Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Sun, 08 Oct 2023 07:07:49 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Chữa, dự phòng bệnh viêm quanh răng https://benh.vn/chua-du-phong-benh-viem-quanh-rang-4256/ https://benh.vn/chua-du-phong-benh-viem-quanh-rang-4256/#respond Thu, 05 Oct 2023 04:52:51 +0000 http://benh2.vn/chua-du-phong-benh-viem-quanh-rang-4256/ Bệnh viêm quanh răng (hay còn gọi là bệnh nha chu) gây tổn thương lợi, các dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng dẫn đến hiện tượng đau nhức lợi, hôi miệng, thậm chí dẫn đến mất răng. Muốn điều trị dứt điểm bệnh, cần đi từng bước có thứ tự và hợp lý với những biện pháp nhằm loại bỏ những triệu chứng và dấu chứng của bệnh, phục hồi sức khỏe cho mô nha chu. Tùy theo từng hình thể lâm sàng ta có kế hoạch điều trị cụ thể.

Bài viết Chữa, dự phòng bệnh viêm quanh răng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh viêm quanh răng (hay còn gọi là bệnh nha chu) gây tổn thương lợi, các dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng dẫn đến hiện tượng đau nhức lợi, hôi miệng, thậm chí dẫn đến mất răng. Muốn điều trị dứt điểm bệnh, cần đi từng bước có thứ tự và hợp lý với những biện pháp nhằm loại bỏ những triệu chứng và dấu chứng của bệnh, phục hồi sức khỏe cho mô nha chu. Tùy theo từng hình thể lâm sàng ta có kế hoạch điều trị cụ thể.

1. Viêm nướu

  • Hướng dẫn vệ sinh răng miệng
  • Điều trị các sang thương cấp tính
  • Cạo cao răng trên và  ưới nướu
  • Loại bỏ các vị trí gây tích lüy tập trung mảng bám răng: sửa chữa những yếu tố tại chỗ gây bất thường cho mô nha chu (miếng trám dư, phục hình sai..).
  • Xử lý bề mặt gốc răng hay cạo láng gốc răng
  • Điều trị tạm thời các răng sâu
  • Nhổ những răng bất lợi hay không còn hy vọng điều trị bảo tồn.

2. Viêm nha chu phá hủy và suy nha chu

Là bệnh không hoàn nguyên vì thế mục đích của việc điều trị là chặn đứng sự phát triển của bệnh.

Kế hoạch cụ thể: bao gồm điều trị viêm nướu (từ bước 1 đến bước 7) phối hợp điều trị nha chu:

  • Cố định các răng lung lay và di chuyển
  • Mài điều chỉnh khớp cắn
  • Phẫu thuật nha chu
  • Phục hình các răng mất
  • Hẹn tái khám để điều trị duy trì (3 – 4 tháng một lần)

3. Dự phòng bệnh nha chu

Mục đích của việc dự phòng bệnh nha chu là bảo vệ răng cho từng người hoặc cho nhiều người trong cộng đồng để răng tồn tại suốt đời càng nhiều răng càng tốt.

Chúng ta biết, nguyên nhân của bệnh nha chu là mảng bám vi khuẩn, mảng bám gây ra viêm nướu và từ đó mới phát triển thành nhiều hình thức bệnh nha chu khác. Loại bỏ mảng bám để điều trị viêm nướu hay để phòng ngừa viêm nướu phải là mục tiêu chính của mọi biện pháp dự phòng bệnh nha chu.

Dự phòng cấp 0

Phối hợp với các cấp chính quyền, các ngành nâng cao mức sống của nhân dân trong cộng đồng về mặt văn hóa xã hội kinh tế. Tuyên truyền phòng bệnh (chải răng kỹ sau khi ăn, chế độ  inh  ưỡng thích hợp, không ăn vặt…).

Dự phòng cấp 1

Khi bệnh chưa xảy ra

  • Giáo dục sức khỏe để cải thiện vệ sinh răng mệng: hướng dẫn phương pháp chải răng; cách  ùng chỉ nha khoa, tăm xỉa răng, xoa nắn nướu.
  • Khám răng và cạo cao răng định kỳ, phát hiện sớm những tổn thương.
  • Trám răng sâu, sửa chữa những phục hình sai, miếng trám sai kỹ thuật, sửa chữa những thói quen xấu như mút tay, cắn chỉ.

Dự phòng cấp 2

Khi bệnh đã xảy ra

  • Điều trị những dấu hiệu hoặc triệu chứng đầu tiên của bệnh nha chu nhằm ngăn chặn bệnh phát triển. Dự phòng cấp 2 cüng bao gồm việc giáo dục sức khỏe hướng dẫn vệ sinh răng miệng, cạo cao răng trên nướu và  ưới nước và điều trị túi nha chu nông.
  • Khám răng định kỳ, kết hợp với chụp phim X-quang.

Dự phòng cấp 3

Ðiều trị phục hồi tránh tái phát bao gồm: phẫu thuật nha chu, phục hình các răng đã mất, mài điều chỉnh khớp cắn.

Bài viết Chữa, dự phòng bệnh viêm quanh răng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chua-du-phong-benh-viem-quanh-rang-4256/feed/ 0
Viêm lợi răng khôn bao lâu thì hết và cách phòng tránh https://benh.vn/viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-83707/ https://benh.vn/viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-83707/#respond Sat, 19 Aug 2023 17:45:43 +0000 https://benh.vn/?p=83707 Viêm lợi răng khôn rất phổ biến ở những người đã, đang mọc răng khôn và khiến người bệnh đau đớn, khó chịu. Do vậy, không ít người bệnh thắc mắc viêm lợi răng khôn bao lâu thì hết. Bài viết dưới đây sẽ tổng hợp thông tin về cách điều trị và phòng ngừa […]

Bài viết Viêm lợi răng khôn bao lâu thì hết và cách phòng tránh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Viêm lợi răng khôn rất phổ biến ở những người đã, đang mọc răng khôn và khiến người bệnh đau đớn, khó chịu. Do vậy, không ít người bệnh thắc mắc viêm lợi răng khôn bao lâu thì hết. Bài viết dưới đây sẽ tổng hợp thông tin về cách điều trị và phòng ngừa hợp lý cho người bệnh.

viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-1
Viêm lợi răng khôn bao lâu thì hết và cách phòng tránh

Viêm lợi răng khôn là gì?

Răng khôn hay còn gọi là răng số 8, là răng cuối cùng mọc trên người và thường xuất hiện trong độ tuổi 18 – 25 tuổi. Răng khôn mọc muộn khi cấu trúc hàm đã hoàn chỉnh nên rất hay dẫn đến tình trạng viêm lợi và khiến người bệnh khó chịu.

Các triệu chứng điển hình của viêm lợi răng khôn:

  • Lợi quanh răng khôn và răng hàm gần đó sưng đỏ, dễ bị chảy máu, ấn đau và có thể chảy mủ khi nhiễm khuẩn nặng
  • Sưng to bên má bị viêm lợi răng khôn
  • Vùng răng khôn bị viêm và góc hàm xung quanh đau nhức và ê buốt kéo dài, có thể đau dữ dội 
  • Cứng hàm, gây khó khăn khi mở miệng để ăn uống, nói chuyện và gây chảy nước bọt nhiều
  • Người bệnh có thể sốt, nổi hạch góc hàm bị viêm và hôi miệng khi nhiễm trùng có mủ
viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-2
Triệu chứng của viêm lợi răng khôn

Trong trường hợp răng khôn mọc thẳng, đúng hướng, viêm lợi răng khôn có biểu hiện tương tự viêm lợi các răng vĩnh viễn thông thường. Thể viêm lợi răng khôn này có thể tự hết khi  người bệnh có các biện pháp vệ sinh răng miệng phù hợp.

Tuy nhiên, nếu răng khôn mọc lệch có thể khiến lợi viêm phì đại, trùm lên và bao phủ một phần răng, gọi là viêm lợi trùm răng khôn. Khi mọc răng khôn bị viêm lợi trùm, lợi ngăn chặn quá trình mọc của răng khiến răng chọc vào lợi, gây tổn thương nhiều hơn. Bởi vậy, tình trạng lợi trùm gây đau đớn kéo dài hơn so với viêm lợi thông thường và cần có sự can thiệp y khoa thích hợp.

Nguyên nhân gây viêm lợi răng khôn

Viêm lợi răng khôn có thể xuất phát trong hoặc sau quá trình mọc răng khôn. Cụ thể:

Quá trình mọc răng khôn

Răng khôn thường mọc ở độ tuổi cấu trúc hàm răng đã hoàn thiện nên hàm thường không đủ chỗ cho răng trồi lên. Vì vậy, khi răng khôn mọc lên sẽ chèn ép tổ chức lợi và răng xung quanh và rất dễ gây sưng tấy, viêm lợi quanh răng, khiến người bệnh đau đớn. Nhất là khi răng khôn mọc lệch, răng khôn sẽ chèn ép cả các răng hàm bên cạnh, dẫn đến viêm lợi cả những răng này.

Thông thường, cơn đau răng khôn chỉ xuất hiện trong những ngày đầu răng mọc và tự khỏi mà không cần can thiệp. Tuy nhiên, nếu các cơn đau xuất hiện liên tục, lợi viêm tấy nặng trong thời gian dài bạn, người bệnh cần tìm đến chuyên khoa răng hàm mặt để được các bác sĩ thăm khám và đưa ra các biện pháp điều trị phù hợp.

Bên cạnh đó, tình trạng viêm lợi do mọc răng khôn này cũng thường xuyên tái phát trong đời khi răng mọc theo nhiều giai đoạn và phối hợp sự phát triển của vi khuẩn.

viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-3
Viêm lợi răng khôn có thể xuất hịện trong quá trình mọc răng

Vi khuẩn gây viêm lợi răng khôn

Viêm lợi răng khôn do vi khuẩn có thể tự phát ở người bệnh vệ sinh răng miệng kém và suy giảm miễn dịch hoặc là đợt tái phát của quá trình mọc răng khôn trước đó. Các vi khuẩn phổ biến gây nên tình trạng này bao gồm Streptococcus, Fusobacterium, Actinomyces, Veillonella và Treponema spp.. 

Vi khuẩn dễ phát triển và gây bệnh khi người bệnh có những yếu tố nguy cơ như:

  • Răng khôn mọc lệch: Răng mọc lệch tạo ra những khe, kẽ giữa răng khôn và lợi hoặc răng hàm bên cạnh. Những vị trí này dễ tích tụ vụn thức ăn, cặn bẩn và khó vệ sinh, từ đó tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển.
  • Vệ sinh răng miệng kém: Vị trí răng khôn thường khó vệ sinh hơn so với các răng khác. Vì vậy, người bệnh vệ sinh răng miệng kém dễ gây hình thành cao răng bám trên bề mặt răng khôn. Vi khuẩn tích tụ một lượng lớn trong cao răng sẽ gây nên tình trạng viêm lợi. 
  • Suy giảm miễn dịch: Vi khuẩn dễ dàng tấn công và gây viêm lợi răng khôn ở những người bệnh có sức đề kháng kém như thiếu chất, phụ nữ có thai, người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc đang mắc các bệnh răng miệng, mũi họng như viêm họng mạn tính, viêm mũi xoang, sâu răng.
viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-4
Vi khuẩn gây bệnh ở những người có yếu tố nguy cơ thuận lợi

Viêm lợi ở răng khôn bao lâu thì hết?

Nhiều người khi mọc răng khôn thắc mắc không biết sưng nướu răng khôn bao lâu thì hết. Thông thường, viêm lợi trong quá trình răng khôn mọc có thể khỏi sau vài ngày răng mọc nếu không có vi khuẩn tấn công và răng mọc đúng hướng.

Tuy nhiên, các bác sĩ nha khoa luôn khuyến cáo người bệnh xử lý vấn đề này sớm do tỷ lệ tái phát và nguy cơ xảy ra biến chứng nguy hiểm rất cao. Những tình trạng sức khỏe bất lợi người bệnh có thể gặp phải khi bị viêm lợi quanh răng khôn:

  • Viêm lợi trùm răng khôn có mủ: Vi khuẩn phát triển mạnh khiến các tế bào miễn dịch tập trung nhiều ở phần lợi viêm, tạo nên ổ mủ chứa vi khuẩn, tế bào chế, dịch viêm và xác tế bào. Viêm lợi trùm răng khôn có mủ gây đau nhiều hơn và có thể tiến triển thành áp xe răng.
  • Viêm nha chu: Viêm lợi quanh răng khôn có thể lan sang những răng khác gây viêm lợi và viêm nha chu toàn hàm răng. Viêm nha chu dẫn đến tụt lợi và tiêu xương ổ răng, khiến răng lung lay và dễ rụng.
  • Rụng răng hàm: Răng hàm đóng vai trò chính trong chức năng nhai nuốt. Khi các tổ chức quanh răng khôn viêm sẽ gây tổn thương tới các mô nâng đỡ, dây chằng và xương ổ răng của răng hàm, khiến răng hàm dễ rụng. Rụng răng hàm có thể dẫn đến xô lệch cả hàm răng, tiêu xương hàm làm thay đổi cấu trúc mặt.
  • Giảm cảm giác và liệt một bên mặt: Răng khôn mọc lệch và lợi viêm có thể chèn ép lên hệ thống dây thần kinh xung quanh, dẫn tới giảm cảm giác ở môi, niêm mạc, da và tủy răng, thậm chí là liệt. 
  • Nhiễm trùng toàn thân: Vi khuẩn xâm nhập vào máu thông qua tổn thương ở khu vực răng khôn có thể gây nhiều bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như nhiễm trùng xoang hàm, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, viêm khớp,…

Bên cạnh đó, viêm lợi quanh răng khôn gây đau nhiều, khiến người bệnh rất khó chịu, mệt mỏi và ảnh hưởng đến cuộc sống và sức khỏe tinh thần. Vì vậy, người bệnh cần chú ý điều trị sớm tình trạng này.

viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-5
Biến chứng khi viêm nhiễm lợi ở răng khôn

Các phương pháp điều trị viêm lợi răng khôn

Đối với bệnh viêm lợi răng khôn, người bệnh cần tới ngay các cơ sở y tế để được bác sĩ thăm khám và đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Dưới đây là tổng hợp những cách chữa bệnh phổ biến:

Tiểu phẫu trị viêm lợi ở răng khôn

Khi răng khôn mọc lên gây tình trạng đau nhức, viêm lợi, các bác sĩ thường khuyến cáo người bệnh nhổ răng để dứt điểm bệnh sớm. Ngoài ra, tiểu phẫu cắt lợi trùm cũng được áp dụng khi người bệnh bị viêm lợi trùm răng khôn.

  • Cắt lợi trùm: Với người bệnh có răng khôn mọc thẳng và bị lợi trùm, nha sĩ thường sẽ chỉ định cắt lợi trùm để răng có thể mọc lên bình thường. Tuy nhiên biện pháp này không có hiệu quả vĩnh viễn do lợi trùm dễ tái phát lại.
  • Nhổ răng khôn: Răng khôn không có vai trò gì đối với chức năng ăn nhai. Vì vậy, đa số các trường hợp người bệnh sẽ được tư vấn nhổ răng khôn càng sớm càng tốt, đặc biệt với người có răng khôn mọc lệch, mọc ngầm. Nhổ răng khôn giúp điều trị dứt điểm bệnh và giảm thiểu tối đa mọi biến chứng. 

Các thủ thuật này có thể gây ảnh hưởng lên nhiều dây thần kinh hàm mặt xung quanh. Do vậy, người bệnh nên chọn các nha khoa, bệnh viện răng hàm mặt uy tín để thực hiện điều trị bằng các thủ thuật này.

viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-6
Các thủ thuật trị viêm lợi răng khôn

Dùng thuốc trị viêm lợi răng khôn

Điều trị viêm lợi răng khôn thường phối hợp cả biện pháp phẫu thuật và dùng thuốc. Ngoài ra, liệu pháp dùng thuốc có thể áp dụng đơn độc trong một số trường hợp răng khôn mọc thẳng và người bệnh muốn giữ răng.

Các thuốc trị viêm lợi răng khôn phổ biến:

  • Thuốc giảm đau, chống viêm: Paracetamol (chỉ giảm đau), Ibuprofen, Naproxen.
  • Kháng sinh: Metronidazole, Spiramycin, Azithromycin, Amoxicillin/Clavulanic, Clindamycin, Doxycyclin,…
  • Thuốc sát khuẩn tại chỗ: Chlorhexidine dạng bôi.
  • Thuốc chống phù nề: Alphachymotrypsin.
viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-7
Thuốc sử dụng trong điều trị viêm lợi răng khôn

Kết hợp chăm sóc sức khỏe răng miệng và sức khỏe tổng thể

Trong quá trình điều trị viêm lợi răng khôn, người bệnh cần chăm sóc sức khỏe răng miệng và sức khỏe tổng thể một cách cẩn thận để hỗ trợ cải thiện triệu chứng và phục hồi một cách tốt nhất. Các biện pháp chăm sóc được khuyến cáo:

  • Vệ sinh răng miệng thường xuyên và loại bỏ mảng bám, thức ăn tồn dư trong khoang miệng bằng tăm nước hoặc chỉ nha khoa. Tránh xịt thẳng nước vào vùng lợi đang viêm do có thể gây chảy máu và tổn thương lợi.
  • Súc miệng bằng nước súc miệng kháng khuẩn chứa Chlorhexidine, Povidon Iod hoặc Nano bạc thường xuyên. Tuy nhiên, Chlorhexidine và Povidon Iod có mùi vị khó chịu và không có tác dụng giảm viêm. Bởi vậy, người bệnh nhạy cảm với mùi vị và muốn cải thiện triệu chứng nhanh có thể lựa chọn các chế phẩm chứa Nano bạc chuẩn hóa như súc miệng họng PlasmaKare.
  • Bổ sung thực phẩm có tác dụng cải thiện viêm nhiễm tốt và tăng cường sức đề kháng cho cơ thể như gừng, tỏi, mật ong, thực phẩm giàu Kẽm, Vitamin C và Omega-3. 
  • Kiêng tuyệt đối các thực phẩm cay nóng, quá lạnh, thực phẩm chứa nhiều đường.
  • Sử dụng những loại thảo dược chứa Flavonoid, Tanin có tác dụng chống viêm mạnh như lựu, trà xanh và hoa cúc. Người bệnh có thể dùng các thảo dược này làm nước súc miệng hoặc sử dụng các chế phẩm kem đánh răng, gel bôi chứa chúng.
viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-8
Các biện pháp chăm sóc răng miệng và sức khỏe tổng thể

Phương pháp phòng ngừa viêm lợi răng khôn

Cách tốt nhất để ngăn ngừa viêm lợi răng khôn là vệ sinh răng miệng sạch sẽ, đi khám sức khỏe và lấy mảng bám răng định kỳ 6 tháng/lần. Đi khám sức khỏe răng miệng định kỳ cũng sẽ giúp bạn phát hiện sớm răng khôn mọc ngầm hoặc răng khôn có nguy cơ mọc lệch để can thiệp loại bỏ sớm. Ngoài ra, người bệnh cũng cần thực hiện lối sống lành mạnh khoa học để tăng cường sức đề kháng, giúp cơ thể chống chọi lại với các vi sinh vật gây bệnh. 

