Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Fri, 07 Apr 2023 07:09:32 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Các xét nghiệm chẩn đoán ung thư https://benh.vn/cac-xet-nghiem-chan-doan-ung-thu-1886/ https://benh.vn/cac-xet-nghiem-chan-doan-ung-thu-1886/#respond Fri, 07 Apr 2023 04:03:34 +0000 http://benh2.vn/cac-xet-nghiem-chan-doan-ung-thu-1886/ Việc chẩn đoán ung thư sớm và kịp thời là rất quan trọng để có hướng điều trị đúng cho bệnh nhân. Hiện nay, các xét nghiệm chẩn đoán ung thư (tumor marker) được áp dụng rất rộng rãi.

Bài viết Các xét nghiệm chẩn đoán ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Ung thư (K) là một trong các bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất. Ung thư ở những nơi khác nhau có tỷ lệ tử vong khác nhau tùy theo nơi nó phát sinh như: K phổi, K vú, K đại tràng, K vòm họng, K bàng quang, K gan… Việc chẩn đoán sớm và kịp thời rất quan trọng để có hướng điều trị đúng cho bệnh nhân. Hiện nay, các xét nghiệm chẩn đoán ung thư (tumor marker) được áp dụng rất rộng rãi.

Ung thư là nỗi khiếp sợ của con người

Các yếu tố gây ung thư

– Các chất hóa học như hydrocarbua đa vòng (HCPC)

– Yếu tố vật lý như tia X, tia gamma,…

– Yếu tố sinh học như virut gây viêm gan B (HBV), virut gây viêm gan C (HCV). HBV, HCV là 2 virut có khả năng gây ung thư gan nguyên phát.

Chẩn đoán bệnh ung thư

Các bác sĩ có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp vật lý, phương pháp giải phẫu bệnh và phương pháp hóa sinh thông qua việc xác định dấu ấn ung thư “ Tumor marker”. Mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm riêng:

  • Phương pháp giải phẫu bệnh cung cấp cho chúng ta thông tin “vàng” về khối u, nhưng hạn chế về mặt tâm lý, đau khi chọc hút sinh thiết.
  • Phương pháp hóa sinh “enzym-miễn dịch” xác định chính xác các Tumor marker, chỉ cần lấy máu hoặc nước tiểu để xét nghiệm nên dễ dàng hơn và cũng cho chính xác bản chất bệnh ung thư mà không gây đau nhiều cho bệnh nhân.

Tumor marker – dấu ấn ung thư – chất chỉ điểm bệnh ung thư

Tumor marker gồm những chất có bản chất như:

  • Là chất do tế bào K sinh ra, được đưa vào máu như AFP, CEA, CA-125, CYFRA 21-1…
  • Là hormon như (-HCG hoặc là chất chuyển hóa như CPR (Protein C hoạt động), LDH, GGT.

Cơ chế gây ung thư:

Các chất hóa học (như HCPC), các yếu tố vật lý (như tia X, tia (, () có thể làm thay đổi bộ máy thông tin di truyền ở người, biến đổi gen tiền ung thư  (Proto-oncogen) thành gen ung thư (Oncogen = gen K). Virut đưa thông tin của chúng vào cơ thể, hợp nhất với thông tin của tế bào người, tổng hợp ADN theo mã thông tin virut, kết quả là tổng hợp nên ADN, ARN của virut trong tế bào người.

Tiêu chuẩn của các xét nghiệm chẩn đoán ung thư

1. Các marker để chẩn đoán bệnh ung thư  có một số tiêu chuẩn sau:

  • Đặc hiệu tổ chức, khác với phân tử do tế bào lành (bình thường) tổng hợp ra.
  • Đặc hiệu cơ quan, chỉ điểm được cơ quan bị ung thư.
  • Dễ lấy, bảo quản các bệnh phẩm như huyết tương, nước tiểu.
  • Có độ nhạy cao và phản ánh được tiến triển của khối u.
  • Phát hiện được ở nồng độ thấp do đó có khả năng phát hiện sớm (chẩn đoán sớm) được bệnh.

2. Lượng Tumor marker cho phép theo dõi:

  • Tiến triển của bệnh.
  • Hiệu quả điều trị.
  • Tiên lượng tình trạng bệnh nhân.

Ưu điểm của các xét nghiệm chẩn đoán ung thư (Tumor marker)

– Đặc hiệu cho ung thư (vị trí khu trú).

