt bé rõ nét hơn những bộ phận cơ thể khác của bé cũng dần dần được hình thành như mắt, tai, phổi, gan, cằm. Các ngón tay của bé đã dần hình thành nhưng chưa thực hiện việc phân chia các kẽ ngón tay bé. Tim bắt đầu tượng hình
Trái tim của bé bắt đầu có những nhịp đập đầu tiên. Não của bé cũng bắt đầu tăng trọng lượng. Hệ thần kinh phát triển rất nhanh. Đầu lớn dần và mắt đang hình thành dưới da mặt. Tứ chi của bào thai đang phát triển không ngừng và đã ra dáng những bàn chân, bàn tay bé xíu. Tất cả các cơ quan nội tạng cũng đang phát triển và ngày càng phức tạp hơn. Những cử động môi của bé cũng được nhận diện dễ dàng hơn.
Ngón tay và ngón chân của bé bắt đầu phân chia. Đây cũng là thời điểm bé xuất hiện móng chân, móng tay.
Vai trò cung cấp dưỡng chất và đào thải các chất thải ra khỏi bào thai qua cuống rốn đã được thực hiện hoàn chỉnh. Thai nhi lúc này thực sự có hình dáng của một con người
Quý II: Khuôn mặt bé có nét tương tự với bé sơ sinh.
Các cơ trên mặt bé chuyển động nhiều hơn. Bé đã biết liếc mắt hoặc cau mày. Bé đã có các ngón chân và móng tay, có mi mắt. Toàn bộ người bé lúc này xuất hiện một lớp lông tơ và nó sẽ phát triển tới tận tuần cuối cùng trước khi chào đời.
Toàn cơ thể bé lúc này sẽ phủ một lớp sáp mỏng (còn gọi là chất gây) giúp bảo vệ làn da của bé khỏi môi trường nước ối hiệu quả hơn. Đồng thời, khung xương tiếp tục phát triển và xương sọ bắt đầu cứng lại nhưng chưa hoàn chỉnh (thóp sau này)
Tất cả các cơ quan, bộ phận trong cơ thể bé đã hoàn chỉnh và đây là giai đoạn phát triển chiều cao và cân nặng của thai nhi. Da dẻ của thai nhi sẽ không còn trong suốt nữa mà ngày càng “đục” dần (không còn nhìn thấy các mạch máu nhỏ dưới da), giống với tình trạng khi bé được sinh ra. Màu tóc của bé lúc này đã khá rõ ràng
Quý III: Mắt bé mở thường xuyên, đã phân biệt đươc sáng tối. Giai đoạn này, là giai đoạn phát triển về cân nặng và chiều cao. Tóc bé tiếp tục dài thêm. Nhiều bé chào đời với một bộ tóc dày mượt. Đầu bé đã vững vàng hơn và sẵn sàng lọt vào khung xương chậu.
Một phần xương ở bé bắt đầu hình thành trong những tuần đầu tiên. Đến tuần thứ 8, hệ xương của bé dần hoàn thiện, liên kết với nhau bằng sụn và hình thành khung xương.
– Tuần thứ 10: Xương sọ, xương cánh tay, ngón tay; xương bàn chân, ngón chân của bé đã hoàn thiện.
– Tuần thứ 13: Các mô xương bao quanh đầu bé bắt đầu xuất hiện. Đây cũng là giai đoạn để bé hình thành những chiếc sương xườn nhỏ.
– Tuần thứ 15: Tủy trong xương của bé đã hình thành.
– Tuần thứ 21: Tủy xương vận hành chức năng sản xuất hồng cầu. Lá lách và gan của bé cũng hình thành để hỗ trợ việc sản xuất hồng cầu trong thời điểm này.
– Tuần thứ 29: Hệ xương của bé đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy vậy, chúng còn khá mềm dẻo và dễ chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài. Hệ xương của bé tiếp tục hoàn thiện trong khoảng thời gian còn lại trong bụng mẹ, kể cả khi bé đã chào đời.
– Bé có thể chuyển động trên dưới 50 lần mỗi phút. Sự chuyển động này cũng là yếu tố để bác sĩ xem xét tình trạng phát triển của thai có ổn định không.