Các biện pháp phòng ngừa cụ thể: 

  • Đánh răng ít nhất 2 lần/ngày, dùng chỉ nha khoa và tăm nước loại bỏ thức ăn thừa trong kẽ răng
  • Súc miệng bằng nước muối hoặc nước súc miệng sát khuẩn
  • Xây dựng thực đơn dinh dưỡng khoa học, đủ chất
  • Tập luyện thể dục, thể thao ít nhất 30 phút mỗi ngày
  • Tránh ăn các thực phẩm cay nóng, đá lạnh, thực phẩm nhiều Acid, đồ ngọt và rượu bia, thuốc lá.
  • Điều trị dứt điểm các bệnh lý mũi họng
viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-9
Phương pháp phòng ngừa viêm lợi răng khôn

Tình trạng viêm lợi răng khôn rất phổ biến và có thể ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe thể chất và tâm lý của người bệnh nếu không được điều trị đúng cách. Hy vọng bài viết trên đây sẽ giúp người bệnh cải thiện và phòng ngừa tình trạng này hiệu quả.

Bài viết Viêm lợi răng khôn bao lâu thì hết và cách phòng tránh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/viem-loi-rang-khon-bao-lau-thi-het-va-cach-phong-tranh-83707/feed/ 0
Cách chữa nhiệt miệng dưới lưỡi hiệu quả, nhanh lành ngay tại nhà https://benh.vn/cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-83093/ https://benh.vn/cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-83093/#respond Wed, 26 Jul 2023 07:07:34 +0000 https://benh.vn/?p=83093 Nhiệt miệng dưới lưỡi là một triệu chứng phổ biến khiến nhiều người khó chịu và khó nuốt. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về nguyên nhân và cách chữa trị nhiệt dưới lưỡi tại nhà. Nhiệt miệng dưới lưỡi nguyên nhân do đâu Nhiệt dưới lưỡi là tình trạng xảy ra […]

Bài viết Cách chữa nhiệt miệng dưới lưỡi hiệu quả, nhanh lành ngay tại nhà đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nhiệt miệng dưới lưỡi là một triệu chứng phổ biến khiến nhiều người khó chịu và khó nuốt. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về nguyên nhân và cách chữa trị nhiệt dưới lưỡi tại nhà.

Cách chữa nhiệt miệng đưới lưỡi hiệu quả, nhanh lành ngay tại nhà

Nhiệt miệng dưới lưỡi nguyên nhân do đâu

Nhiệt dưới lưỡi là tình trạng xảy ra tổn thương và viêm loét ở niêm mạc lưỡi. Vết thương thường có màu trắng sữa, xung quanh có viền màu đỏ. 

Thông thường, nhiệt miệng dưới lưỡi sẽ tự khỏi sau khoảng 7-10 ngày. Tuy nhiên nó gây đau và ảnh hưởng tới ăn uống, vì vậy cần có những biện pháp để khắc phục tình trạng bị nhiệt dưới lưỡi. 

Dưới đây là một số nguyên nhân khiến cho bạn bị nhiệt miệng dưới lưỡi:

Vô tình cắn hoặc làm tổn thương lưỡi

Khi vô tình cắn vào lưỡi gây ra tổn thương, tạo điều kiện thuận lợi cho nấm, vi khuẩn tại khoang miệng tấn công, gây ra nhiệt miệng dưới lưỡi.

cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-2
Vô tình cắn hoặc làm tổn thương lưỡi

Thiếu dinh dưỡng gây nhiệt miệng ở dưới lưỡi

Thiếu dinh dưỡng có thể gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, trong đó bao gồm cả triệu chứng nhiệt dưới lưỡi. Các chất dinh dưỡng như vitamin B12, vitamin B9, vitamin B6, kẽm, sắt, vitamin C và các loại axit amin đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe niêm mạc miệng và họng. Nếu cơ thể thiếu hụt các chất dinh dưỡng này, niêm mạc miệng, lưỡi và họng sẽ dễ bị tổn thương, mất nước, dẫn đến việc hình thành các vết loét và triệu chứng nhiệt dưới lưỡi. 

Thói quen ăn uống không lành mạnh

Đồ ăn cay nóng, nhiều gia vị kích thích vị giác và tăng cảm giác ngon miệng, tuy nhiên đây lại là nguyên nhân khiến cho có thể bị nóng trong, nhiệt miệng

Việc ăn nhiều đồ ăn có vị chua như kim chi, dưa muối, cam, chanh, dứa, mận cũng rất dễ làm cho niêm mạc lưỡi bị tổn thương, gây ra tình trạng nhiệt ở dưới lưỡi. 

cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-3
Thói quen ăn uống không lành mạnh

Thay đổi nội tiết tố ở nữ giới

Sự thay đổi liên tục nồng độ hormone sinh dục, đặc biệt là Progesterone trong kỳ kinh nguyệt và thời kỳ mang thai ở phụ nữ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nóng trong và gây nhiệt miệng. 

Ngược lại, sự suy giảm hormone Estrogen trong giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh cũng có thể gây ra rối loạn quá trình điều nhiệt của cơ thể và những phản ứng sinh lý khác, gây nhiệt miệng.

Ngoài ra, vệ sinh răng miệng không tốt, căng thẳng stress, dị ứng với các sản phẩm chăm sóc răng miệng,… cũng có thể là nguyên nhân gây da bệnh nhiệt dưới lưỡi.

cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-4
Thay đổi nội tiết tố ở nữ giới

Nhiệt lưỡi có cảnh báo bệnh gì nguy hiểm không, khi nào cần thăm khám bác sĩ

Nhiệt miệng dưới lưỡi là bệnh lành tính, sẽ tự khỏi. Tuy nhiên nếu tình trạng nhiệt kéo dài quá lâu thì đây có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư miệng hoặc lưỡi. Vì vậy, nếu bạn có các biểu hiện dưới đây thì nên đến gặp bác sĩ ngay:

  • Vết loét bắt đầu lan rộng.
  • Vết loét có kích thước lớn bất thường.
  • Bị nhiệt lưỡi kéo dài hơn 2 tuần.
  • Vết loét gây cản trở việc ăn, uống hoặc các thói quen hàng ngày khác.
  • Có kèm theo sốt cao.

Cách chữa nhiệt miệng dưới lưỡi tại nhà

Để giảm nhanh chóng các triệu chứng khi bị nhiệt dưới lưỡi, bạn hãy áp dụng các biện pháp đơn giản dưới đây:

Vệ sinh răng miệng ngăn ngừa bị nhiệt ở dưới lưỡi

Tuy trong thời gian bị nhiệt lưỡi sẽ gây đau khi đánh răng nhưng việc vệ sinh răng miệng không được qua loa. Nếu răng miệng không được vệ sinh sẽ tạo điều kiện và môi trường cho sự phát triển của vi sinh vật, làm nặng thêm vết loét. 

Để hạn chế sự kích ứng lên vùng bị tổn thương, nên dùng kem đánh răng có các thành phần lành tính, dịu nhẹ. Bạn cũng nên đánh răng nhẹ nhàng bằng bàn chải lông mềm hoặc sử dụng chỉ nha khoa để vệ sinh sau các bữa ăn.

cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-5
Vệ sinh răng miệng ngăn ngừa bị nhiệt ở dưới lưỡi

Xịt họng PlasmaKare H-Spray

Xịt họng PlasmaKare H-Spray được bào chế từ các thành phần hoạt chất tự nhiên, tiên tiến và an toàn, bao gồm: chất sát trùng thế hệ mới Sanicompound (Phức chelat Kẽm – Đồng tỉ lệ vàng), chiết xuất lá Thường xuân nhập khẩu châu Âu, Ellagic acid (dịch chiết lựu), carrageenan (tảo đỏ) và hyaluronic acid. 

Các thành phần này có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus, giảm ho, giảm đờm, hỗ trợ chống viêm, tái tạo các tế bào da, niêm mạc bị tổn thương trong quá trình viêm nhiễm gây ra. Vì vậy có tác dụng trong trường hợp bị nhiệt dưới lưỡi. Đây là cách chữa nhiệt miệng an toàn, hiệu quả cho cả phụ nữ có thai và trẻ nhỏ.

cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-6
Xịt họng PlasmaKare H-Spray

Dùng nước súc họng miệng 

Súc miệng thường xuyên bằng các dung dịch sát khuẩn, chống viêm là một biện pháp phổ biến giúp nhanh chóng lành vết loét và ngăn ngừa tái phát. Súc họng bằng các sản phẩm chuyên dụng như Súc họng Nano bạc PlasmaKare, Betadine,… giúp nhanh lành vết tổn thương ở lưỡi. 

Trong đó, Súc họng miệng PlasmaKare là sự kết hợp tối ưu hiệu quả giữa phức hệ Nano bạc TSN độc quyền của thương hiệu Innocare Pharma với keo ong nhập khẩu từ Italia. 

  • Nano bạc chuẩn hoá: giúp kháng viêm, diệt khuẩn, đặc biệt có hiệu quả trên cả các vi khuẩn đa kháng thuốc. Bên cạnh đó, phức hệ Nano bạc TSN còn có tác dụng liền nhanh các vết loét.
  • Keo ong: giúp tăng cường khả năng kháng viêm, giảm sưng và phù nề niêm mạc.
cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-9
Dùng nước súc họng miệng chữa nhiệt lưỡi

Chế độ ăn uống khoa học, lành mạnh 

Các vết lở loét ở miệng lưỡi có thể do chế độ dinh dưỡng không hợp lý gây ra. Vì vậy để giảm tình trạng loét ở miệng, bạn cần điều chỉnh chế độ dinh dưỡng và bổ sung các thực phẩm cần thiết như sau:

  • Tăng cường bổ sung các thực phẩm, rau củ giàu vitamin B2, B6, B12, C, kẽm và sắt.
  • Hạn chế sự tiêu thụ đồ cay nóng, nhiều gia vị, đồ chua.
  • Không dùng rượu bia, cà phê trong khi đang bị nhiệt ở lưỡi tránh làm vết thương lâu khỏi.

Ngoài ra, bạn cũng có thể áp dụng thêm một số biện pháp chữa nhiệt miệng trong dân gian như: uống trà hoa cúc, dùng mật ong, giấm táo và dầu dừa,… 

Nhiệt miệng ở lưỡi nên ăn gì 

Điều chỉnh chế độ dinh dưỡng và bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết giúp ngăn ngừa và giảm tình trạng loét ở miệng lưỡi. Dưới đây là một số thực phẩm có thể giúp giảm đau và chữa lành vết loét miệng:

  • Trà đen: Chất tanin trong trà đen có khả năng giúp giảm đau do nhiệt miệng và đẩy nhanh quá trình chữa lành. Bạn có thể đắp túi trà đen ướt trực tiếp lên vết loét miệng hoặc uống khoảng 500-750ml trà đen mỗi ngày.
  • Sữa chua: Sữa chua chứa nhiều lợi khuẩn giúp chống lại các vi khuẩn trong miệng và giảm vết loét hiệu quả.
  • Cà rốt: Cà rốt chứa beta-carotene, một chất giúp chữa lành vết loét miệng hiệu quả. Bạn có thể ép cà rốt lấy nước uống để chữa nhiệt miệng dưới lưỡi.
  • Các loại đậu như đậu đen, đậu xanh có tính mát, giúp thanh nhiệt và chứa nhiều dinh dưỡng tốt cho sức khỏe, đặc biệt là giúp giảm nhanh triệu chứng nhiệt miệng. 
  • Bột sắn dây: chứa nhiều vitamin và khoáng chất tốt, giúp làm mát cơ thể và làm dịu cơn đau do viêm loét ở lưỡi gây ra. Uống bột sắn dây là bài thuốc trị nhiệt miệng được sử dụng từ rất lâu đến nay. 
  • Các loại rau xanh cung cấp vitamin và khoáng chất có tác dụng đẩy nhanh quá trình làm lành tổn thương, làm mát cơ thể và giúp đẩy lùi tình trạng nhiệt miệng, nhiệt lưỡi. 

Trên đây là một số thực phẩm có thể giúp giảm đau và chữa lành nhiệt miệng.

cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-8
Nhiệt miệng ở lưỡi nên ăn gì

Cách phòng tránh nhiệt miệng dưới lưỡi 

Để phòng tránh bị nhiệt ở lưỡi gây đau và khó chịu mỗi khi ăn uống, nên:

  • Bổ sung đủ nước mỗi ngày (khoảng 1,5-2 lít).
  • Ăn nhiều rau xanh và trái cây để bổ sung vitamin, khoáng chất.
  • Hạn chế tối đa việc tiêu thụ các đồ ăn cay nóng, dầu mỡ.
  • Vệ sinh răng miệng sạch sẽ, cẩn thận, nên dùng bàn chải có lông mềm để không làm tổn thương miệng.

Chăm sóc sức khỏe miệng và họng đúng cách không chỉ giúp bạn giảm thiểu triệu chứng nhiệt dưới lưỡi mà còn giúp duy trì một hệ thống miễn dịch mạnh mẽ và sức khỏe toàn diện cho cơ thể.

Bài viết Cách chữa nhiệt miệng dưới lưỡi hiệu quả, nhanh lành ngay tại nhà đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cach-chua-nhiet-mieng-duoi-luoi-hieu-qua-nhanh-lanh-ngay-tai-nha-83093/feed/ 0
Mẹo hay giúp đánh bật mùi hôi miệng không phải ai cũng biết https://benh.vn/meo-hay-giup-danh-bat-mui-hoi-mieng-3330/ https://benh.vn/meo-hay-giup-danh-bat-mui-hoi-mieng-3330/#respond Fri, 06 Jan 2023 22:33:44 +0000 http://benh2.vn/meo-hay-giup-danh-bat-mui-hoi-mieng-3330/ Hôi miệng và hơi thở có mùi hôi vốn được xem là vấn đề tế nhị, khó nói. Nó không chỉ khiến bạn mất tự tin trong giao tiếp mà còn là dấu hiệu cảnh báo về vấn đề sức khỏe của bạn.

Bài viết Mẹo hay giúp đánh bật mùi hôi miệng không phải ai cũng biết đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hôi miệng và hơi thở có mùi hôi vốn được xem là vấn đề tế nhị, khó nói. Nó không chỉ khiến bạn mất tự tin trong giao tiếp mà còn là dấu hiệu cảnh báo về vấn đề sức khỏe của bạn. Một số mẹo hay do benh.vn mách sẽ giúp bạn dễ dàng đánh bật nhanh mùi hôi miệng.

Vệ sinh răng miệng loại bỏ mùi hôi miệng

Cách trị hôi miệng đơn giản nhất là chăm sóc răng miệng tốt. Sâu răng, bệnh nướu răng có thể là nguyên nhân gây mùi hôi miệng. Vì vậy bạn nên đánh răng 2 lần một ngày và dùng chỉ tơ nha khoa ít nhất 1 lần một ngày để loại bỏ các mảng bám và vi khuẩn tích tụ trên răng và nướu đồng thời nên kiểm tra sức khỏe răng miệng định kỳ.

ve-sinh-rang-mieng-dung-cach
Vệ sinh răng miệng đúng cách giúp hạn chế đáng kể bệnh hôi miệng

Thêm nữa có thể dùng các loại nước súc miệng có tính diệt khuẩn cao nhằm tiêu diệt các vi khuẩn dễ sinh mùi, ít nhất súc miệng 1 ngày 1 lần. Trong số các loại nước súc miệng phổ biến hiện tại, các sản phẩm nước súc miệng có chứa Nano bạc  hoặc Chlohexidine thường được dùng hơn cả. Hiệu quả của các loại nước súc miệng diệt khuẩn thì phụ thuộc nhiều yếu tố, tuy nhiên, đa số nhận thấy nước súc miệng bạc nano thường dễ sử dụng hơn, không gây khó chịu như chế phẩm chứa Chlohexidine.

Làm sạch lưỡi giảm mùi hôi miệng

Bề mặt lưỡi là nơi lý tưởng sản sinh ra vi khuẩn có hại và là một trong những nguyên nhân gây hôi miệng nhưng hầu hết chúng ta lại bỏ qua khu vực này khi đánh răng. Hãy dùng bàn chải lông mềm để chải sạch lưỡi hàng ngày hoặc có thể sử dụng dụng cụ cạo lưỡi để làm sạch hiệu quả hơn.

cao-luoi
Sử dụng dụng cụ làm sạch lưỡi để chữa hôi miệng

Nói không với đường để phòng mùi hôi miệng

Nhai kẹo bạc hà hay kẹo cao su không phải là giải pháp chống hơi thở có mùi mà ngược lại nó lại là nguyên nhân gây nên mùi hôi ở miệng nếu kẹo có chứa đường. Với loại kẹo không đường thì có thể coi đây là giải pháp có tác dụng tức thời nhưng cũng không được khuyến cáo sử dụng thường xuyên. Đường trong miệng sẽ lên men dẫn đến mùi hôi rất khó chịu. Nếu bạn đang gặp rắc rối với hơi thở, cũng nên cắt giảm lượng đường trong chế độ ăn uống của mình.

noi-khong-voi-duong
Hạn chế ăn đường là một cách chăm sóc tốt cho sức khỏe

Uống đủ nước giảm mùi hôi miệng

Nước bọt có chứa các enzyme quan trọng bảo vệ răng miệng, tiêu diệt những vi khuẩn gây mùi, do đó nếu miệng khô có thể góp phần vào tình trạng hôi miệng. Vì vậy uống đủ nước mỗi ngày (2lit/ngày) sẽ kích thích các tuyến nước bọt và giữ ẩm cho miệng.

uong-nuoc

Nếu bạn uống đủ nước mà vẫn khô miệng thì có thể do tác dụng phụ của thuốc kháng histamine, thuốc chống trầm cảm, hoặc thuốc cao huyết áp. Nếu bạn thường khô miệng vào buổi sáng có thể là dấu hiệu của chứng ngưng thở khi ngủ hoặc viêm xoang do phải thở bằng miệng.