– Nồng độ Tumor marker tỷ lệ với thể tích khối u.

– Phát hiện được từ giai đoạn sớm của bệnh.

– Xác định được một cách chính xác nồng độ Tumor marker.

Phương pháp enzyme – miễn dịch xác định Tumor marker (phương pháp Sandwich)

Marker là một kháng nguyên được chêm (kẹp) giữa 2 kháng thể đơn dòng. Kháng thể thứ nhất được gắn vào thành ống nghiệm, kháng thể thứ 2 được gắn với chất phát tin (chất đồng vị phóng xạ, chất huỳnh quang hoặc là enzym), nên khi có kháng nguyên do tế bào K tiết ra trong huyết tương thì kháng thể sẽ kẹp lấy, tạo thành phản ứng kháng nguyên–kháng thể, phức hợp KN-KT này sẽ được phát hiện nhờ chất phát tín hiệu: tia phóng xạ với chất phát tín là phóng xạ, phát ánh sáng huỳnh quang nếu chất phát tín hiệu là chất huỳnh quang, nếu chất phát tín hiệu là enzym thì nhờ phản ứng enzym – màu để xác định. Thường dùng enzym peroxidase (POD) để phân hủy H2O2 thành H2O và oxy, oxy này oxy hóa một chất không màu thành chất có màu, cường độ màu tỷ lệ với nồng độ phức hợp KN-KT, tức là tỷ lệ với nồng độ kháng nguyên cần xác định.

Kỹ thuật xác định Tumor maker theo phương pháp này có thể tóm tắt như sau (Hình 1):


Hình 1: Phư­ơng pháp Sandwich

1. Pha rắn      2. Kháng thể đơn dòng I.      3. Kháng nguyên (Tumor Marker).      4. Kháng thể II và chất phát tin (phóng xạ hay huỳnh quang hoặc enzym).

(1) Pha rắn (Steptavidin) – một lớp tráng gắn vào mặt trong thành ống nghiệm.

(2) Kháng thể đơn dòng I – gắn vào thành ống nghiệm.

(3) Kháng nguyên (Tumor Marker) – có trong huyết tương do tế bào K tiết ra, lúc đó kháng thể I gắn với kháng nguyên tạo phức hợp KN – KT (nhưng chưa phát hiện được).

(4) Kháng thể II gắn chất phát tin (phóng xạ, huỳnh quang, enzym) sẽ kết hợp với phần KN thích hợp. Như vậy, 2 kháng thể đã kẹp kháng nguyên vào giữa (Sandwich), lúc này phức hợp KN-KT nhờ chất phát tín mà ta có thể phát hiện và xác định được.

Phương pháp hóa sinh thư­ờng dùng chất phát tin là enzym và phản ứng phát hiện kháng nguyên-kháng thể như sau:

  • KN-KT-enzym

(POD)

  • H2O2 -> H2O +  [O] (POD là xúc tác của phản ứng này)
  • Chất không màu -> Chất màu.

Trong đó: POD là peroxidase.

Sau khi thực hiện phản ứng cần rửa bỏ kháng thể thừa, chỉ còn phức hợp KN-KT-chất phát tín hiệu. Hiện nay kỹ thuật mới TRACE (time resolved amplified criptate emission) không cần giai đoạn phải tách rửa do dùng fluorophore gắn với kháng thể đặc hiệu.

Một số Tumor Marker để chẩn đoán bệnh ung thư

Có thể tham khảo các Tumor Marker chẩn đoán bệnh ung thư theo bảng 1 dưới đây.

Bảng 1: Một số Tumor marker chẩn đoán bệnh ung thư.

Tumor Marker Bệnh ung thư
AFP ( Alphafoeto- protein)
(Bình thường < 10 ng/ml)
Ung thư gan
CEA (Carcino- Embrionic antigen)
(Bình thường  < 10 ng/ml)
Ung thư trực tràng
CA15-3 (Cancer antigen 15-3)
(Bình thường < 30 U/l)
Ung thư  vú
CA 125 (Cancer Antigen 125)
(Bình thường < 35 U/l)
Ung thư buồng trứng
CYFRA21-1 (Cytokeratin19 fragment)
(Bình thường < 1,8 ng/ml)
Ung thư phổi
PSA và FPSA (Prostate specific antigen)
Bình thường: < 50 tuổi < 1,5 ng/ ml
> 50 tuổi  > 5 ng/ ml
Ung thư tuyến tiền liệt
CSC (Squamous cell carcinoma) // CYFRA21-1
CA72-4 // CA 19- 9, CEA
Calcitonin // CEA
TPA (Tissue polypeptide antigen)
CA 19- 9 // CEA; SCC // CYFRA21- 1
CA 19- 9 // CEA, CA 50
(-HCG, AFP
Ung thư tai-mũi-họng
Ung thư dạ dày
Ung thư tuyến giáp
Ung thư bàng quang
Ung thư thực quản
Ung thư tụy
Ung thư tinh hoàn