– Tuần thứ 4: Tế bào não của bé đã định hình. Não của bé bắt đầu sản xuất hàng tỷ nơron thần kinh trong suốt giai đoạn nằm trong bụng mẹ.
– Tuần thứ 14-16: Não đã có chức năng thúc đẩy hoạt động các cơ mặt của bé. Nhờ vậy, bé có khả năng liếc mắt, cau mày, chuyển động miệng. 5 giác quan là thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác và vị giác được định hình. Bé có thể nghe và nhận biết giọng nói, âm thanh bên ngoài bụng mẹ.
– Quý III: Não bé ngày một linh hoạt hơn. Hệ thần kinh của bé phát triển khá nhanh. Nó điều khiển các hoạt động ở bé như thở, tiêu hóa và nhịp đập ở tim.
Nguyên tắc để phát triển trí não cho bé: Bạn nên ăn khoảng 1,4mg axit béo omega 3 mỗi ngày. Loại axit này chứa nhiều trong cá, các loại rau có màu xanh sậm như rau cải… Bạn cũng nên bổ sung thêm axit folic (theo chỉ dẫn của bác sĩ) để giúp não bé phát triển toàn diện.
Benh.vn
Bài viết Quá trình hình thành các bộ phận của thai nhi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Sự hình thành và phát triển nang noãn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Các tế bào mầm nguyên thuỷ là các tiền thân sớm nhất của giao tử. Ở người, các tế bào mầm nguyên thuỷ có thể được nhận biết lúc thai 4 tuần tuổi ở nội bì túi noãn hoàng. Chúng di chuyển đến gờ sinh dục lúc 4-6 tuần tuổi, trong giai đoạn sớm của sự phát triển phôi.
Nang noãn trước rụng trứng trong buồng trứng
Sự nguyên phân: Các tế bào mầm nguyên thuỷ tiếp tục nhân lên qua sự nguyên phân trong quá trình di chuyển của chúng. Khi đến tuyến sinh dục, các tế bào mầm nguyên thuỷ này bắt đầu giai đoạn tăng sinh nguyên phân nhanh chóng. Những tế bào mầm nguyên phân tạo thành các noãn nguyên bào. Trong suốt giai đoạn này, mật độ tế bào mầm tăng lên theo cấp số mũ từ chỉ vài ngàn lên đến gần bảy triệu (khoảng 2 triệu noãn nguyên bào, 4.8 triệu noãn bào sơ cấp). Sau đó, số lượng các tế bào mầm giảm đi nhanh chóng còn khoảng 2 triệu vào lúc sinh.
Sự giảm phân: Khi các noãn nguyên bào hoàn thành lần phân chia tiền giảm phân cuối cùng, sẽ trở thành noãn bào và đi vào giảm phân, trước hết là noãn bào sơ cấp (lần giảm phân I) và sau đó là noãn bào thứ cấp (lần giảm phân II).
Trưởng thành về cấu trúc và chức năng của noãn
Lúc bắt đầu sự trưởng thành tiền phóng noãn trong nang Graaf, noãn vẫn còn là noãn bào sơ cấp. Khoảng ngày 13-14 chu kỳ kinh, thời điểm đạt đỉnh LH, tiếp tục quá trình giảm phân phá vỡ túi mầm (15 giờ sau đỉnh LH) và sự giảm phân I hoàn tất nhanh chóng, tạo hai tế bào con không giống nhau. Một tế bào lớn nhận hầu hết các bào tương, được gọi là noãn bào thứ cấp. Tế bào kia là một tế bào nhỏ không có chức năng gọi là thể cực thứ nhất.
Ngay sau khi thể cực thứ nhất bị đẩy ra, noãn bào thứ cấp đi vào giảm phân lần II, nhưng lại một lần nữa quá trình giảm phân lại ngừng trệ, đây là thời điểm trung kỳ II (35 giờ sau đỉnh LH). Nói chung, sự phóng noãn xảy ra khi noãn bào thứ cấp ở giai đoạn trung kỳ II. Block lần thứ hai của giảm phân được giải thoát khi noãn được thụ tinh với một tinh trùng.