Ăn bánh mỳ giảm mùi hôi miệng do ăn uống

Một chế độ ăn lượng carbohydrat thấp, protein cao có thể là nguyên nhân gây ra hơi thở có mùi. Khi đốt cháy mỡ, hóa chất được gọi là xeton sẽ tích lũy trong cơ thể và gây hơi thở khó chịu. Nếu bạn đang ăn kiêng để giảm hàm lượng carbohydrat, hãy ăn một vài lát bánh mỳ. Trong bánh mỳ có lượng carb (tinh bột) giúp bạn cải thiện hơi thở rõ rệt.

banh-mi

Uống trà – cách hiệu quả giúp loại bỏ mùi hôi miệng

Các nghiên cứu của Đại học Illinois tại Chicago cho thấy polyphenol, thành phần hóa học được tìm thấy trong trà đen và trà xanh, có thể ngăn chặn sự tăng trưởng của vi khuẩn khiến cho hơi thở có mùi cũng như sự sinh trưởng của vi khuẩn. Như vậy, uống trà cũng có thể coi như một biện pháp hỗ trợ điều trị bệnh hôi miệng. Bạn cũng nên lưu ý, uống trà nóng sẽ có tác dụng trị hôi miệng tốt hơn so với trà lạnh hoặc trà nguội.

uong-tra

Sử dụng Nano bạc khử mùi hôi miệng do bệnh mũi họng gây ra

Có một mùi hôi nặng rất phổ biến ở bệnh nhân bị bệnh mũi họng đó là mùi hôi do nhiễm trùng tại Họng, Mũi xoang. Viêm họng, viêm xoang với tình trạng nhiễm khuẩn và ứ đọng dịch tại cổ họng, tại mũi xoang gây tình trạng mùi rất khó chịu. Khi vi khuẩn tại ổ viêm phát triển, chúng phân hủy các chất trong dịch nhầy tại ổ viêm, trong đó có cả xác của các loại bạch cầu tới làm nhiệm vụ tiêu diệt vi khuẩn nhưng thất bại. Các khí sinh ra trong quá trình vi khuẩn phát triển tại ổ viêm họng, viêm mũi xoang có mùi trứng thối có thể khiến người bệnh thậm chí không cần mở miệng cũng tạo ra mùi khó chịu.

Với trường hợp bạn là bệnh nhân viêm họng, viêm xoang mạn tính thì việc sử dụng Nano bạc trong chế phẩm Súc họng miệng và Nano bạc trong xịt mũi xoang như bộ đôi Súc họng miệng PlasmaKare, Xịt mũi xoang PlasmaKare X-Spray là biện pháp xử lý tận gốc mùi hôi đồng thời giúp loại bỏ nhanh chóng mùi ngay sau khi sử dụng.

Cách dùng rất đơn giản như sau:

  • Loại bỏ mùi hôi từ viêm xoang bằng cách mỗi ngày xịt 3-4 lần xịt mũi xoang PlasmaKare X-Spray ở 2 bên mũi, mỗi bên mũi xịt 2-4 nhát/lần.
  • Loại bỏ mùi hôi miệng từ bệnh viêm họng, viêm amidan hốc mủ bằng cách súc họng thường xuyên, ngày súc từ 3-5 lần nếu bị cấp tính, súc 2-3 lần nếu đã bị mạn tính hàng ngày với Súc họng miệng PlasmaKare.

xit_mui_xoang_suc_hong_plasmakare

Nếu bạn chăm sóc răng miệng tốt và đã thử tất cả các biện pháp trên mà hơi thở vẫn có mùi có thể đó là triệu chứng của một loạt các vấn đề sức khỏe khác như tiểu đường, viêm xoang nặng, rối loạn tiêu hóa, hoặc các vấn đề về gan và thận. Và hãy đến bác sĩ khi bạn gặp những rắc rối này.

Bài viết Mẹo hay giúp đánh bật mùi hôi miệng không phải ai cũng biết đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/meo-hay-giup-danh-bat-mui-hoi-mieng-3330/feed/ 0
Giảm đau khi mọc răng khôn https://benh.vn/giam-dau-khi-moc-rang-khon-4188/ https://benh.vn/giam-dau-khi-moc-rang-khon-4188/#respond Wed, 03 Aug 2022 04:51:27 +0000 http://benh2.vn/giam-dau-khi-moc-rang-khon-4188/ “Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng” câu ví quả thực không sai. Nếu ai đã từng bị đau răng, đặc biệt đau do biến chứng khi mọc răng khôn thì mới thấu hiểu sự đau đớn, nhức nhối…đến nhường nào.

Bài viết Giảm đau khi mọc răng khôn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
“Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng” câu ví quả thực không sai. Nếu ai đã từng bị đau răng, đặc biệt đau do biến chứng khi mọc răng khôn thì mới thấu hiểu sự đau đớn, nhức nhối…đến nhường nào. Chưa hết, răng khôn mọc lệch còn khiến khổ chủ chịu nhiều đau đớn suốt quá trình mọc răng, sau đó phải làm thủ thuật nhổ bỏ. 

mọc răng khôn

Răng khôn là răng số 8 thường mọc khi từ 17 đến 25 tuổi

Vậy, răng khôn là loại răng nào? Có phải mọc răng này xong thì chúng ta sẽ khôn ta không? Sự nguy hiểm và những lưu ý trong thời gian mọc loại răng đặc biệt này ra sao? Làm sao để giảm đau khi mọc răng khônBenh.vn sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu những vấn đề này.

Răng khôn và những biến chứng nguy hiểm khi mọc răng khôn

Mỗi người có đến 4 chiếc răng khôn, và hầu hết chúng đều mọc lệch hoặc gây ra những vấn đề răng miệng cho khổ chủ như sâu răng, viêm lợi, huỷ xương hoặc răng mọc ngầm…

Răng khôn khôn là gì

Răng khôn (răng số tám còn gọi là răng hàm lớn thứ ba) thường bắt đầu mọc từ 17 đến 25 tuổi trở lên, nếu còn đủ chỗ sau răng số 7. Mỗi người có bốn răng khôn ở bốn góc hàm, tuy nhiên cũng có người không thấy răng khôn mọc ra vì vẫn còn nằm trong xương hàm.

Một số người, quá trình mọc răng khôn vô cùng thuận lợi, họ nhanh chóng có đủ 32 chiếc răng mà không trải qua bất cứ cơn đau nào. Đáng tiếc, đây chỉ là số ít những người may mắn. Hầu hết các trường hợp khác, răng khôn có thể mọc lệch, mọc ngầm, mọc ngược (chọc lên mũi, họng, chọc ra má ngoài…).

Răng khôn thường mọc rất chậm, mỗi thời điểm chỉ nhú lên 1 chút. Chính vì vậy, suốt quá trình mọc răng khôn, người bệnh có thể phải trải quá rất nhiều cơn đau đớn, tái diễn liên tục. Việc giảm đau khi mọc răng khôn cũng là nhu cầu chính đáng của rất nhiều người.

Những ảnh hưởng khi mọc răng khôn

Có thể nói, mọc răng khôn là ác mộng của nhiều người khi tình trạng sưng đau, viêm dây thần kinh và 1 loạt bệnh lý nhiễm trùng như sâu răng, viêm lợi, sưng mộng răng…diễn ra thường xuyên. Thậm chí, xương, các răng xung quanh cũng có nguy cơ bị huỷ hoại.

Tổn thương tế bào và viêm dây thần kinh

Khi răng khôn mọc lệch, mọc ngược, mọc ngầm, chúng trực tiếp đâm vào các tế bào xung quanh, gây nên tình trạng viêm cấp kèm nhiễm khuẩn (do khó vệ sinh, không vệ sinh được) và gây đau đớn. Đặc biệt, 1 số răng khôn còn chèn ép dây thần kinh, gây tình trạng đau do viêm dây thần kinh và không đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường. Tình trạng

Sâu răng  do mọc răng khôn

Sâu răng, đặc biệt sâu răng số 7 rất dễ xảy ra khi mọc răng khôn. Do răng khôn ở trong cùng của hàm nên rất khó vệ sinh, thức ăn và vi khuẩn dễ dàng tích tụ gây viêm nhiễm. Rất nhiều trường hợp răng khôn còn đi kèm với lợi chùm khiến việc vệ sinh khó khắn. Thức ăn thừa và mảng bám tích tụ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, gây sâu răng.

Đặc biệt những răng chỉ mọc lên được một phần hoặc mọc lệch, đâm vào răng bên cạnh, sự tích tụ lâu ngày gây sâu răng, đau đớn và nhiễm trùng có thể xảy ra.

Viêm lợi, sưng mộng răng

Sự tích tụ của thức ăn và vi khuẩn ở răng khôn gây ra viêm nhiễm vùng lợi xung quanh, dẫn đến triệu chứng: sưng, đau, hôi miệng và đôi khi cứng hàm (bệnh nhân không thể mở miệng to được).

Bệnh viêm lợi tái phát nhiều lần chừng nào răng khôn chưa được chữa trị, và càng ở những lần tái phát sau mức độ nguy hiểm và cảm giác đau đớn càng cao.

Không chỉ viêm lợi thông thường, hiện tượng sưng mộng răng cũng rất hay xảy ra trong các đợt cấp của nhiễm khuẩn do răng khôn đang nhú.

Huỷ hoại xương và răng xung quanh

Khi răng khôn mọc đâm sang răng bên cạnh, nó sẽ làm răng đó bị tiêu hủy, lung lay, nhiều khi gây sâu răng, và cuối cùng là rụng răng. Triệu chứng sớm của việc mọc lệch này là những cơn đau âm ỉ ở khu vực đó.

Trong một số truờng hợp khi những bất thường của răng khôn không được chữa trị kịp thời, nhiễm trùng lây lan sang các khu vực xung quanh như mang tai, má, mắt, cổ … gây nguy hiểm đến tính mạng.

Tâm sự của những người mọc răng khôn

N.M.L 22 tuổi sinh viên trường ĐHLĐXH (Hà Nội)

“Em mọc răng khôn từ đầu năm 2012. Thời gian đầu thấy lợi hơi sưng, miệng hôi, khó chịu…nên em súc miệng thường xuyên cũng thấy đỡ. Bẵng đi một thời gian, khoảng tháng 10/2012, răng đau thường xuyên hơn…có những lúc em phải nghỉ học do sốt cao, nổi hạch ở cổ,  không ăn uống được gì…Em làm đủ mọi cách để mong giảm đau khi mọc răng khôn từ trườm đá, ăn tỏi… nhưng không ăn thua.”

Em đi khám, bác sỹ nói em bị lợi trùm, răng không mọc lên được, gây mưng mủ, viêm nhiễm xung quanh….Sau khi uống kháng sinh và dùng thuốc giảm đau một thời gian, bác sỹ đã phẫu thuật cắt lợi trùm cho em. Đến nay răng em không còn đau nữa”

M.A.T 21 tuổi (Hà Nội)

“Em bị đau răng khôn thường xuyên…Mỗi lần đau, em không mở được miệng, sốt cao…rất khó chịu. Sau khi điều trị bằng kháng sinh (theo chỉ định của bác sỹ nha khoa) hiện tượng đau răng đỡ hơn….Nhưng chỉ được vài tuần lại đau trở lại…

Em đã xin ý kiến tư vấn, bác sỹ bảo răng em mọc đâm sang bên cạnh, ảnh hưởng đến răng khác nên cần phải nhổ….Nhưng em rất sợ vì mọi người bảo răng số 8 nhiều dây thần kinh, nếu nhổ không cần thận…sẽ bị lệch mặt, méo miệng…Em chưa biết phải làm thế nào…nhưng để tình trạng đau kéo dài, phiền phức… em không chịu nổi”

Phương pháp giảm đau khi mọc răng khôn bằng tây y

Không phải ai cũng sẵn sàng nhổ răng khôn sau 1 -2 cơn đau đầu tiên. Các thủ thuật nhổ răng khôn cũng bắt buộc phải diễn ra sau khi quá trình viêm nhiễm đã ổn định. Do đó, các phương pháp giảm đau khi mọc răng khôn rất cần thiết, giúp khổ chủ dễ dàng vượt qua giai đoạn này. 3 lưu ý quan trọng dưới đây sẽ giúp bạn giảm đau khi mọc răng khôn nhanh chóng, hiệu quả.

1. Giữ sạch vùng khoang miệng

Người đang bị đau do mọc răng khôn, nhất thiết phải thực hiện đầy đủ 3 bước vệ sinh răng miệng như sau:

  • Dùng chỉ hoặc chỉ tăm nha khoa sau khi ăn: Động tác này giúp loại bỏ 1 phần thức ăn nhét vào kẽ răng. Không nên dùng tăm tre vì có thể gây tổn thương nướu và làm trầm trọng hơn tình trạng viêm nhiễm.
  • Chải răng với bàn chải lông mềm và kem đánh răng.
  • Sử dụng nước súc miệng kháng khuẩn chuyên dụng: Sử dụng các loại nước súc miệng kháng khuẩn chứa TSN, Nano bạc, iod, Chlorhexidine…giúp loại bỏ bớt vi khuẩn gây viêm nhiễm và thức ăn dư thừa. Hiện nay, các loại nước súc miệng thế hệ mới chứa phức hệ TSN và keo ong…có thêm tác dụng chống viêm, giảm đau là lựa chọn tốt nhất để vệ sinh và giảm đau khi mọc răng khôn.

Chườm đá lạnh giúp giảm đau khi mọc răng khôn

Chườm đá cũng giúp giảm các triệu chứng sưng đau do viêm khi mọc răng khôn. Lấy đá bọc vào miếng vải sạch, sau đó chà lên các khu vực răng bị đau. Nên thực hiện vài lần trong ngày, đặc biệt khi đau nhiều hoặc khi các thuốc giảm đau hết tác dụng

Dùng thuốc kháng sinh, chống viêm, giảm đau

Thuốc kháng sinh, và thuốc chống viêm là bắt buộc để kiểm soát viêm nhiễm tại vị trí mọc răng khôn. Ngoài ra, bệnh nhân có thể sử dụng thêm thuốc giảm đau trong các trường hợp đau nhiều, đặc biệt khi có đau do chèn ép dây thần kinh.

  • Kháng sinh: Nhóm thuốc kháng sinh chuyên dùng cho răng thường là thuốc kết hợp giữa Spiramycin và Metronidazol (Biệt dược nổi tiếng nhất là Rodogyl). Ngoài ra, 1 số trường hợp đặc biệt, bác sỹ sẽ dùng kháng sinh phổ rộng như Amoxicillin cho bệnh nhân.
  • Thuốc chống viêm: Chống viêm, giảm phù nề, sưng đau giúp bệnh nhân dễ chịu trong khi chờ đợi kháng sinh phát huy tác dụng diệt khuẩn, kiểm soát viêm nhiễm. Thuốc chống viêm có thể sử dụng như Medrol (chống viêm toàn thân) hoặc alphachoay (chống viêm tại chỗ)
  • Thuốc giảm đau: Các thuốc chứa Paracetamol hoặc ibuprofen có thể sử dụng trong các trường hợp này. Lưu ý, do paracetamol cần uống cách nhau 4-6h, mỗi ngày không quá 2g (4 viêm 500mg). Do đó, nếu đau nhiều nên đổi sang ibuprofen hoặc nếu đau dọc dây thần kinh thì cần hỏi ý kiến bác sỹ và sử dụng các loại thuốc giảm đau chuyên dụng hơn.

Lưu ý

Trong trường hợp bị sốt cao, đau nhức kéo dài hoặc răng mọc xiên, lệch, cần đến bác sỹ nha khoa, để được tư vấn về cách xử trí hợp lý.

Sau khi có kết quả chụp X – quang, bác sỹ sẽ có những chỉ định phù hợp như: trích mủ, cắt lợi trùm hay nhổ răng…

Phương pháp giảm đau bằng dân gian

Ngoài các phương pháp giảm đau sử dụng thuốc, bạn có thể áp dụng 1 số loại thảo dược dân gian để hỗ trợ. Cần lưu ý, các biện pháp ngày không thể thay thế các phương pháp tây y do viêm nhiễm khi mọc răng khôn cần giải quyết nhanh. Trong khi đó, thảo dược thường có tác dụng khá chậm.

Dùng lá lốt giảm đau khi mọc răng khôn

lá lốt

Nước lá lốt dùng hàng ngày có tác dụng giảm đau răng hiệu quả

Tác dụng của lá lốt: ôn trung, hạ khí và giảm đau hiệu quả. Lá lốt cũng có tác dụng như chất sát trùng tự nhiên giúp hỗ trợ giảm đau khi mọc răng khôn.

Cách làm:

– Lấy hai nắm cành và lá lốt đem rửa sạch.

– Cho lá lốt vào nước và sắc đặc với 01 bát nước, cho thêm ít muối.

– Ngậm nước hàng ngày vào buổi sáng, trưa và tối.

Dùng tỏi gây tê tự nhiên

Tác dụng của tỏi: tỏi chứa chất gây tê tự nhiên, có tác dụng giảm đau khi mọc răng khôn rất tốt.

Cách làm:

– Bóc 1 nhánh tỏi sau đó nghiền nát rồi cho vào 1 chén nước nhỏ, bỏ thêm một chút muối khuấy đều.

– Dùng bông thấm hỗn hợp nước vào chỗ đau ngày 3 lần (sáng, trưa, tối) sẽ giảm đau.

Lưu ý: Áp dụng các phương pháp giảm đau bằng dân gian trong trường hợp bệnh nhân không được uống thuốc giảm đau như: bà bầu, phụ nữ cho con bú…

Ý kiến của chuyên gia

Bác sĩ Bùi Thị Thu Huyền, Khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Xanh Pôn

“Răng khôn là răng cối lớn thứ ba trong cung hàm. Răng khôn mọc lệch gây các tai biến chiếm tỷ lệ khoảng 20% các bệnh về răng hàm mặt.