Trên đây là một số xét nghiệm chẩn đoán ung thư phổ biến hiện nay đang được thực hiện tại nhiều cơ sở y tế để độc giả tham khảo. Tùy theo mức độ nghi ngờ, tùy theo khả năng kinh tế mà chúng ta có thể lựa chọn những dịch vụ phù hợp. Tốt nhất nên thăm khám tổng quát và xin tư vấn của chuyên gia cho từng đối tượng trước khi thực hiện.

Bài viết Các xét nghiệm chẩn đoán ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-xet-nghiem-chan-doan-ung-thu-1886/feed/ 0
Xét nghiệm sinh hóa Alpha Fetoprotein (AFP) trong máu https://benh.vn/xet-nghiem-sinh-hoa-alpha-fetoprotein-afp-trong-mau-4426/ https://benh.vn/xet-nghiem-sinh-hoa-alpha-fetoprotein-afp-trong-mau-4426/#respond Fri, 04 May 2018 05:03:22 +0000 http://benh2.vn/xet-nghiem-sinh-hoa-alpha-fetoprotein-afp-trong-mau-4426/ Alpha-fetoprotein (AFP) là một glycoprotein bình thường được sản xuất trong khi có thai trong túi noãn hoàng (yolk sac) và gan của bào thai. Nếu thai phát triển bình thường, nồng độ AFP được tìm thấy trong huyết thanh của mẹ sẽ tăng lên, chỉ một lượng không đáng kể AFP vẫn còn lại trong dòng tuần hoàn sau sinh.

Bài viết Xét nghiệm sinh hóa Alpha Fetoprotein (AFP) trong máu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Alpha-fetoprotein (AFP) là một glycoprotein bình thường được sản xuất trong khi có thai trong túi noãn hoàng (yolk sac) và gan của bào thai. Nếu thai phát triển bình thường, nồng độ AFP được tìm thấy trong huyết thanh của mẹ sẽ tăng lên, chỉ một lượng không đáng kể AFP vẫn còn lại trong dòng tuần hoàn sau sinh.

AFP cũng được coi như một chất chỉ điểm (marker) u đối với một số loại ung thư (nhất là ung thư gan nguyên phát). Nồng độ AFP (hay á-FP) trong huyết thanh thường tăng cao ở các bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan (hepatocellular carcinoma [HCC]). Chất chỉ điểm u này cũng được tìm thấy ở một số bệnh nhân bị ung thư tinh hoàn và buồng trứng do các tế bào ung thư được đặc trưng điển hình bằng các tế bào không được biệt hóa, vì vậy các tế bào này thường vẫn tiếp tục mang các chất chỉ điểm bề mặt (surface markers) tương tự như các chất chỉ điểm được tìm thấy ở bào thai.

Khi nồng độ AFP càng cao, khả năng có ung thư càng lớn.

Chỉ định xét nghiệm

Để chẩn đoán ung thư tế bào gan nguyên phát.

Để chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào mầm (germ cell carcinoma) không phải là tế bào mầm sinh dục.

Để sàng lọc các khuyết tật ống thần kinh (neural tube defects) của bào thai như tật nứt đốt sống (spina bifida) và quái thai không não (anencephaly).

Để theo dõi điều trị các bệnh nhân đang được điều trị ung thư (nhất là ung thư tế bào gan, u buồng trứng và tinh hoàn).

Cách lấy bệnh phẩm

Xét nghiệm được thực hiện trên huyết thanh. Không nhất thiết yêu cầu BN cần phải nhịn ăn trước khi lấy máu làm XN.

Giá trị bình thường

  • Nam giới và phụ nữ không có thai: < 40 mg/L hay < 7,75 ́g/L.
  • Phụ nữ đang có thai: Các phòng xét nghiệm sẽ cung cấp các giá trị quy chiếu bình thường tùy theo tuổi thai.