Kích thước noãn trưởng thành khoảng 120µm. Trong giai đoạn lớn lên, các tế bào hạt bao xung quanh phân chia nguyên phân và noãn bào tổng hợp màng trong suốt của noãn. Đây là một cấu trúc phức tạp, có tác dụng bảo vệ noãn trong việc ngăn chặn đa tinh trùng thụ tinh và duy trì sự toàn vẹn của phôi trong giai đoạn sớm.
Sự hình thành và phát triển nang noãn: đảm bảo cho sự phát triển và biệt hoá của noãn, tạo môi trường ổn định xung quanh noãn cũng như hoạt động chế tiết hormone sinh dục giúp noãn trưởng thành, phóng noãn và giai đoạn hoàng thể.
Sự hình thành nang noãn: Các noãn bào được bao quanh bởi những lớp tế bào sinh dưỡng đặc hiệu gọi là các tế bào nang.
Một số các nang hoàn thành giai đoạn lớn lên gọi là nang tiền khoang (nang thứ cấp). Gonadotropins trong tuần hoàn chuyển các nang tiền khoang thành thành nang thật sự. Đỉnh LH sau đó gây ra sự tích luỹ dịch nhanh chóng lúc này gọi là giai đoạn tiền phóng noãn (nang De Graff) – khoảng 36 giờ đặc trưng bởi một khoang chứa đầy dịch nang.
Nang noãn trưởng thành tiền phóng noãn
Sự phóng noãn là một quá trình giải phóng noãn có khả năng thụ tinh từ một nang noãn. Thời gian phóng noãn rất thay đổi trong từng chu kỳ kinh, ngay cả trên cùng một người phụ nữ. Ước tính thời gian phóng noãn là 34-38 giờ sau đỉnh LH. Đỉnh LH khởi phát một chuỗi các biến cố:
– Đỉnh LH kích thích sự tiếp tục phân chia giảm phân của noãn, hoàng thể hoá các tế bào hạt, tổng hợp progesterone và prostaglandin bên trong nang.
– Progesterone làm tăng hoạt động các men ly giải, cùng với prostaglandin làm vỡ thành nang.
– Đỉnh FSH giữa chu kỳ góp phần làm chuyển plasminogen thành plasmin là men ly giải, và đảm bảo đầy đủ thụ thể LH trên tế bào hạt để tạo giai đoạn hoàng thể bình thường.
Benh.vn ( Theo BV ĐH Y Dược Huế)
Bài viết Sự hình thành và phát triển nang noãn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Các giai đoạn phát triển của thai nhi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Giai đoạn phát triển của thai nhi: Thai nhi 2 tuần tuổi
Thai nhi phát triển qua nhiều giai đoạn. Ví dụ: Não và tim bắt đầu phát triển trước đường tiêu hóa, bộ xương và các cơ. Những chi tiết như tóc và mi mắt xuất hiện chậm hơn nhiều. Nếu có một yếu tố nào làm ảnh hưởng đến giai đoạn phát triển như cảm cúm, thuốc uống hay các chất có hại thì sự tổn thương sẽ xảy ra.
Ví dụ: Ngón tay, ngón chân được hình thành từ tuần lễ thứ sáu đến thứ tám của thai kỳ. Nếu có điều gì đó can thiệp vào sự phát triển này thì chúng sẽ không sửa chữa được sau này. Phần lớn các giai đoạn phát triển các cơ quan quan trọng diễn ra trong vòng 12 tuần đầu vì thế phôi đang phát triển có thể bị tổn hại nghiêm trọng bởi thuốc uống hay bệnh trong thời gian này. Một khi các bộ phận và các hệ bộ phận ở đúng vị trí, chúng ít khi bị tổn hại nữa. Ðó là điều tại sao một số bệnh cúm xảy ra trong 12 tuần đầu có thể dẫn đến những sự bất thường nghiêm trọng.
Benh.vn
Bài viết Các giai đoạn phát triển của thai nhi đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>