Hàm răng của chúng ta thường chỉ đủ chỗ cho 28 răng nhưng trên thực tế mỗi người có tới 32 răng vì mọc thêm 4 răng khôn ở hai hàm. Chính vì không đủ chỗ để mọc một cách bình thường nên những chiếc răng khôn thường tự “mở đường” mọc ngược về phía xương hoặc đâm thẳng về phía chiếc răng hàm đứng kế bên.

Do răng khôn ở trong cùng của hàm nên rất khó vệ sinh, thức ăn và vi khuẩn dễ dàng tích tụ. Lâu ngày gây sâu răng hoặc viêm nhiễm vùng lợi xung quanh dẫn đến sưng, đau, hôi miệng… Bệnh viêm lợi sẽ tái phát nhiều lần nếu răng khôn không được chữa trị, những lần tái phát sau mức độ nguy hiểm càng cao.

Vì vậy, khi mọc răng khôn, nếu thấy bất thường thì đến bệnh viện chuyên khoa, điều trị ngay từ đầu. Tuyệt đối tránh tình trạng để bệnh phát triển âm ỉ, lâu dài dẫn đến các tai biến nguy hiểm”.

Hầu hết mọi người không ít thì nhiều cũng trải qua thời kỳ mọc răng, đau răng, và “nếm trải” những vấn đề khó chịu, nhức nhối do răng khôn gây nên. Tuy nhiên, để tránh xảy ra phiền phức, đau đớn…ngay khi răng khôn mọc, chúng ta cần đến bác sỹ để được thăm khám, tư vấn và điều trị dứt điểm.

Bài viết Giảm đau khi mọc răng khôn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/giam-dau-khi-moc-rang-khon-4188/feed/ 0
Bệnh hôi miệng có nguyên nhân từ đâu và gợi ý điều trị thế nào https://benh.vn/hoi-mieng-2135/ https://benh.vn/hoi-mieng-2135/#respond Fri, 07 Jan 2022 01:08:14 +0000 http://benh2.vn/hoi-mieng-2135/ Hơi thở hôi hay còn gọi là chứng hôi miệng có thể coi là kết quả của các thói quen chăm sóc sức khỏe răng miệng kém hoặc có thể là một dấu hiệu của các vấn đề khác về sức khỏe. Hôi miệng cũng có thể trở nên tồi tệ hơn bởi các loại thực phẩm bạn ăn và thói quen lối sống không lành mạnh.

Bài viết Bệnh hôi miệng có nguyên nhân từ đâu và gợi ý điều trị thế nào đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hơi thở hôi hay còn gọi là chứng bệnh hôi miệng có thể coi là kết quả của các thói quen chăm sóc sức khỏe răng miệng kém hoặc có thể là một dấu hiệu của các vấn đề khác về sức khỏe. Hôi miệng cũng có thể trở nên tồi tệ hơn bởi các loại thực phẩm bạn ăn và thói quen lối sống không lành mạnh.

benh-hoi-mieng
Bệnh hôi miệng rất đáng sợ trong giao tiếp và đời sống hàng ngày

Bệnh hôi miệng nguyên nhân từ đâu

Hôi miệng có nguyên nhân từ miệng và nguyên nhân ngoài miệng. Trong đó, mỗi nhóm nguyên nhân lại có các tác nhân khác nhau.

Những gì bạn ăn ảnh hưởng đến hơi thở

Về cơ bản, tất cả các thực phẩm bạn ăn được nhai nhỏ trong miệng. Khi thức ăn được tiêu hóa và hấp thu vào máu của bạn. Chúng đi đến phổi và thoát ra hơi thở. Nếu bạn ăn thực phẩm có mùi mạnh (như tỏi hoặc hành tây…), đánh răng, dùng chỉ nha khoa ngay cả nước súc miệng chỉ đơn thuần loại bỏ mùi hôi tạm thời. Mùi hôi sẽ không biến mất hoàn toàn cho đến khi thực phẩm đã ra khỏi cơ thể của bạn. Chưa hết, phần nhựa trong tỏi có khả năng bám dính rất tốt nên mùi tỏi thực tế nồng nhất sẽ lưu trên chính răng, lợi, kẽ răng, niêm mạc miệng, họng của bạn nên sẽ mất tới nhiều giờ để loại bỏ hết mùi hôi miệng này.

hanh-toi-gay-hoi-mieng
Hành, tỏi là hai loại thực phẩm gây hôi miệng

Tại sao nói thói quen xấu là nguyên nhân bệnh hôi miệng?

Nếu bạn không đánh răng và xỉa răng hàng ngày, các hạt thức ăn sẽ đọng lại trong miệng của bạn, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn giữa các kẽ răng, xung quanh nướu răng và lưỡi. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra hôi miệng. Ngoài ra, mùi hôi được tạo ra do vi khuẩn phát triển từ các hạt thức ăn két lại trong răng giả do không được làm sạch đúng cách. Hút thuốc hoặc nhai các sản phẩm thuốc lá cũng là một nguyên nhân gây hơi thở hôi, làm ngả màu răng, làm giảm khả năng đánh giá của bạn với hương vị thực phẩm và kích thích nướu răng.

giat-thuc-an-vao-ke-rang
Thức ăn rơi vào kẽ răng không được làm sạch sẽ tạo mùi khó chịu

Các vấn đề sức khỏe có thể gây ra bệnh hôi miệng

Hơi thở hôi hoặc có mùi khó chịu có thể cảnh báo về một dấu hiệu của bệnh ví dụ như bệnh nha chu. Bệnh nướu răng gây ra bởi sự tích tụ mảng bám trên răng. Các vi khuẩn gây ra độc tố, hình thành trong miệng, gây kích thích nướu răng. Nếu bệnh nướu răng vẫn tiếp tục không được điều trị, nó có thể gây tổn hại nướu răng và xương hàm. Các nguyên nhân khác của hơi thở do răng miệng bao gồm: thiết bị kém phù hợp (ví dụ hàm răng giả), nhiễm nấm miệng, sâu răng.

Các điều kiện gây khô miệng (còn gọi là bệnh khô miệng) cũng có thể gây hơi thở hôi. Nước bọt là cần thiết để làm ẩm và làm sạch miệng bằng cách trung hòa axit được sản xuất bởi mảng bám và rửa đi các tế bào chết tích tụ trên lưỡi, nướu răng, và má. Nếu không, những tế bào phân hủy ra đọng lại và gây hơi thở hôi. Tác dụng phụ của các loại thuốc khác nhau cũng có thể gây ra bệnh khô miệng.

benh-kho-mieng
Bệnh khô miệng có thể gây hôi miệng

Rất nhiều bệnh khác nhau có thể gây hơi thở hôi. Dưới đây là một số bệnh như: nhiễm trùng đường hô hấp như viêm phổi hoặc viêm phế quản, nhiễm trùng xoang mãn tính, chảy mủ xoang sau, tiểu đường, trào ngược dịch vị mạn tính và các vấn đề về gan hoặc thận.

Bệnh hôi miệng có thể ngăn ngừa như thế nào

Cách ngăn ngừa hôi miệng hiệu quả ngay tại nhà có thể thực hiện dễ dàng và hoàn toàn không tốn kém cho mọi người.

Cách cách ngăn ngừa hôi miệng

Hơi thở hôi có thể được giảm hoặc phòng tránh được nếu bạn thực hiện tốt một số tư vấn kể sau.

ve-sinh-rang-mieng-dung-cach
Vệ sinh răng miệng đúng cách giúp hạn chế đáng kể bệnh hôi miệng
  • Thực hành vệ sinh răng miệng tốt. Đánh răng hai lần một ngày với kem đánh răng để loại bỏ mảnh vụn thức ăn và mảng bám. Đánh răng sau khi ăn (giữ một bàn chải đánh răng tại nơi làm việc hay trường học để đánh răng sau khi ăn trưa). Cũng đừng quên chải lưỡi hàng ngày.
  • Thay thế bàn chải đánh răng của bạn 2 đến 3 tháng một lần.
  • Sử dụng chỉ tơ nha khoa làm sạch kẽ răng để loại bỏ thức ăn và mảng bám giữa các răng một lần một ngày. Răng giả nên được bỏ ra vào ban đêm và làm sạch triệt để trước khi được đặt lại vào trong miệng vào sáng hôm sau.
  • Đi khám nha sĩ thường xuyên, ít nhất hai lần một năm. Bác sĩ sẽ tiến hành cuộc kiểm tra răng miệng tổng thể cho bạn: làm sạch các mảng bám trên răng và phát hiện điều trị các bệnh nha chu, khô miệng nếu có hoặc các vấn đề khác mà có thể là nguyên nhân gây ra hôi miệng.
  • Ngừng sử dụng thuốc lá và các sản phẩm liên quan đến thuốc lá.
  • Uống nhiều nước sẽ giữ cho miệng ẩm. Nhai kẹo cao su (tốt hơn là không đường) cũng là một giải pháp kích thích sản xuất nước bọt, giúp rửa trôi thức ăn và vi khuẩn.
  • Ghi lại các loại thực phẩm, các loại thuốc bạn dùng. Nha sĩ sẽ giúp bạn xem xét các khả năng làm hôi miệng vì một số loại thuốc có thể tạo ra mùi hôi miệng.

Điều trị bệnh hôi miệng ở đâu?

Trong hầu hết trường hợp, nha sĩ có thể điều trị nguyên nhân gây ra hôi miệng. Nếu nha sĩ của bạn xác định rằng mùi hôi không có nguồn gốc từ răng miệng, răng miệng của bạn hoàn toàn khoẻ mạnh họ có thể giới thiệu bạn đến các bác sĩ để tiến hành kiểm tra tổng thể tai mũi họng, tiêu hóa, tìm nguyên nhân. Sau khi xác định chính xác nguyên nhân sẽ biết nên điều trị chứng hôi miệng của bạn ở đâu là thích hợp nhất.

bac-sy-nha-khoa
Người đầu tiên bạn nên gặp khi bị bệnh hôi miệng là bác sỹ nha khoa

Sản phẩm có thể sử dụng để loại bỏ bệnh hôi miệng

Bạn có thể mua một số loại nước súc miệng trong các cửa hàng để loại bỏ hơi thở hôi. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng rất các loại nước súc miệng thường chỉ khắc phục một cách tạm thời để che dấu mùi hôi khó chịu. Một số loại nước súc miệng có chứa hoạt chất kháng khuẩn hiệu quả, kéo dài như bạc plasma có khả năng bảo vệ kéo dài đồng thời kháng khuẩn thường được khuyến cáo sử dụng hơn.

nuoc-suc-mieng
Nước súc miệng giúp giảm mùi hôi miệng

Tuy nhiên, có một số sản phẩm sát trùng miệng, rửa sạch miệng, tiêu diệt vi khuẩn gây hôi miệng thay vì chỉ đơn giản là che giấu hơi thở có mùi hôi. Các nha sĩ sẽ tư vấn giúp bạn tìm ra những sản phẩm tốt nhất hỗ trợ điều trị.

Vài cách điều trị hôi miệng như: súc miệng bằng thuốc có chất bạc nano plasma, Chlorhexidine gluconate, trong 6 tháng có thể giảm vi trùng gram âm tính trong miệng. Các sản phẩm trên đây có thể dễ dàng mua trên mạng hoặc tại các cửa hàng tiện lợi, tiệm thuốc tây…. Bạn cũng có thể súc miệng với loại nước súc miệng có chất Cetylpyridinium, Benzethonium chloride, Phenolic-oil, Sodium bicarbonate, Zinc chloride. Hoặc chất kẽm có chất alpha-ionone có thể giảm được những chất gây hôi miệng như hydrogen peroxide hay methyl mercaptan (khoảng 24%-59%), tuy nhiên, dùng những thuốc này cần hỏi ý kiến bác sĩ.

Bài viết Bệnh hôi miệng có nguyên nhân từ đâu và gợi ý điều trị thế nào đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/hoi-mieng-2135/feed/ 0
Chlorhexidine trong nước súc miệng và các lưu ý khi dùng https://benh.vn/chlorhexidine-nuoc-suc-mieng-79467/ https://benh.vn/chlorhexidine-nuoc-suc-mieng-79467/#respond Mon, 05 Jul 2021 02:16:14 +0000 https://benh.vn/?p=79467 Chlorhexidine là một chất kháng khuẩn được sử dụng làm thành phần trong nhiều loại nước súc miệng. Nước súc miệng có chứa chlorhexidine giúp chống lại nhiều loại vi khuẩn gây bệnh về răng miệng như  viêm nướu, bệnh nha chu...

Bài viết Chlorhexidine trong nước súc miệng và các lưu ý khi dùng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Chlorhexidine là một chất kháng khuẩn được sử dụng làm thành phần trong nhiều loại nước súc miệng. Nước súc miệng có chứa Chlorhexidine giúp chống lại nhiều loại vi khuẩn gây bệnh về răng miệng như  viêm nướu, bệnh nha chu… Dưới đây là chi tiết về sản phẩm nước súc miệng có chứa chlorhexidine.

chlorhexidine-01
Sản phẩm nước súc miệng chlorhexidine

Tên thương mại của một số loại súc miệng phổ biến chứa Chlorhexidine bán tại Mỹ

  1. Paroex
  2. Peridex
  3. Periogard

Mô tả về nước súc miệng chlorhexidine

Chlorhexidine được sử dụng để điều trị bệnh viêm nướu, có tác dụng giảm viêm (đỏ) và sưng nướu, đồng thời giảm chảy máu ở nướu. Viêm nướu thường bị gây ra bởi vi khuẩn ở mảng bám răng. Chlorhexidine có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn giúp phòng bệnh viêm nướu gây ra bởi vi khuẩn ở mảng bám răng. Tuy nhiên, chlorhexidine không thể giúp ngăn hình thành mảng bám răng và vôi răng (cao răng), chải răng đúng cách và vệ sinh răng miệng bằng chỉ nha khoa là rất cần thiết và rất quan trọng. Chlorhexidine chỉ được bán theo đơn của bác sĩ nha khoa. Sản phẩm này có dưới 2 dạng là dạng nước và dung dịch.

Trước khi sử dụng nước súc miệng chlorhexidine

Trước khi quyết định có nên sử dụng một loại thuốc, bệnh nhân nên cân nhắc cả lợi ích và tác hại của chúng. Đối với chlorhexidine, bệnh nhân cần lưu ý những điều sau.

Dị ứng khi dùng nước súc miệng chlorhexidine

Báo lại ngay cho bác sĩ nếu bệnh nhân có các dấu hiệu dị ứng hoặc dấu hiệu bất thường với chlorhexidine hoặc với bất cứ loại thuốc nào khác. Thêm vào đó, cho bác sĩ biết về tiền sử dị ứng với đồ ăn, màu thực phẩm, chất bảo quản hoặc động vật. Với những sản phẩm không cần đơn kê, bệnh nhân cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.

chlorhexidine-02
Chlorhexidine có thể gây dị ứng

Sử dụng nước súc miệng chlorhexidine cho trẻ em

Đa số các nghiên cứu về loại nước súc miệng này đều chỉ được tiến hành trên người lớn, vậy nên không có chỉ dẫn cụ thể nào cho việc sử dụng loại nước súc miệng này ở trẻ em.

Sử dụng nước súc miệng chlorhexidine cho người già

Nhiều sản phẩm không được nghiên cứu trên người già. Chính vì thế, không thể biết chắc được liệu loại nước súc miệng này có hiệu quả đối với người già như ở người trẻ tuổi hay không hay liệu loại nước súc miệng này có gây ra tác dụng phụ gì hay vấn đề gì trên người già hay không.

chlorhexidine-03
Chlorhexidine chưa được nghiên cứu nhiều trên người già

Sử dụng nước súc miệng Chlorhexidine cho phụ nữ mang thai

Phân loại nguy cơ
Tất cả các quý C Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy có những trường hợp thuốc bị phản tác dụng và chưa có đủ nghiên cứu trên phụ nữ mang thai hay trên động vật nói chung.
chlorhexidine-04
Chlorhexidine chưa được nghiên cứu nhiều ở phụ nữ mang thai

Sử dụng chlorhexidine ở phụ nữ cho con bú

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chlorhexidine an toàn đối với phụ nữ cho con bú.

Tương tác thuốc với Chlorhexidine

Mặc dù một số loại thuốc không được phép kết hợp với nhau, nhưng trong một số trường hợp 2 loại thuốc vẫn có thể đi cùng với nhau thậm chí xảy ra sự tương tác thuốc. Trong trường hợp này, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân thay đổi liều uống hoặc đưa ra một số cảnh báo. Bệnh nhân cần cho bác sĩ biết những loại thuốc đang sử dụng.

Tương tác thuốc khác

Một số loại thuốc không được phép sử dụng gần bữa ăn để tránh xảy ra tương tác. Sử dụng đồ uống có cồn hoặc thuốc lá cũng có thể gây ra tương tác thuốc. Bệnh nhân nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng thuốc.

Một số lưu ý khi dùng chlorhexidine

Bệnh nhân nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi sử dụng sản phẩm chlorhexidine, đặc biệt nếu có các vấn đề như:

  • Trám răng cửa – chlorhexidine có thể gây vàng răng và có thể phải trám lại răng
  • Các vấn đề về nướu – sử dụng chlorhexidine có thể gây ra các bệnh về nướu như viêm quanh răng

Hướng dẫn sử dụng chlorhexidine

Chỉ nên sử dụng nước súc miệng chlorhexidine sau khi đánh răng và đã loại bỏ hết thức ăn bằng chỉ nha khoa. Súc miệng kỹ để đảm bảo không còn kem đánh răng trong miệng. Không ăn hoặc uống bất cứ thứ gì trong một vài giờ sau khi súc miệng bằng nước súc miệng chứa chlorhexidine.

Có thể dùng nắp chai (15ml) để lấy đủ lượng cần dùng. Nếu không dùng nắp chai, bệnh nhân có thể dùng cốc đong. Súc mạnh chlorhexidine trong miệng trong ít nhất 30 giây sau đó nhổ ra. Để đạt được hiệu quả tối đa không nên pha loãng dung dịch với nước và lưu ý không được nuốt.

Liều dùng chlorhexidine

Liều dùng tùy thuộc vào từng bệnh nhân. Sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ hoặc thông tin in trên vỏ chai. Thông tin dưới đây chỉ đưa ra liều dùng trung bình và có thể không đúng với tất cả mọi người. Liều dùng còn phụ thuộc vào tác dụng mạnh hoặc yếu của sản phẩm. Thêm vào đó, cần lưu ý số lần sử dụng mỗi ngày và khoảng thời gian giữa các lần sử dụng.