Tăng nồng độ alpha-fetoprotein máu

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

– Ung thư tế bào gan tiên phát (primary hepatocellular carcinoma).

– Các bệnh lý gan – mật lành tính:

  • Xơ gan mật.
  • Viêm gan cấp do virus, viêm gan mạn tiến triển.

– Các ung thư đường tiêu hóa có kèm theo hay không kèm theo di căn gan:

  • Ung thư đại tràng.
  • Ung thư dạ dày.
  • Ung thư tụy.

– Các ung thư khác có thể gặp:

  • Ung thư vú.
  • Ung thư phổi.
  • Ung thư thận.
  • Ung thư tinh hoàn.
  • U quái ác tính (teratocarcinoma).

– Suy thai (fetal distress).

– Các khuyết tật ống thần kinh của thai (fetal neural tube defect).

– Đa thai (multiple fetuses).

– Các nguyên nhân khác:

  • Dị tật bẩm sinh dãn mao mạch thất điều (ataxia telangiectasia).
  • Tăng nồng độ tyrosin máu di truyền (hereditary tyrosinemia).

Giảm nồng độ alpha – fetoprotein máu

Các nguyên nhân chính thường gặp là:

– Hội chứng Down.

– Thai chết lưu.

Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm

Mẫu bệnh phẩm bị vỡ hồng cầu có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm.

Lợi ích của xét nghiệm định lượng alpha-fetoprotein máu

1. Xét nghiệm rất hữu ích trong chẩn đoán ung thư gan nguyên phát. Một nồng độ alpha-fetoprotein > 500 g/L khẳng định gần như chắc chắn BN bị ung thư gan. Chấp nhận một giá trị “điểm cắt” thấp hơn cho phép làm tăng độ nhạy nhưng làm giảm độ đặc hiệu trong chẩn đoán do có nhiều bệnh lý khối u đường tiêu hóa và ngoài đường tiêu  hóa (Vd: u nguyên bào võng mạc) và các tình trạng đi kèm với tái tạo tế bào gan (Vd: giai đoạn phục hồi sau viêm gan cấp, cắt một phần gan, viêm gan mạn…). Cũng có thể kết hợp với tăng nồng độ alphafetoprotein máu.

Một nghiên cứu bệnh -chứng đã đánh giá đặc trưng chẩn đoán của nồng độ AFP huyết thanh để sàng lọc tình trạng ung thư tế bào gan nguyên phát (HCC) ở các bệnh nhân bị bệnh gan mạn thuộc các loại khác nhau. Các độ nhạy và độ đặc hiệu sau được ghi nhận:

  • Khi chọn điểm cut-off của AFP là 16g/L: Độ nhạy đạt 62%, độ đặc hiệu đạt 89%).
  • Khi chọn điểm cut-off của AFP là 20g/L: Độ nhạy đạt 60%, độ đặc hiệu đạt 91%).
  • Khi chọn điểm cut-off của AFP là 100g/L: Độ nhạy đạt 31%, độ đặc hiệu đạt 99%).
  • Khi chọn điểm cut-off của AFP là 200g/L: Độ nhạy đạt 22%, độ đặc hiệu đạt 99%).

2. Định lượng nồng độ alpha-fetoprotein cũng có thể được sử dụng để đánh giá đáp ứng với điều trị ung thư.

3. Xét nghiệm được sử dụng chủ yếu để sàng lọc sự hiện diện của các khuyết tật ống thần kinh bào thai:

– Xét nghiệm được làm trong khoảng thời gian từ tuần 15 đến tuần 20 khi mang thai, không  giúp chẩn đoán một cách tuyệt đối đúng một khuyết tật khi sinh. Tuy nhiên, nếu thấy nồng độ alpha-fetoprotein tăng cao bất thường, cần phải làm các XN bổ sung khác (Vd: siêu âm thai và định lượng alpha-fetoprotein trong dịch ối).