Liều dùng chlorhexidine để điều trị viêm nướu

  • Người lớn: Dùng 15ml cho mỗi lần dùng. Súc miệng trong vòng 30 giây, 2 lần mỗi ngày
  • Trẻ em: Liều dùng do bác sĩ đưa ra

Quên sử dụng

Bỏ qua lần dùng trước đó nếu gần đến lần dùng tới. Không dùng lượng gấp đôi để bù cho lần dùng trước đó.

Bảo quản

  • Bảo quản nước súc miệng trong chai kín ở nhiệt độ phòng, tránh xa ngọn lửa, nơi ẩm ướt và ánh sáng trực tiếp. Không làm đông sản phẩm.
  • Giữ xa tầm tay trẻ em
  • Không dùng sản phẩm đã hết hạn

Cảnh báo khi dùng Chlorhexidine

Dưới đây là một số cảnh báo về sản phẩm chứa chlorhexidine

  • Chlorhexidine có vị đắng. Không súc lại miệng với nước ngay sau khi sử dụng, vì có thể làm vị đắng tăng lên, đồng thời làm giảm tác dụng của nước súc miệng.
  • Chlorhexidine có thể làm thay đổi vị giác. Đôi khi, chlorhexidine có thể duy trì tác dụng lên tới 4 giờ. Trong một số trường hợp gần đây, tác dụng của chlorhexidine không tăng khi sử dụng liên tục. Ngừng sử dụng chlorhexidine, vị giác sẽ trở về bình thường.
  • Chlorhexidine có thể gây vàng răng và tăng hình thành vôi răng. Chải răng bằng loại kem đánh răng chống vôi răng và dùng chỉ nha khoa hằng ngày giúp giảm sự hình thành của vôi răng và vàng răng. Thêm vào đó, bệnh nhân nên đi kiểm tra răng ít nhất mỗi 6 tháng/lần để vệ sinh lại răng và kiểm tra tình trạng của nướu.

Nếu nghi ngờ trẻ nuốt phải nhiều hơn 120ml nước súc miệng chứa chlorhexidine, hãy gọi ngay cấp cứu. Bên cạnh đó, nếu trẻ em ở bất cứ độ tuổi nào uống loại nước súc miệng này và có các triệu chứng của ngộ độc cồn như nói lí nhí, buồn ngủ, đi loạng choạng, hãy gọi ngay cho cấp cứu.

Tác dụng phụ khi dùng Chlorhexidine

Cùng với những hiệu quả mà loại nước súc miệng này mang lại là những tác dụng phụ không mong muốn. Mặc dù không phải lúc nào những tác dụng phụ này cũng đến, nhưng nếu những tác dụng phụ này xuất hiện bệnh nhân cần có sự can thiệp của bác sĩ. Thông báo cho bác sĩ nếu bệnh nhân gặp phải những tình trạng sau đây.

Hiếm gặp

Dấu hiệu dị ứng (nghẹt mũi, khó thở, mẩn đỏ ở da, nổi mề đay, ngứa, sưng phù mặt). Một số tác dụng phụ không cần điều trị, bệnh nhân cũng có thể được cho biết những cách phòng chống và giảm những tác dụng phụ này.

Thường gặp

  • Thay đổi vị giác
  • Tăng sự hình thành vôi răng
  • Vàng răng, vàng miệng

Ít gặp

  • Loét miệng
  • Sưng hạch bạch huyết ở bên má hoặc cổ
  • Loét đầu lưỡi

Những tác dụng phụ khác không được liệt kê ở đây vẫn xảy ra với một số bệnh nhân. Nếu có bất cứ dấu hiệu nào bất thường bệnh nhân nên thông báo lại ngay cho bác sĩ. Báo cáo về những tác dụng phụ của sản phẩm cho FDA theo số 1-800-FDA-1088.

Bài viết Chlorhexidine trong nước súc miệng và các lưu ý khi dùng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chlorhexidine-nuoc-suc-mieng-79467/feed/ 0
Phương pháp mới điều trị sâu răng ở trẻ em bằng nano bạc florua: Thử nghiệm lâm sàng https://benh.vn/phuong-phap-moi-dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-thu-nghiem-lam-sang-79497/ https://benh.vn/phuong-phap-moi-dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-thu-nghiem-lam-sang-79497/#respond Sun, 13 Jun 2021 13:02:30 +0000 https://benh.vn/?p=79497 Sâu răng là một trong những bệnh phổ biến nhất ở trẻ em. Ở những nơi có điều kiện khó khăn trên thế giới, bệnh sâu răng thường không được quan tâm. Những phương pháp mới điều trị sâu răng tiếp cận đến được những đối tượng cần nó là rất cần thiết. Mục tiêu […]

Bài viết Phương pháp mới điều trị sâu răng ở trẻ em bằng nano bạc florua: Thử nghiệm lâm sàng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Sâu răng là một trong những bệnh phổ biến nhất ở trẻ em. Ở những nơi có điều kiện khó khăn trên thế giới, bệnh sâu răng thường không được quan tâm. Những phương pháp mới điều trị sâu răng tiếp cận đến được những đối tượng cần nó là rất cần thiết. Mục tiêu phát triển ra những loại thuốc có thể điều trị bệnh sâu răng ở những nơi này vẫn là một thách thức với các nhà nghiên cứu và các bác sĩ.

Nhiều loại chất đã được thử nghiệm để ngăn chặn sâu răng bao gồm thuốc kháng sinh, ion kim loại và nhiều loại kem đánh răng khác nhau. Một đánh giá gần đây về việc sử dụng SDF (Bạc diammine fluoride) cho rằng chất này có khả năng ngăn chặn răng mới bị sâu và giúp điều trị răng cũ bị sâu hiệu quả hơn, sử dụng 1 lần/ năm. Tuy nhiên, những tác dụng ngược vẫn xảy ra trong một số trường hợp như đen răng bị sâu do quá trình oxy hóa của bạc ion có trong thành phần của sản phẩm hay bị đau ở lớp niêm mạc miệng do vô ý tiếp xúc phải dung dịch bạc diammine fluoride, có thể tự hết trong vòng 48 giờ.

Nano bạc florua là một công thức thử nghiệm mới có chứa nano bạc, chitosan và florua kết hợp mang lại đặc tính kháng khuẩn và có tiềm năng trở thành một sản phẩm chống sâu răng mà không làm đen răng bị sâu tương tự như như diamine florua và amalgam. Loại chất mới này an toàn khi sử dụng cho người và có những đặc tính kháng khuẩn tuyệt vời chống lại các loại vi khuẩn như mutans streptococci và lactobacilli – những nguyên nhân gốc rễ gây bệnh sâu răng. NSF (nano bạc florua) có bán dưới dạng dung dịch màu vàng cho hiệu quả lên tới 3 năm.

Bên cạnh đó NSF rẻ tiền và thân thiện với môi trường. Vì thế, thử nghiệm lâm sàng đối chứng này đã nghiên cứu tính hiệu quả của loại thuốc chống sâu răng mới này để ngăn chặn sâu răng ở trẻ em. Giả thuyết không đã được thử để chắc chắn không có bất kỳ sự thay đổi nào về tính hiệu quả dưới các dạng khác nhau của nano bạc florua trong điều trị bệnh sâu răng. Báo cáo này chỉ đưa ra kết quả của 12 tháng cuối cùng nghiên cứu.dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-01

2. Chuẩn bị và phương pháp

2.1. Nano bạc florua

Chuẩn bị keo bạc, 1,0g chitosan hòa trong 200 ml axit axetic 2% (V/V). Khuấy dung dịch, để qua đêm, sau đó lọc trong chân không. Tiếp theo, đặt 60 ml chitosan trong một xô đá và khuấy, thêm 4,0 ml chitosan vào dung dịch bạc nitrat 0,012 mol L1 trước khi thêm natri borohydrua 30 phút. Tỉ lệ giữa AgNO3 và NaBH4 là 1:6. Khử Ag+ do dung dịch chuyển từ không màu qua vàng nhạt và cuối cùng là đỏ nhạt. Các phân tử nano bạc có kích thước trung bình là 3,2 ± 1,2 nm và có hình cầu (Ảnh 1). Florua (NaF) chỉ được thêm vào giai đoạn cuối của thí nghiệm, điều này giúp cải thiện tính ổn định của dung dịch. Nồng độ của mỗi thành phần được đo bằng đơn vị mcg/ml, cụ thể như sau: Chitosan [28,585 mcg/ml]; Ag+ [376,5 mcg/mL] và natri florua [5028,3 mcg/ml].

2.2. Thử nghiệm lâm sàng

Nghiên cứu này đã được Ủy ban xét duyệt định chế (IRB) của Đại học Pernambuco (Protocol số. 119/12) theo Tuyên bố Helsinki của Hiệp hội Y tế thế giới. Những thông tin đưa ra giải thích về mục đích của nghiên cứu đã được gửi cho các bậc phụ huynh đồng ý cho con mình tham gia vào nghiên cứu này. Bên cạnh đó nghiên cứu này cũng cần đến sự đồng ý của trẻ trước khi điều trị.

Nghiên cứu này được tiến hành trong khoảng thời gian từ năm 2012-2013 tại một số khu vực kém phát triển thuộc Gravata, Pernambuco, phía Đông Bắc Brazil. Bữa ăn của trường học chứa rất nhiều đường, đơn giản là vì những loại đồ ăn này thường rẻ và phù hợp với điều kiện của những gia đình ở đây. Tất cả trẻ em đều được phát bàn chải đánh răng và kem đánh răng có chứa flo (1000 ppm F), chỉ nha khoa và hướng dẫn về chế độ ăn lành mạnh trước khi kiểm tra răng miệng. Những trẻ có biểu hiện các triệu chứng hoặc đang điều trị bệnh mãn tính, bệnh cấp tính đều bị loại khỏi thử nghiệm này. Để tránh sai sót do sự giảm tiết nước bọt, kích cỡ mẫu thử được xác định bằng cách sử dụng chương trình PC-SIZE, phiên bản 1.01(c), 1990 (Gerard E. Dallal, Andover, MA, USA).

Dựa trên nghiên cứu thử, tỉ lệ thành công cho nano bạc florua là 73,1%, trái lại tỉ lệ thành công thực là 27,4%, điều này chỉ ra rằng 54 chiếc răng đầu tiên trong mỗi nhóm bao gồm những mẫu thử làm ảnh hưởng đáng kể đến số liệu thực, đây được coi là sai số loại 1 5% và khoảng tin cậy 99%. Thêm vào đó, để bù cho những mất mát có thể xảy ra, kích cỡ của mẫu được ngoại suy thêm 20% để tăng độ chính xác. Vì thế, 65 răng đầu tiên nhằm mục đích thử nghiệm.

Theo tiêu chuẩn của Hệ thống đánh giá và Phát hiện sâu răng Quốc tế, nghiên cứu bao gồm răng đầu tiên ở giai đoạn sâu ngà. Hốc răng có độ sâu trung bình, nhưng chưa ảnh hưởng tới tủy, theo tiêu chuẩn ICDAS II về đốm trắng và khớp cắn. Vào thời điểm bắt đầu thử nghiệm, trẻ không có biểu hiện sâu răng ở những răng vĩnh viễn. Việc chọn và điều trị sẽ do một bác sĩ chưa có kinh nghiệm thực hiện. Đây là một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên kín kép. Phương pháp chọn ngẫu nhiên được thực hiện để duy trì tính đồng đều trong số lượng răng của mỗi nhóm, mỗi 4 răng được xếp lẫn lộn và đặt trong 2 phong bì có đóng dấu phục vụ cho từng mục đích điều trị. Những chiếc răng này sẽ được điều trị lâm sàng bởi một bác sĩ có kinh nghiệm. Những lần kiểm tra tiếp theo sẽ lại được thực hiện bởi một bác sĩ không có kinh nghiệm và không biết về mục đích điều trị.

Trẻ và người bảo hộ cũng sẽ không được cho biết trước về loại điều trị. Trong cả 2 kỹ thuật, gòn chặn nước bọt được sử dụng để nước bọt không dính vào răng. Dung dịch nano bạc florua (33,989.8 mg/mL) được bôi lên bề mặt răng trong vòng 2 phút. Mỗi răng đều nhận được 2 giọt dung dịch nano bạc florua, tương đương 10mg dung dịch. Đối với nhóm đối chứng, chỉ được nhận 1 giọt. Cả 2 loại điều trị đều được thực hiện chỉ trong vòng 12 tháng. Những chiếc răng được đánh giá bằng cách quan sát bằng mắt và sờ nắn bởi một bác sĩ qua đào tạo không biết chi tiết về các nhóm nghiên cứu sau tuần thứ 1, tháng thứ 5 và tháng thứ 12. Tiêu chí ICDAS II được sử dụng để phân loại các mức độ sâu răng trong cả 2 nhóm.

Một que dò được sử dụng để xác định tình trạng sâu răng đang tiến triển bằng cách ấn nhẹ que dò qua ngà răng. Nếu ngà răng không bị đâm thủng thì tình trạng sâu răng đã ngưng tiến triển. Để phân tích dữ liệu, các kỹ thuật thống kê mô tả, kiểm định chi bình phương và kiểm định Fisher đã được sử dụng để phân loại các biến số.

Phân bố chuẩn các dữ liệu định lượng được kiểm tra bằng Kolmogorov–Smirnov test và Mann-Whitney test để so sánh các biến định lượng giữa 2 nhóm. Các phương pháp kiểm định thống kê khác cũng được áp dụng với sai số 5,0%. Dữ liệu được lưu lại trong EXCEL còn các số liệu được xử lý bằng phầm mềm xử lý số liệu dùng cho các ngành khoa học xã hội, phiên bản 17. Vào một thời điểm khác, 10% mẫu được chọn ngẫu nhiên để kiểm tra lại tính tái nghiên cứu.

Tính tái nghiên cứu chẩn đoán sâu răng được đo bằng chỉ số Cohen’s kappa, 0,90 cho sâu răng đang tiến triển và 1 cho sâu răng đã ngưng tiến triển. Thử nghiệm lâm sàng này được đăng ký tại địa chỉ www.clinicaltrials.gov số NCT01950546 và đảm bảo các tiêu chuẩn nghiên cứu.

3. Kết quảdieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-02

Mẫu bao gồm 60 trẻ em, độ tuổi trung bình là 6,31±0,60 tuổi, trong số này 26 (44,1%) là nam, 33 (55,9%) là nữ (p > 0,05). Trong tổng số này, 73% được điều trị ở các răng tiền hàm, 23% được điều trị ở các răng cửa, 64,6% các tổn thương sâu răng chỉ ở một mặt và 35,4% ở 2 hoặc nhiều mặt.

Chỉ số dmft trung bình ở đầu nghiên cứu là 4,76±2,65, không có sự khác biệt đáng kể nào về số liệu thống kê ở cả 2 nhóm (p > 0,05). 130 răng sữa sâu được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: 63 răng cho nhóm nano bạc florua và 67 răng cho nhóm đối chứng. Số răng ở mỗi nhóm không giống nhau do mỗi trẻ thường có nhiều hơn 1 răng sâu trong nghiên cứu này.

Nguyên tắc trong nghiên cứu là thực hiện một loại điều trị cho tất cả răng đến từ 1 trẻ, kết quả số liệu không khác biệt nhiều (p > 0,05). Sau 1 tuần nghiên cứu, không có trẻ nào rời khỏi nghiên cứu, số răng vẫn được đảm bảo. Vào tháng thứ 12, có 12 trẻ từ chối tiếp tục tham gia nghiên cứu ở nhóm nano bạc florua và 18 trẻ ở nhóm đối chứng. Điều này đã được tiên đoán từ trước, chính vì thế việc áp dụng hệ số điều chỉnh 1,2 kích thước của mẫu có thể bù được cho sự thiếu hụt này.

Sau 7 ngày theo dõi, 81% răng sâu ở nhóm nano bạc florua có lớp ngà răng cứng, điều này không được thấy ở nhóm đối chứng (p < 0,0001).

Sau 5 tháng, nhóm nano bạc florua có 72,7% răng có biểu hiện ngừng sâu và con số này là 27,4% (p < 0,0001).

Vào tháng thứ 12, 66,7% tổn thương sâu răng được điều trị bằng nano bạc florua vẫn có biểu hiện ngừng tiến triển sâu, trong khi đó con số này ở nhóm đối chứng chỉ là 34,7% (p = 0,003).

Tác dụng của NSF giảm 81%, 62%,50% nguy cơ sâu răng trong khoảng thời gian 7 ngày, 5 tháng và 12 tháng lần lượt khi so với nhóm đối chứng.dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-03

Số trẻ cần điều trị (NNT) vào tháng thứ 5 là 2 trẻ, vào tháng thứ 12 là 3 trẻ (Bảng 1). Hiệu quả của NSF không đi kèm với số mặt bị sâu, vào tháng thứ 5 (p = 0,257) và sau 12 tháng (p = 0,545), tuy nhiên NSF cho hiệu quả ở răng cửa nhiều hơn răng tiền hàm, ở tháng thứ 5 (p = 0,012), ở tháng thứ 12 (p = 0,010).

Tương tự, kết quả không thay đổi đáng kể ở nhóm đối chứng ở tháng thứ 5 (p = 0,147) và ở tháng thứ 12 (p = 0,232). Số mặt bị sâu dường như không liên quan nhiều đến loại răng, ở tháng thứ 5 (p = 0,319).dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-04dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-05

Tuy nhiên, ở tháng thứ 12 có sự khác biệt đáng kể giữa các loại răng, điều này có thể giải thích do việc nhổ răng sữa khiến cho việc xác định các biến số khó khăn hơn (Bảng 2). Các tổn thương do sâu răng ở nhóm NSF không bao giờ chuyển đen do tác dụng hóa học của sản phẩm (Ảnh 2). Việc nỗ lực loại bỏ lớp ngà răng điều trị bằng NSF khiến cho lớp ngà răng này cứng lại và dễ vỡ hơn, mặt khác việc kiểm soát này lại khiến cho các tổn thương sâu răng này dễ bị lộ ra hơn.

4. Thảo luận

Giả thuyết không của nghiên cứu này không được ủng hộ. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng dung dịch NSF hằng năm hiệu quả hơn ở các tổn thương do sâu ngà răng so với giả dược.

Tỉ lệ bảo vệ trong nghiên cứu này chỉ ra rằng các tổn thương sâu răng ở nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng (càng cao càng tốt) và các biện pháp giảm nguy cơ sâu răng được duy trì tích cực sau 7 ngày, 5 tháng và 12 tháng (Bảng 1).

Tỉ lệ bảo vệ các tổn thương do sâu răng của NSF tương tự với SDF (bạc diamine flo) – tỉ lệ bảo vệ các tổn thương do sâu răng của NSF trong thử nghiệm được tiến hành bởi Llodra và các cộng sự (2005) (>55%) nhưng thấp hơn thử nghiệm được báo cáo bởi Chu và các cộng sự (>96%). Điều này có thể được giải thích bởi sự khác biệt trong mô hình nghiên cứu và khoảng cách giữa những lần thực hiện.

Tuy nhiên, cả 2 chất đều cho thấy sự hiệu quả trên các tổn thương do sâu răng ngưng tiến triển. NNT chỉ ra rằng số lượng răng cần được điều trị để ngăn phát triển các tổn thương sang răng mới (càng thấp càng tốt). Chính vì thế, NNT có thể được sử dụng để ngoại suy hiệu quả trên từng cá nhân. Số răng cần được điều trị bằng NSF ở tháng thứ 5 và tháng thứ 12 là cực kỳ thấp. Hiệu quả của NSF trong điều trị tổn thương sâu răng được nhận thấy có thể được giải thích bằng các thành phần có trong công thức (các hạt nano bạc chitosan và flo).

Những nghiên cứu khác nhau chỉ ra rằng chitosan và hạt nano bạc có các đặc tính kháng khuẩn giúp chống lại vi khuẩn mutans strepcococos, nguyên nhân gây ra các tổn thương sâu răng và khiến các tổn thương sâu răng phát triển. Hơn nữa, kích thước của hạt nano bạc cực kỳ nhỏ (1,2 – 3,2nm) và có hình cầu giúp tăng hiệu quả kháng khuẩn nhờ vào sự tăng bề mặt tiếp xúc. Có một số lý thuyết giải thích rằng cơ chế của flo kích thích hoạt động khử khoáng và bù khoáng, ức chế hoạt động của vi khuẩn ở mảng bám.

Các phân tử bạc hứa hẹn mang lại đầy triển vọng trong việc loại bỏ và phòng chống các loại vi khuẩn gây sâu răng. Vì thế, Zang và các cộng sự đã khuyến khích việc sử dụng nano bạc trong các vật liệu làm răng để ức chế màng sinh học và sâu răng. Targino và các cộng sự (2014) đã chỉ ra nano bạc có các đặc tính kháng khuẩn giúp chống lại vi khuẩn Streptococcus mutans hiệu quả hơn so với chlorhexidine và bạc diamine flo.

NSF cũng được nhận thấy là một hợp chất kháng khuẩn và diệt khuẩn có nồng độ MIC và MBC đối với các giống trong Ngân hàng Giống chuẩn Hoa Kỳ là 33,54mg/mL, 14,52 mg/mL và 50,32 mg/mL lần lượt. Sự khác biệt giữa nồng độ MIC (p=0,032) và MBC (p=0,035) của các chất trong thí nghiệm có sự khác biệt lớn về số liệu.

NSF không độc ở bất cứ nồng độ nào đã được thử với bất kỳ loại hồng cầu nào và tương thích hơn SDF. Do SDF bắt đầu được ưa chuộng hơn, một nghiên cứu trước đó về dược động học của bạc florua đã được báo lại bởi Vasquez và cộng sự (2012).

Những kết quả chỉ ra rằng nồng độ huyết thanh của florua và bạc sau khi bôi SDF có nguy cơ nhiễm độc nhẹ khi sử dụng ở người lớn và ức chế sự khử khoáng, ngăn chặn sự phá vỡ của cấu trúc collagen ở lớp ngà răng bị khử khoáng. Tuy nhiên, phản ứng tương tự không xảy ra với thử nghiệm trên nano bạc florua. Hiệu quả của chất chống sâu răng mới (66,7%) tương tự như bạc diamine florua 30% (66,9%) khi bôi một lần/ năm và ưu điểm của chất là không làm chuyển màu các mô răng sâu  (Ảnh 2). Các hợp chất nano bạc không bị oxy hóa khi tương tác với oxy trong thí nghiệm. Ngoài ra, không giống với SDF, dung dịch NSF không có vị của kim loại.

Bên cạnh đó, NSF có giá thành rẻ nên tất cả mọi người đều có thể sử dụng được. Quy trình điều trị đơn giản và không cần tới tất cả các dụng cụ làm răng chuyên dụng hay đến trực tiếp phòng khám. Nguy cơ nhiễm trùng chéo của quá trình này cũng rất thấp. Chế độ ăn là một vấn đề nhạy cảm tại những nơi kém phát triển, những nơi này thường bị ảnh hưởng bởi nạn đói, chế độ ăn kém chất…

Tại những nơi này, các bữa ăn ở trường học thường chứa nhiều calo và đường. Tuy nhiên, trong mỗi đợt đánh giá và theo dõi tất cả trẻ em đều được nhận bàn chải đánh răng, kem đánh răng có chứa flo và hướng dẫn cách vệ sinh răng miệng đúng cách. Đây cũng chính là lý do cho sự cải thiện tình trạng sâu răng ở nhóm đối chứng.

Theo tính chính xác của hệ thống ICDAS II trong nghiên cứu này, một đánh giá hệ thống đã so sánh hệ thống này với hệ thống phân loại mô học và kết luận rằng hoàn toàn có thể can thiệp vào hoạt động gây sâu bề mặt răng một cách chính xác bằng cách kết hợp quan sát và sờ nắn. Cần nhiều nghiên cứu hơn để tìm ra các quy trình thay thế.

Hơn nữa, bôi NSF để điều trị răng nhạy cảm và sâu chân răng cũng cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn.

5. Kết luận

NSF được đánh giá là hiệu quả trong điều trị răng sâu ở trẻ em tại những nơi kém phát triển.

Tham khảo

  1. Petersen PE. The World Oral Health Report 2003: Continuous Improvement of Oral Health in the 21st century—The Approach of the WHO Global Oral Health Programme. Geneva: World Health Organization; 2003.
  2. Healthy People. http://www.healthypeople.gov/; 2010 [accessed 21.12.13].
  3. Wong MC, Lo EC, Schwarz E, Zhang HG. Oral health status and oral health behaviors in Chinese children. Journal of Dental Research 2001;80:1459–65.
  4. Marinho VC, Worthington HV, Walsh T, Clarkson JE. Fluoride varnishes for preventing dental caries in children and adolescents. Cochrane Database of Systematic Reviews 2013;7:CD002279. http://dx.doi.org/10.1002/ 14651858.CD002279.pub2.
  5. Rosenblatt A, Stamford TC, Niederman R. Silver diamine fluoride: a caries silver-fluoride bullet. Journal of Dental Research 2009;88:116–25.
  6. Peng JJ, Botelho MG, Matinlinna JP. Silver compounds used in dentistry for caries management: a review. Journal of Dentistry 2012;40:531–41. http://dx.doi.org/10.1016/ j.jdent.2012.03.009.
  7. Targino AG, Flores MA, Dos Santos Jr VE, de Godoy Bene´ Bezerra F, de Luna Freire H, Galembeck A, et al. An innovative approach to treating dental decay in children. A new anti-caries agent. Journal of Materials Science: Materials in Medicine 2014. [Epub ahead of print].
  8. International Caries Detection and Assessment System Coordinating Committee. Criteria Manual International Caries Detection and Assessment System (ICDAS II). Revised in December and July. Bogota, Colombia and Budapest, Hungary: http://www.icdas.org; 2009.
  9. Hannigan A, Lynch CD. Statistical methodology in oral and dental research: pitfalls and recommendations. Journal of Dentistry 2013;41:385–92. http://dx.doi.org/10.1016/ j.jdent.2013.02.013.
  10. Chu CH, Lo EC, Lin HC. Effectiveness of silver diamine fluoride and sodium fluoride varnish in arresting dentin caries in Chinese pre-school children. Journal of Dental Research 2002;81:767–70.
  11. Llodra JC, Rodriguez A, Ferrer B, Menardia V, Ramos T, Morato M. Efficacy of silver diamine fluoride for caries reduction in sữa teeth and first permanent molars of schoolchildren: 36-month clinical trial. Journal of Dental Research 2005;84(8):721–4.
  12. Herna´ndez-Sierra JF, Ruiz F, Pena DC, Martı´nez-Gutie´ rrez F, Martı´nez AE, Guille´n Ade J, et al. The antimicrobial sensitivity of Streptococcus mutans to nanoparticles of silver, zinc oxide, and gold. Nanomedicine 2008;4:237–40.
  13. Li F, Weir MD, Fouad AF, Xu HH. Effect of salivary pellicle on antibacterial activity of novel antibacterial dental adhesives using a dental plaque microcosm biofilm model. Dental Materials 2013. pii: S0109-5641(13)00489-2.
  14. Agnihotri S, Soumyo M, Suparna M. Size-controlled silver nanoparticles synthesized over the range 5–100 nm using the same protocol and their antibacterial efficacy. RSC Advances 2014;4:3974–83.
  15. Lu Z, Rong K, Li J, Yang H, Chen R. Size-dependent antibacterial activities of silver nanoparticles against oral anaerobic pathogenic bacteria. Journal of Materials Science: Materials in Medicine 2013;24(6):1465–71. http://dx.doi.org/ 10.1007/s10856-013-4894-5. Epub 2013 Feb 26.
  16. Martı´nez-Castan˜ o´n GA, Nin˜ o-Martı´nez N, Martı´nezGutierrez F, Martı´nez-Mendonza JR, Ruiz F. Synthesis and antibacterial activity of silver nanoparticles with different sizes. Journal of Nanoparticle Research 2008;10:1343–8.
  17. Buzalaf MA, Pessan JP, Hono´ rio HM, ten Cate JM. Mechanisms of action of fluoride for caries control. Monographs in Oral Science 2011;22:97–114. http://dx.doi.org/ 10.1159/000325151.
  18. ten Cate JM. Contemporary perspective on the use of fluoride products in caries prevention. British Dental Journal 2013;214:161–7. http://dx.doi.org/10.1038/sj.bdj.2013.162.
  19. Chau NP, Pandit S, Jung JE, Jeon JG. Evaluation of Streptococcus mutans adhesion to fluoride varnishes and subsequent change in biofilm accumulation and acidogenicity. Journal of Dentistry 2014. http://dx.doi.org/ 10.1016/j.jdent.2014.03.009. pii: S0300-5712(14)00090-6.
  20. Zhang K, Cheng L, Imazato S, Antonucci JM, Lin NJ, LinGibson S, et al. Effects of dual antibacterial agents MDPB and nano-silver in primer on microcosm biofilm, cytotoxicity and dentine bond properties. Journal of Dentistry 2013;41:464– 74. http://dx.doi.org/10.1016/j.jdent.2013.02.001.
  21. Vasquez E, Zegarra G, Chirinos E, Castillo JL, Taves DR, Watson GE, et al. Short term serum pharmacokinetics of diammine silver fluoride after oral application. BMC Oral Health 2012;12:60. http://dx.doi.org/10.1186/ 1472-6831-12-60.
  22. Mei ML, Ito L, Cao Y, Li QL, Lo EC, Chu CH. Inhibitory effect of silver diamine fluoride on dentine demineralisation and collagen degradation. Journal of Dentistry 2013;41:809–17. http://dx.doi.org/10.1016/j.jdent.2013.06.009.
  23. Dos Santos Jr VE, de Vasconcelos FM, Ribeiro AG, Rosenblatt A. Paradigm shift in the effective treatment of caries in schoolchildren at risk. International Journal of Dentistry 2012;62:47–51.
  24. Ekstrand KR, Martignon S, Ricketts DJ, Qvist V. Detection and activity assessment of sữa coronal caries lesions: a methodologic study. Operative Dentistry 2007;32:225–35.

Bài viết Phương pháp mới điều trị sâu răng ở trẻ em bằng nano bạc florua: Thử nghiệm lâm sàng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phuong-phap-moi-dieu-tri-sau-rang-o-tre-em-bang-nano-bac-florua-thu-nghiem-lam-sang-79497/feed/ 0
Hiệu quả của nano bạc và chlorhexidine trong điều trị viêm nướu do mảng bám răng: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên https://benh.vn/hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-nghien-cuu-lam-sang-doi-chung-ngau-nhien-79489/ https://benh.vn/hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-nghien-cuu-lam-sang-doi-chung-ngau-nhien-79489/#respond Sun, 30 May 2021 17:28:28 +0000 https://benh.vn/?p=79489 Mục đích: Nghiên cứu này nhằm mục đích nghiên cứu về tính hiệu quả của nước súc miệng chứa nano bạc (NS) và so sánh nước súc miệng chứa nano bạc với nước súc miệng chứa chlorhexidine (CHX) trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng. Phương pháp nghiên cứu: 62 bệnh nhân […]

Bài viết Hiệu quả của nano bạc và chlorhexidine trong điều trị viêm nướu do mảng bám răng: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Mục đích: Nghiên cứu này nhằm mục đích nghiên cứu về tính hiệu quả của nước súc miệng chứa nano bạc (NS) và so sánh nước súc miệng chứa nano bạc với nước súc miệng chứa chlorhexidine (CHX) trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng. Phương pháp nghiên cứu: 62 bệnh nhân bị viêm nướu do mảng bám răng (28 nam và 34 nữ) được chia làm 2 nhóm và được yêu cầu súc miệng với 10ml nước súc miệng chứa NS hoặc CHX trong 10 phút ngay sau khi đánh răng vào buổi sáng hoặc tối. Các chỉ số như chỉ số mảng bám răng, chỉ số nướu, chỉ số chảy máu nhú lợi được ghi lại ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu.

Phân tích dữ liệu giữa và trong từng nhóm sử dụng phương pháp kiểm định Mann-Whitney U-test và Wilcoxon signed rank test lần lượt. Kết quả: Tất cả các thông số giữa các nhóm ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu không khác biệt lớn qua phương pháp Mann-Whitney U-test. Ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4, nhóm sử dụng nước súc miệng chứa CHX có chỉ số mảng bám răng thấp hơn nhiều so với nhóm sử dụng nước súc miệng chứa NS (p<0,05). Tuy nhiên, chỉ số chảy máu nướu không khác biệt quá lớn giữa 2 nhóm (p>0,05). Cả 2 nhóm đều giảm chỉ số mảng bám răng và chỉ số chảy máu nướu sau 2-4 tuần sử dụng sản phẩm so với thời điểm ban đầu (p<0,001). Kết luận: Nước súc miệng có chứa NS và nước súc miệng có chứa CHX đều có tác dụng giảm mảng bám răng và chảy máu nướu. Có thể sử dụng nước súc miệng Nano Bạc thay thế cho Chlorhexidine trong điều trị mảng bám răng nhằm hạn chế các tác dụng phụ khi sử dụng CHX kéo dài như giảm vị giác, bong niêm mạc, nhuộm răng, hình thành vôi răng.

Giới thiệu

Khoang miệng là môi trường sống của nhiều loại vi khuẩn. Có tới hơn 600 loại vi khuẩn sinh sống tại khoang miệng với nồng độ vi khuẩn từ 108-109/ml trong nước bọt hoặc tại mảng bám răng. Mảng bám răng là nguyên nhân chính gây viêm nướu và các bệnh về răng miệng. Mảng bám răng là một lớp màng sinh học phức tạp do vi khuẩn gây ra có chứa các độc tố vi khuẩn do carbohyrate kết dính trên bề mặt răng. Các mô nướu bị phá hủy do quá trình viêm mô quanh răng và do các loại vi sinh vật tại mảng bám răng. Điều quan trọng nhất trong việc duy trì răng miệng khỏe mạnh là kiểm soát được nhiễm khuẩn qua việc loại bỏ màng sinh học và ức chế viêm. Kiểm soát mảng bám răng cơ học được xem như là điều kiện tiên quyết trong điều trị mảng bám răng răng miệng. Tuy nhiên, việc kiểm soát mảng bám răng cơ học đòi hỏi nhiều kỹ thuật và sự kiên trì. Chính vì thế, một số sản phẩm đã được sử dụng để hỗ trợ việc chăm sóc răng miệng hằng ngày giúp loại bỏ mảng bám răng và giảm viêm nướu.

Một số sản phẩm vệ sinh răng miệng hiện được bán trên thị trường bao gồm enzyme, bisbiguanide, hợp chất phenolic, hợp chất amoni bậc bốn, Listerine, cetylpyridinium chloride, chlorate, saliflor, chất chống oxy hóa, các loại tinh dầu, flo, peroxide và chlorhexidine (CHX). Lý tưởng nhất là những sản phẩm có khả năng bảo vệ răng miệng mà không làm thay đổi hệ vi sinh vật có lợi trong khoang miệng. CHX được bào chế dưới nhiều dạng khác nhau như nước súc miệng, gel bôi, kem đánh răng. Nước súc miệng CHX cũng đã từng được sử dụng như một chất ngăn ngừa mảng bám răng và đạt tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên, mặc dù hiệu quả trong việc làm giảm các loại vi sinh vật có hại trong khoang miệng, nhưng sử dụng CHX lâu dài có thể khiến cho răng bị chuyển màu, giảm vị giác, tăng sự hình thành của vôi răng, nhức răng và khiến cho lớp niêm mạc bị bong. Vì thế, những sản phẩm từ CHX không được ưa chuộng do những tác dụng phụ mà nó đem tới, đặc biệt là khi sử dụng lâu dài. Để khắc phục, các nhà khoa học đã tiếp tục tìm kiếm những chất khác có hiệu quả chống mảng bám răng tương đương mà có ít hoặc không có các tác dụng phụ đi kèm. Công nghệ nano là một ngành khoa học liên quan đến việc chế tạo và ứng dụng các cấu trúc với kích thước nano sử dụng các phương pháp hóa học và cơ học. Nước súc miệng chứa nano bạc (NS) được đưa ra ngoài thị trường và được ưa chuộng nhờ vào các đặc tính kháng khuẩn với kích thước siêu nhỏ. Diện tích bề mặt của hạt nano cho phép chúng có thể xâm nhập và đi qua các tế bào vi khuẩn và tiêu diệt chúng. Nước súc miệng NS đã được chứng minh là có các đặc tính chống viêm nướu và chống mảng bám răng.