– Hiện tại, ở nhiều cơ sở điều trị, xét nghiệm định lượng nồng độ alphafetoprotein khi có thai được kết hợp với định lượng nồng độ estriol và hCG (human chorionic gonadotropin). Bộ ba xét nghiệm kết hợp này được biết với tên gọi “triple marker”. Đánh giá nồng độ của cả ba chất này giúp sàng lọc các khuyết tật ống thần kinh của bào thai (neural tube defects), hội chứng ba nhiễm sắc thể 18 (trisomy 18) và hội chứng Down (trisomy 21). Xác định chính xác tuổi thai là điều cốt lõi để bảo đảm kết quả xét nghiệm chính xác, do nồng độ của các chất này thay đổi theo tuổi thai. Phương pháp chính xác nhất để đánh giá tuổi thai là siêu âm thai. Nếu không thể thực hiện được phương pháp này, có thể tính tuổi thai dựa vào chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Phải nhấn mạnh là chỉ nên coi xét nghiệm này (và cả “triple marker”) như một phương pháp sàng lọc, các kết quả XN âm tính không đủ đảm bảo chắc chắn trẻ sinh ra sẽ không bị khuyết tật.

4. Để theo dõi điều trị các bệnh nhân đang được điều trị ung thư (nhất là ung thư tế bào gan, u buồng trứng và tinh hoàn):

– Định lượng nồng độ AFP trong huyết thanh kết hợp với theo dõi nồng độ hCG đã được coi như một phác đồ được phê chuẩn trong theo dõi các bệnh nhân bị ung thư tinh hoàn không thuộc loại tế bào mầm sinh dục (nonseminomatous testicular cancer).

– Theo dõi tốc độ thanh thải AFP khỏi huyết thanh của bệnh nhân sau điều trị là một chỉ số đánh giá hiệu quả điều trị.

– Tốc độ phát triển của khối u ác tính tiến triển có thể được theo dõi bằng cách định lượng nồng độ AFP huyết thanh theo seris diễn biến qua thời gian.

Các hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên y học bằng chứng

– Đánh giá nồng độ alpha-fetoprotein huyết thanh của mẹ là một XN sàng lọc hữu hiệu để phát hiện các khuyết tật ống thần kinh của bào thai và nên được khuyến cáo áp dụng cho tất cả các phụ nữ có thai.

– Các phụ nữ có tăng nồng độ alpha-fetoprotein huyết thanh cần được chỉ định làm thêm các XN và khám siêu âm chuyên khoa để đánh giá sâu hơn về nguy cơ bị các khuyết tật ống thần kinh của thai.

Các cảnh báo lâm sàng

– Khi nồng độ alpha-fetoprotein được thấy cao bất thường, cần chỉ định tiến hành các XN bổ sung (Vd: siêu âm thai và định lượng alpha-fetoprotein trong nước ối).

– Đối với các phụ nữ thuộc nhóm nguy cơ, nên bổ sung thêm acid folic (400 g/ngày) khi có thai, điều trị này giúp làm giảm nguy cơ đối với thai bị các khuyết tật ống thần kinh.

– AFP không được khuyến cáo như một test sàng lọc chuẩn để phát hiện sớm ung thư  trong quần thể người bình thường. Xét nghiệm này được chỉ định chủ yếu như một test hỗ trợ cho chẩn đoán và theo dõi các khối u sản xuất AFP. Chẩn đoán ung thư cần được khẳng định bằng các xét nghiệm hoặc các thủ thuật chuẩn hóa khác.

– Nồng độ AFP trong huyết thanh không có mối tương quan chặt với các đặc điểm lâm sàng của ung thư tế bào gan nguyên phát, như kích thước u, giai đoạn bệnh và thậm chí tiên lượng.

– Tăng nồng độ AFP đạt mức dương tính giả có thể xẩy ra ở các bệnh nhân có khối u đường tiêu hóa hoặc bị tổn thương gan nặng (Ví dụ: xơ gan, viêm gan hoặc lạm dụng thuốc và rượu).

– Khi giá trị AFP không trở lại mức bình thường sau khi đã phẫu thuật cắt bỏ u được 1 tháng gợi ý khối u vẫn còn tồn dư ở mức nào đó. Trái lại, tăng trở lại giá trị AFP sau khi đã thuyên giảm có thể gợi ý u tái phát; song các u khởi thủy sản xuất AFP có thể tái xuất hiện mà không thấy có tăng nồng độ AFP.

Benh.vn

Bài viết Xét nghiệm sinh hóa Alpha Fetoprotein (AFP) trong máu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/xet-nghiem-sinh-hoa-alpha-fetoprotein-afp-trong-mau-4426/feed/ 0