Một số nhà nghiên cứu đã báo cáo lại rằng hạt nano bạc có đặc tính kháng khuẩn cao hơn chlorhexidine, tuy nhiên, những nhà nghiên cứu khác lại cho rằng khả năng kháng khuẩn của hạt nano bạc thấp hơn chlorhexidine. Chính vì thế, không có sự thống nhất nào về một loại nước súc miệng lý tưởng với những đặc tính kháng khuẩn cả. Hơn nữa, nước súc miệng nano bạc vẫn chưa được nghiên cứu lâm sàng và còn thiếu nhiều thông tin về cách sử dụng và khi nào sử dụng để đạt được hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, các bác sĩ thường gặp khó khăn khi tư vấn một loại nước súc miệng cho bệnh nhân do có quá nhiều lựa chọn. Vậy nên, nghiên cứu này đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả lâm sàng của nước súc miệng chứa NS so với nước súc miệng có chứa CHX trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng.

Phương pháp

Mô hình nghiên cứu

Nghiên cứu này là một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, mù ba kéo dài 4 tuần, được tiến hành tại Phòng khám Răng hàm mặt thuộc trường Y, Đại học Khoa học và Công nghệ (UST), Sana’a, Yemen. Thử nghiệm này được đăng ký và được cấp phép tại ACTRN (số: ACTRN12618001265268).

Đánh giá y đức trong nghiên cứu

Tất cả các bệnh nhân ký một đơn chấp thuận về hậu quả và rủi ro có thể phải chịu trước khi bắt đầu và đã được khoa Khoa học sức khỏe và Y tế của trường Đại học thông qua (MECA No. 2016/22)

Đối tượng tham gia nghiên cứu

Nghiên cứu này bao gồm những bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 23. Thời gian mở đơn đăng ký tham gia từ giữa tháng 1 cho đến tháng 11 năm 2017. Những tiêu chí yêu cầu bao gồm sức khỏe tốt, có thể tham gia 4 tuần thử nghiệm, bị viêm nướu do mảng bám răng, chưa tiến triển thành bệnh nha chu, tối thiểu 20 răng tự nhiên, ngoại trừ răng hàm thứ 3. Bệnh nhân sẽ không được phép tham gia nếu đang niềng răng, đeo hàm giả bán phần, đang mang thai hoặc cho con bú, mắc các bệnh toàn thân, đang uống thuốc, có tiền sử dị ứng với các sản phẩm vệ sinh răng miệng, hút thuốc, điều trị bệnh nha chu hoặc điều trị bằng thuốc kháng sinh trong tháng trước đó, có khối u hoặc mắc một bệnh nghiêm trọng ở mô cứng hoặc mô mềm ở khoang miệng, có nhiều hơn 5 răng sâu cần phải điều trị ngay, những người mới đi kiểm tra răng miệng 2 tuần trước khi bắt đầu thử nghiệm.

Bệnh nhân sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên bằng cách sử dụng phương pháp fishbowl. Ở phương pháp này, mỗi bệnh nhân bước vào Phòng khám Răng hàm mặt của UST sẽ được lựa chọn sau khi được kiểm tra sàng lọc dựa trên các tiêu chí đưa ra. UST là trường Đại học cổ nhất ở Yemen và dịch vụ điều trị răng miệng tại đây đã thu hút rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh răng miệng. Những bệnh nhân này chủ yếu đến từ thành phố Sana’a và các tỉnh lân cận. Đây là thành phố lớn nhất Yemen với khoảng 3 triệu dân. Hơn nữa, đa số dân cư tại đây đến từ nhiều vùng khác nhau trên cả nước.

Sau khi khám sàng lọc bao gồm cả tiền sử mắc bệnh về răng miệng và các bệnh khác nói chung và kiểm tra khoang miệng. Con số cuối cùng về số người tham gia thử nghiệm là 68 bệnh nhân mắc bệnh viêm lợi do mảng bám răng và đáp ứng được tất cả các tiêu chí tuyển chọn.

Số người này được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm như lưu đồ 1:

Nhóm đối chứng bao gồm 34 bệnh nhân súc miệng với nước súc miệng chlorhexidine 0,12% (Shiba Pharma co, Yemen), mỗi lần súc 10ml trong vòng 1 phút, 2 lần mỗi ngày. Nhóm còn lại bao gồm 34 bệnh nhân súc miệng bằng nước súc miệng nano bạc (Nanogist co, Korea), mỗi lần súc 10ml trong vòng 1 phút, 2 lần mỗi ngày.

Mô hình thử nghiệm

Tất cả các bệnh nhân đều được kiểm tra răng miệng và loại bỏ hết các mảng bám răng, vôi răng, các vết ố và thức ăn thừa trước khi bắt đầu thí nghiệm. Những người tham gia được khuyến khích sử dụng bàn chải đánh răng và nước súc miệng hằng ngày bằng những cuộc gọi hoặc tin nhắn nhắc nhở. Những bệnh nhân này được hướng dẫn sử dụng bàn chải mềm và chỉ dùng một loại kem đánh răng (bàn chải đánh răng có chứa flo bảo vệ khoang miệng Colgate), chải 2 lần mỗi ngày vào buổi sáng sau khi ăn sáng và buổi tối trước khi ngủ, mỗi lần chải trong ít nhất là 3 phút. Họ cũng được hướng dẫn chải răng theo kỹ thuật Bass và súc miệng bằng nước súc miệng ít nhất nửa tiếng sau khi đánh răng và không ăn hoặc uống bất cứ loại thức ăn nào ít nhất 30 phút sau đó để tránh làm giảm hiệu quả của nước súc miệng và để giảm những tác dụng phụ của CHX như vàng răng hay giảm vị giác.

Tất cả nước súc miệng được cho vào một chiếc chai mờ bởi một trợ lý nghiên cứu có đánh thứ tự A và B. Người trợ lý này sẽ thêm một bệnh nhân mới vào dãy chữ cái (A và B) một cách ngẫu nhiên, sau đó bệnh nhân này sẽ được cho một loại thuốc tương ứng với chữ cái đó. Đây là phương pháp mù ba, bác sĩ (AA), người xử lý số liệu (WA) và bệnh nhân được làm mù.

Trong nghiên cứu này, 6 răng được chọn thuộc 6 cấu trúc khớp hàm khác nhau theo Löe và Silness Vì thế, các thông số lâm sàng đã được đánh giá ở răng được chọn dưới đây (răng hàm số 1 bên phải hàm trên, răng cửa bên phải hàm trên, răng hàm số 1 hàm trên, răng cửa số 1 bên trái hàm dưới, răng cửa bên trái hàm dưới, răng hàm số 1 bên phải hàm dưới).  Các thông số lâm sàng của từng bệnh nhân như mảng bám răng, chỉ số chảy máu nhú lợi được ghi lại ở từng mốc: đầu thử nghiệm, cuối tuần thứ 2 và lần cuối ở cuối tuần thứ 4. Những chỉ số này được ghi lại trên cả 4 bề mặt răng sau đó đưa ra gia trị trung bình cho từng răng và cuối cùng là từng bệnh nhân. Hiệu chuẩn được thực hiện ở bước này cho tính đồng nhất cao (Kappa = 0,90).

Phân tích số liệu

Phân tích dữ kiện sử dụng SPSS cho Windows (SPSS Inc., Chicago, IL, USA). Kiểm định Mann-Whitney U-test được sử dụng để xác định ý nghĩa thống kê giữa các nhóm. Các thông số lâm sàng trong các nhóm được đánh giá sử dụng Wilcoxon signed rank test. Mức ý nghĩa thống kê p<0,05.

Kết quả

Vào thời điểm đầu thử nghiệm, số người tham gia là 68, sau đó 6 người đã rút khỏi thử nghiệm (2 người nhóm NS và 4 người nhóm CHX). Vì thế, vào cuối nghiên cứu số người còn lại chỉ là 62 (CHX 30 và NS 32). Lý do rút khỏi nghiên cứu là do không thể theo được toàn bộ quá trình nghiên cứu.hieu-qua-cua-nano-bac-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-01

Lưu đồ 1: Lưu đồ mô hình nghiên cứu đưa ra những thông số được nghiên ứu trên bệnh nhân bao gồm phân chia, theo dõi và phân tích.hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-02

Bảng 1: Giá trị trung bình và trung vị của các thông số lâm sàng (SD) vào thời điểm đầu thử nghiệm và 2 lần tiếp theo ở các nhóm.

M = Trung bình, SD = Độ lệch chuẩn

  1. a. Phân tích giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt lớn giữa các nhóm ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4 trong chỉ số mảng bám răng (p<0,05). Tuy nhiên, những thông số lâm sàng khác không khác biệt quá nhiều giữa nhóm NS và nhóm CHX (p>0,05).
  1. b. Phân tích giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt lớn trong các thông số lâm sàng ở đầu thử nghiệm so với tuần thứ 4, đầu thử nghiệm so với tuần thứ 2 và tuần thứ 2 so với tuần thứ 4 (p<0,001).

Giá trị trung bình và trung vị của chỉ số mảng bám răng, chảy máu nhú lợi ở cả 2 nhóm NS và CHX được đưa ra trong bảng 1. So sánh tất cả các thông số giữa các nhóm bằng phép kiểm Mann-Whitney U-test không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm ở thời điểm đầu thử nghiệm. Sau tuần thứ 2 và tuần thứ 4 theo dõi, nhóm CHX có chỉ số mảng bám răng thấp hơn nhiều so với nhóm NS (p<0,05). Tuy nhiên, chỉ số chảy máu nhú lợi không khác nhau giữa 2 nhóm, đã đưa ra ở bảng 1. Nhóm CHX có chỉ số mảng bám răng giảm nhiều hơn so với nhóm NS khi được đem ra so sánh theo các mốc đầu thử nghiệm, sau 2 tuần và sau 4 tuần sau khi dùng sản phẩm (p>0,05). Tuy nhiên, chỉ số mảng bám răng, chỉ số chảy máu nhú lợi và chảy máu nướu không thay đổi từ tuần thứ 2 tới tuần thứ 4 ở cả 2 nhóm (p>0,05).

So sánh giữa các nhóm bằng phép kiểm Wilcoxon signed rank test cho thấy chỉ số mảng bám răng, chỉ số chảy máu nhú lợi và chảy máu nướu giảm đáng kể sau tuần thứ 2 và tuần thứ 4 sử dụng sản phẩm so với thời điểm đầu nghiên cứu (p<0,001), như bảng 1.

Thảo luận

Mảng bám răng từ lâu đã được xem như là nguyên nhân chính dẫn đến viêm nướu và bệnh nha chu. Chính vì vậy, kiểm soát hình thành mảng bám răng hợp lý là rất quan trọng trong phòng chống những bệnh nêu trên. Kiểm soát hình thành mảng bám có thể được thực hiện bằng phương pháp hóa học hoặc cơ học hoặc kết hợp cả 2. Sử dụng nước súc miệng là phương pháp kiểm soát bằng hóa học, nên được kết hợp song song với phương pháp cơ học như chải răng cẩn thận.

CHX đã từng được sử dụng trong nhiều năm để điều trị bệnh viêm quanh răng. Tuy nhiên, CHX thường đi kèm với nhiều tác dụng phụ nếu sử dụng trong thời gian dài. Chính vì thế CHX không được khuyến cáo sử dụng. Chính vì mặt hạn chế của nước súc miệng chứa CHX, một giải pháp thay thế không mang lại tác dụng phụ đã được nghiên cứu trong những năm gần đây. Mặc dù không nhiều tác dụng phụ như CHX nhưng không có một chất nào lại có đặc tính kháng mảng bám răng và chống viêm nướu như CHX. Trong thời gian gần đây, NS đã thu hút được sự chú ý nhờ vào các đặc tính kháng khuẩn do cấu tạo của các phân tử với kích thước siêu nhỏ có khả năng xâm nhập sâu vào các vi sinh vật và tiêu diệt chúng. Vì vậy, nghiên cứu này được ra đời để so sánh hiệu quả của NS và CHX trong điều trị bệnh viêm nướu do mảng bám răng dựa vào các thông số lâm sàng.

Việc đánh giá tình trạng nướu chủ yếu dựa vào 3 chỉ số. Chỉ số mảng bám răng (PLI) là chỉ số cho biết rõ nhất tình trạng hoạt động của vi khuẩn tại răng. Chỉ số chảy máu nhú lợi (PBI) là chỉ số cho biết rõ nhất tình trạng răng miệng, tình trạng viêm quanh răng, tình trạng tiêu xương ổ răng kẽ răng và hiệu quả của quá trình bảo vệ liên quan đến mảng bám ở khe răng. Chỉ số nướu (GI) là một trong các chỉ số được sử dụng nhiều nhất trong đánh giá tình trạng của nướu. Kết hợp các chỉ số với nhau cho ra một đánh giá tương đối chính xác về tính ưu việt của những chất chống mảng bám răng và kháng khuẩn.

Trong nghiên cứu này, không có sự khác biệt nào trong dữ liệu ở cả 2 nhóm ở đầu thử nghiệm. Nhìn chung, cả 2 nhóm đều giảm ở các chỉ số PLI, GI, BPI ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4. Không có nhiều thay đổi về số liệu giữa 2 nhóm, ngoại trừ chỉ số PLI ở nhóm CHX thay đổi nhiều so với nhóm NS. Những phát hiện ở nghiên cứu lần này cũng giống với những nghiên cứu trước đó. Jain và cộng sự cho biết rằng chỉ số mảng bám răng ở nhóm CHX giảm đáng kể ở ngày thứ 15 và ngày thứ 30. Trong nghiên cứu này, chỉ số PLI, GI và BPI giảm đáng kể ở tuần thứ 2 và tuần thứ 4 ở nhóm CHX. Phát hiện ở nghiên cứu này cũng trùng với những phát hiện ở nghiên cứu của Chandrasekaran và các cộng sự cho rằng súc miệng bằng nước súc miệng chứa CHX giúp chỉ số PLI và GI giảm đáng kể ở tuần thứ 4. Những kết quả của nghiên cứu này cũng tương tự như kết quả của nghiên cứu được tiến hành bởi Halkai và các cộng sự cho rằng hiệu quả kháng khuẩn của NS giúp chống lại vi khuẩn Porphyromonas gingivalis. Nghiên cứu của Shawky và các cộng sự cũng cho rằng NS giúp cải thiện các thông số lâm sàng một cách rõ rệt và giảm nhiễm khuẩn. Lu và các cộng sự cho rằng NS có tác dụng kháng khuẩn giúp chống lại 5 loại vi khuẩn yếm khí và hiếu khí gây bệnh về răng miệng. Freire và các cộng sự cũng cho rằng NS giúp giảm tới 4 lần các đơn vị hình thành khuẩn lạc trong vòng 24 giờ. Sadeghi và các cộng sự cho biết rằng NS còn có hiệu quả chống lại vi khuẩn Streptococcus mutans.

Những nghiên cứu cho kết quả khác với nghiên cứu hiện tại bao gồm nghiên cứu của Esfahanian và các cộng sự. Trong nghiên cứu này Esfahanian và các cộng sự cho rằng nước súc miệng chứa CHX có tính vượt trội hơn nhiều so với nước súc miệng chứa NS. Sự khác biệt trong kết quả cuối cùng có thể là do sự khác biệt trong thành phần của nước súc miệng chứa NS (công thức hydrogen peroxide có chứa một chút ion bạc), hàm lượng CHX là 0,2% hoặc do phương pháp tiến hành. Nghiên cứu hiện tại đã sử dụng máy tăm nước để đưa trực tiếp nước súc miệng vào miệng thay vì tiến hành trong ống nghiệm, chính sự xuất hiện của màng sinh học trong miệng đã mang đến sự khác biệt trong kết quả cuối cùng.

Besinis và các cộng sự đã cho rằng NS có tính kháng khuẩn mạnh nhất trong số tất cả các hạt nano, sự sinh trưởng của vi khuẩn chậm hơn hẳn so với trong CHX.

Mozayeni và các cộng sự đã chỉ ra rằng gel NS có hiệu quả chống lại Candida albicans chậm hơn so với gel CHX. Sự khác biệt trong kết quả của nghiên cứu này đã góp phần vào sự khác biệt trong công thức sản phẩm và các mục tiêu của nghiên cứu.

Có một số mặt hạn chế của nghiên cứu này cần được xem xét lại như số lượng người tham gia nghiên cứu này còn quá ít, cần phải thực hiện một nghiên cứu có quy mô lớn hơn để xác nhận lại những kết quả đạt được. Hơn nữa, nghiên cứu này được thực hiện trên những bệnh nhân trẻ tuổi, hệ vi khuẩn ở những bệnh nhân này có thể khác so với những đối tượng khác và điều này có thể tạo nên sự khác biệt trong kết quả thu được. Thêm vào đó, các bệnh nhân này không được phân chia ngẫu nhiên một cách khách quan theo Tiêu chuẩn thống nhất về báo cáo nghiên cứu năm 2010. Cuối cùng là, thời gian nghiên cứu chỉ kéo dài có 4 tuần, thời gian này nên được kéo dài ở những nghiên cứu tiếp theo.

Kết luận

Với những hạn chế của nghiên cứu này, có thể kết luận rằng nước súc miệng chứa NS có hiệu quả tương đương với nước súc miệng chứa CHX trong giảm chỉ số mảng bám, chỉ số chảy máu nhú lợi, chảy máu lợi. Tuy nhiên, CHX giảm chỉ số mảng bám tốt hơn NS.

Tham khảo

  1. Marcotte H, Lavoie MC. Oral microbial ecology and  the  role of salivary immunoglobulin A. Microbiol Mol Biol Rev. 1998;62(1):71–109.
  2. Aruni AW, Dou Y, Mishra A, Fletcher HM. The Biofilm Community-Rebels with a Cause. Curr Oral Health Rep. 2015;2(1):48–56.
  3. Aspalli S, Shetty VS, Devarathnamma MV, Nagappa G, Archana D, Parab P. Evaluation of antiplaque and antigingivitis effect of herbal mouthwash in treatment of plaque induced gingivitis: A randomized, clinical trial. J Indian Soc Periodontol. 2014;118.(1):48–52.
  4. Hojo K, Nagaoka S, Ohshima T, Maeda N. Bacterial interactions in dental biofilm development. J Dent Res. 2009;88(11):982–90.
  5. Hajishengallis G. Immunomicrobial pathogenesis of periodon- titis: keystones, pathobionts, and host response. Trends Immunol. 2014;35(1):3–11.
  6. Priya BM, Galgali SR. Comparison of amine fluoride and chlorhexidine mouth rinses in the control of plaque and gingivitis-a randomized controlled clinical trial. Indian J Dent Res. 2015;26(1):57–62.
  7. Mahajan R, Khinda PK, Gill AS, Kaur J, Saravanan SP, Shewale A, Taneja M, Joshi V. Comparison of Efficacy of 0.2% Chlorhexidine Gluconate and Herbal Mouthrinses on Dental Plaque: An in vitro Comparative Study . Eur J Med Plant. 2016;13(2):1–11.
  8. Balagopal S, Arjunkumar R. Chlorhexidine: The Gold Standard Antiplaque Agent. J Pharm Sci Res. 2013;5(12):270–4.
  9. Graziani F, Gabriele M, D’Aiuto F, Suvan J, Tonelli M, Cei
  10. Dental plaque, gingival inflammation and tooth -discolouration with different commercial -formulations of 0.2% chlorhexidine rinse: a double-blind randomised controlled clinical trial. Oral Health Prev Dent. 2015;13(2):101–11.
  11. Kariminik A, Motaghi MM. Evaluation of Antimicrobial susceptibility pattern of Streptococcus mutans isolated from dental plaques to chlorhexidine, nanosil and common antibiotics. Int J Life Scien. 2015;9(2):18–21.
  12. Besinis A, De Peralta T, Handy RD. The antibacterial effects of silver, titanium dioxide and silica dioxide nanoparticles compared to the dental disinfectant chlorhexidine on Streptococcus mutans using a suite of bioassays. Nanotoxicology. 2014;8(1):1–16.
  13. Esfahanian V, Mohamadi F, Amini SH. An In Vitro Comparison of Antimicrobial Effect of Nanosil and ChlorhexidineMouthrinses. J Islam Dent Assoc Iran. 2012;24(3):188–92.
  14. Mozayeni MA, Hadian A, Bakhshaei P, Dianat O. Comparison of Antifungal Activity of 2% Chlorhexidine, Calcium Hydroxide, and Nanosilver gels against Candida Albicans. J Dent. 2015;12(2):109–17.
  15. Ahrari F, Eslami N, Rajabi O, Ghazvini K, Barati S. The antimicrobial sensitivity of Streptococcus mutans and Streptococcus sangius to colloidal solutions of different nanoparticles applied as mouthwashes. Dent Res J. 2015;12(1):44–9.
  16. Kripal K, Chandrasekaran K, Rajan S, Reddy SS, Kumar PA, Ajit P, Kotha M, Bhavanam SR. Evaluation of a Herbal Mouthwash (BefreshTM) Versus Chlorhexidine Mouthwash (Clohex Plus): A Prospective Clinical and Microbiological Study. EC Microbiology. 2017;7(6):209–18.
  17. Loe H, Silness J. Periodontal disease in pregnancy. I. Prevalence and severity. Acta Odontol Scand. 1963;21:533–51.
  18. Farah CS, McIntosh L, McCullough MJ. Mouthwashes. Aust Prescr. 2009;32(6):162–4.
  19. Chatterjee A, Debnath K, Rao NKH. A comparative evaluation of the efficacy of curcumin and chlorhexidine mouthrinses on clinical inflammatory parameters of gingivitis: A double-blinded randomized controlled clinical study. J Indian Soc Periodontol. 2017;21(2):132–7.
  20. Arora V, Tangade P, TLR, Tirth , Pal S, Tandon V. Efficacy of dental floss and chlorhexidine mouth rinse as an adjunct to toothbrushing in removing plaque and gingival inflammation – a three way cross over trial. J Clin Diagn Res. 2014;8(10):ZC01–4.
  21. Charles CH, Mostler KM, Bartels LL, Mankodi SM. Comparative antiplaque and antigingivitis effectiveness of a chlorhexidine and an essential oil mouthrinse: 6-month clinical trial. J Clin Periodontol. 2004;31(10):878–84.
  22. Osso D, Kanani N. Antiseptic mouth rinses: an update on comparative effectiveness, risks and recommendations. J Dent Hyg. 2013;87(1):10–8.
  23. Jain A, Bhaskar DJ, Gupta D, Agali C, Gupta V, Gupta RK, Yadav P, Lavate AB, Chaturvedi M. Comparative evaluation of honey, chlorhexidine gluconate (0.2%) and combination of xylitol and chlorhexidine mouthwash (0.2%) on the clinical level of dental plaque: A 30 days randomized control trial. Perspect Clin Res. 2015;6(1):53–7.
  24. Herrera D. Chlorhexidine mouthwash reduces plaque and gingivitis. Evid Based Dent. 2013;14(1):17–8.
  25. Halkai KR, Mudda JA, Shivanna V, Rathod V, Halkai RS. Biosynthesis, Characterization and Antibacterial Efficacy of Silver Nanoparticles Derived from Endophytic Fungi against P. gingivalis. J Clin Diagn Res. 2017;11(9):ZC92–6.
  26. Shawky HA, Basha SM, EL Batouti GA, Kassem AA. Evaluation of Clinical and Antimicrobial Efficacy of Silver Nanoparticles and Tetracycline Films in the Treatment of Periodontal Pockets . J Dent Med Sci. 2015;14(7):113–23.
  27. Lu Z, Rong K, Li J, Yang H, Chen R. Size-dependent antibacterial activities of silver nanoparticles against oral anaerobic pathogenic bacteria. J Mater Sci Mater Med. 2013;24(6):1465–71.
  28. Freire PLL, Albuquerque AJR, Sampaio FC, Galembeck A, Flores MAP, Stamford TCM, Rosenblatt A. AgNPs: The New Allies Against S. Mutans Biofilm – A Pilot Clinical Trial and Microbiological Assay. Braz Dent J. 2017;28(4):417–22.
  29. Sadeghi R, Owlia P, Yaraee R,  Sharif  F,  Taleghani  F.  An in vitro assessment of antimicrobial and cytotoxic effects of nanosilver. J Med Microbiol. 2015;3(4):44–52.

Bài viết Hiệu quả của nano bạc và chlorhexidine trong điều trị viêm nướu do mảng bám răng: nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/hieu-qua-cua-nano-bac-va-chlorhexidine-trong-dieu-tri-viem-nuou-do-mang-bam-rang-nghien-cuu-lam-sang-doi-chung-ngau-nhien-79489/feed/ 0
Đánh giá về các đặc tính kháng khuẩn và độc tính của hạt xi măng nano bạc https://benh.vn/danh-gia-ve-cac-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-79476/ https://benh.vn/danh-gia-ve-cac-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-79476/#respond Tue, 25 May 2021 05:58:51 +0000 https://benh.vn/?p=79476 Xi măng sinh học được cấu tạo từ chất polymethylmetacrylate (PMMA) được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực phẫu thuật tạo hình xương, khớp. Cũng giống như tất cả các loại vật liệu sinh học khác PMMA làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn so với việc sử dụng các mô sinh học. […]

Bài viết Đánh giá về các đặc tính kháng khuẩn và độc tính của hạt xi măng nano bạc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Xi măng sinh học được cấu tạo từ chất polymethylmetacrylate (PMMA) được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực phẫu thuật tạo hình xương, khớp. Cũng giống như tất cả các loại vật liệu sinh học khác PMMA làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn so với việc sử dụng các mô sinh học. Chính vì thế, một câu hỏi hiện ra là việc sử dụng PMMA trong phẫu thuật tạo hình xương, khớp kết hợp với thuốc kháng sinh có làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn hay không đã được đem ra bàn luận.

Mặc dù quá trình phẫu thuật luôn được bảo đảm khử trùng nghiêm ngặt và khép kín, sử dụng dòng chảy tầng với tỉ lệ nhiễm khuẩn chỉ từ 1-3%. Buchholz và Engelbrecht là những người đầu tiên đề xuất sử dụng thuốc kháng sinh để ngăn nhiễm khuẩn sau khi phẫu thuật. Báo cáo đầu tiên về kết quả của việc sử dụng kháng sinh bởi Thierse cho rằng việc sử dụng thuốc kháng sinh sau khi phẫu thuật giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn cao hơn so với việc không sử dụng thuốc kháng sinh sau khi phẫu thuật. Wannske và Tscherne cũng ủng hộ ý kiến này sau một nghiên cứu đoàn hệ. Nghiên cứu của Josefsson và Espehaug cùng với các cộng sự của mình đã đi đến 2 kết luận trái chiều. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc kháng sinh sau khi phẫu thuật vẫn được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Hiệu quả kháng khuẩn của bạc vốn được biết đến nhiều và được áp dụng trong lĩnh vực y học trong nhiều năm qua, ví dụ như phương pháp Crede trong phòng bệnh viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh hay giúp làm lành vết thương. Mặt khác độc tính của bạc cũng được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu lâm sàng. Mục đích chính của nghiên cứu này là đánh giá về phương pháp tạo hình xương, khớp bằng hạt xi măng nano bạc có chứa các phân tử bạc với kích cỡ chỉ từ 5-50nm. Phương pháp này cho thấy nano bạc có tác dụng chống lại vi khuẩn S. epidermidis, MRSE và MRSA qua các thí nghiệm ống nghiệm. Hơn nữa, độc tính của hạt nano bạc còn được đánh giá qua cả phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính

2. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Hạt nano bạc

Thuật ngữ “nano bạc” ám chỉ kích thước của các phân tử bạc rất nhỏ, chỉ từ 5-50 nm (Ảnh 1). Hoạt động bề mặt của hạt nano bạc chỉ từ 4m2/g so với 1-2m2 của bạc bột bán ngoài thị trường. Các cụm hạt nano bạc thường có kích thước là 2-5 mm. Độ rỗng của hạt nano bạc từ 85-95% so với 0% của bạc bột bán ngoài thị trường.

2.2. Hạt xi măng

Hạt xi măng hay polymethylmetacrylate (PMMA) có chứa từ 0,1-1,0% nano bạc. Tỷ trọng hạt nano bạc được cân đối với tỷ trọng hạt xi măng. Hạt xi măng (PMMA) tinh chất (VersaBond, Smith & Nephew, Memphis, TN, USA) không có chứa bất cứ tạp chất nào hoặc chỉ chứa 2% gentamicin sulphate (PalacossR Gentamicin, ScheringPlough, Brussels, Belgium). Tất cả các loại hạt xi măng đều được trộn trong chân không (Easys, Coripharm, Dieburg, Germany). Sau đó, hỗn hợp xi măng này được đổ vào các khuôn có đường kính 4mm và chiều cao 7 mm.danh-gia-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-01

2.3. Vi khuẩn

Phương pháp phân lập lâm sàng được sử dụng như một chỉ số đánh giá các chủng vi khuẩn khác nhau để kiểm soát các đặc tính kháng khuẩn trong ống nghiệm của các loại hạt xi măng (S. epidermidis EDCC 5245, methicillin-resistant S. epidermidis (MRSE) EDCC 5130 và  methicillin-resistant S. aureus (MRSA) EDCC 5246 từ Viện Vi sinh vật, Giessen, Đức). Các chủng vi khuẩn được đánh giá phân tích trình tự gen mã hóa 16S rRNA, cụ thể là PCR gene femB, coa und mecA, mã DNA bằng phương pháp PFGE và kháng sinh đồ (không có dữ liệu). Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của gentamicin đối với nhiều chủng vi khuẩn được xác định bằng E- Test (AB BIODISK, Solna, Sweden). S. epidermidis cần nồng độ ức chế tối thiểu o0.0064 mg/ml đối với gentamicin, MRSE EDCC 5130 64 mg/ml và MRSA EDCC 5246 64 mg/ml lần lượt.

2.4. Hoạt động của màng sinh học

MRSA EDCC 5246 hình thành màng sinh học, mặt khác S. epidermidis EDCC 5245 và MRSE EDCC 5130 thì không. Các thí nghiệm kiểm tra sự hình thành màng sinh học dựa trên khả năng tạo ra màng sinh học trên nhựa polystyren (PS) của từng loại vi khuẩn, ví dụ, sự phát triển của vi khuẩn lạc được phát hiện với một số lượng lớn. Các thí nghiệm về khả năng hình thành màng sinh học cũng đã được tiến hành nhiều trước đó. Nhìn chung quy trình này như sau, nuôi cấy vi khuẩn qua đêm trong canh trường được pha loãng tỉ lệ 1:100 đặt trong môi trường nuôi cấy và 200 ml chất nuôi cấy sạch để ở 37oC trong vòng 48 giờ. Phần nước nuôi cấy được bỏ đi, đĩa thí nghiệm được rửa kỹ càng 2 lần bằng dung dịch xử lý màng sinh học (2mm CaCl2/MgCl2) để loại bỏ hoàn toàn các tế bào trôi nổi. Tiếp theo, sử dụng 200 microlit dung dịch xử lý màng sinh học và 20 ml thuốc nhuộm (0,1% w/v dung dịch tím tinh thể) để làm nổi bật màng sinh học, sau đó để trong vòng 15 phút ở nhiệt độ phòng và được tráng lại bằng dung dịch xử lý màng sinh học để loại bỏ các phân tử tím tinh thể bám lại. Vi khuẩn có thể tạo ra màng sinh học ở mặt trong của đĩa thí nghiệm. Bên cạnh đó, các vi khuẩn lạc cũng có thể được thấy nhờ vào màu tím của thuốc.

2.5. Hoạt động kháng khuẩn trong ống nghiệm

Thí nghiệm hoạt động kháng khuẩn của các hạt xi măng khác nhau được tiến hành bằng cách sử dụng một máy lắc đĩa để đo sự sinh trưởng của vi khuẩn. Các mẫu thu được có hình trụ với chiều dài 7 mm và đường kính 4 mm ở các hạt xi măng khác nhau. Các mẫu hạt xi măng được ủ trong 106 CFU/giếng trong 250 ml huyền phù tế bào ở 37oC trong vòng 1 giờ. Các tế bào bong ra sẽ được loại bỏ bằng PBS. Sau khi làm sạch mẫu các tế bào còn sót lại sẽ được nuôi trong PBS 0,25% glucose, 0,2% (NH4)2SO4 và 1% canh trường để trong vòng 18 giờ ở nhiệt độ 37oC. Trong khoảng thời gian này, các tế bào còn lại sẽ bắt đầu phân chia và tạo ra nhiều tế bào khác hoặc bị chết. Sau khi loại bỏ mẫu tế bào mẹ, các tế bào mới sẽ được kích thích bằng cách bổ sung 50ml canh trường. Sự phát triển của các tế bào mới sẽ được quan sát ở mức 578 nm qua một phần mềm đọc. Máy đọc đĩa (VersaMaxs, thiết bị sinh học phân tử, Sunnyvale, California, Mỹ) được sử dụng để theo dõi được đặt ở chế độ động học để phát hiện sự phát triển của các tế bào mới trong 36 giờ và đồng thời cung cấp một đường tăng trưởng ở kết quả cuối cùng sau mỗi đợt. Nếu vi khuẩn bị ức chế hoàn toàn hoặc một phần do bề mặt của mẫu hạt xi măng, chúng hoàn toàn hoặc gần như không thể tạo ra các tế bào con (Ảnh 2). Tất cả các phương pháp đo được tiến hành gấp 6 lần (A-F). Trong chứng nội hoạt động kháng khuẩn vải nylon tráng bạc 99% (ShieldexTrading GmbH, Bremen, Đức) đã được sử dụng làm mẫu chứng dương. Một loại nylon tương tự không tráng bạc được sử dụng làm mẫu chứng âm. Nano bạc và các mẫu dò được phủ quanh bởi các thành phần trong máu trong một thí nghiệm để quan sát phản ứng kháng khuẩn của bề mặt hạt xi măng so với một thí nghiệm khác mẫu dò không được phủ các thành phần trên.danh-gia-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-02

Theo mục đích ban đầu, các mẫu thử đều được nhúng vào huyết tương trong vòng 30 phút ở nhiệt độ 37oC trước khi tiến hành đo.

2.6. Kiểm tra độc tính trong ống nghiệm

Hạt xi măng nano bạc với tỷ trọng 1,0% bạc đã được tiến hành thí nghiệm trong lần này. 2 loại độc tính khác nhau đã được phát hiện. Đầu tiên, lọc rửa các hạt xi măng được thí nghiệm với nguyên bào sợi từ mô chuột. Tiếp theo, thí nghiệm nguyên bào xương người trên hạt xi măng.

2.6.1. Lọc rửa – độc tính định lượng

3 tiêu chí đã đo được: (1) sự giải phóng lactate dehydrogenase, (2) số lượng các tế bào gốc, (3) hàm lượng protein trong nguyên bào sợi mô chuột.

2.6.1.1. Sự giải phóng của lactate dehydrogenase

Hạt xi măng (đường kính: 36mm, bề dày: 3mm) được nuôi trong môi trường DMEM ở 37oC và 5% pCO2 trong vòng 48 giờ. Tỉ lệ diện tích/thể tích của hạt xi măng và môi trường nuôi cấy là 2cm2/ml. Chất hoạt động bề mặt Triton X-100 và dung dịch nuôi cấy tế bào không độc được dùng như mẫu chứng. Sau khi thí nghiệm kết thúc, dung dịch nuôi cấy được gạn lọc và bổ sung thêm huyết thanh thai bê (tỷ lệ FCS trong dung dịch nuôi cấy tế bào là 10%). Dung dịch nuôi cấy tế bào chứa FCS được nhỏ vào nguyên bào sợi từ của chuột trong 24 well plates (50,000 tế bào mỗi well) trước khi nuôi cấy, sau đó các tế bào này được nuôi ở nhiệt độ 37oC và 5% pCO2 trong vòng 48 giờ. Sự giải phóng ra lactate dehydrogenase được đo bằng công nghệ enzyme với độ hấp thu ở mức 450 nm.

2.6.1.2. Tổng hàm lượng protein

Sau đó, các tế bào được dung giải bằng cách thêm 20% NaOH và nuôi cấy trong vòng 1 giờ ở 75oC, tổng tỷ lệ protein ở các tế bào bị dung giải được đánh giá bằng phương pháp Bradford. Thí nghiệm được tiến hành chỉ với hạt xi măng để ngăn sự tương tác trực tiếp giữa các mẫu thử.

2.6.1.3. Số lượng tế bào gốc

Trong một đĩa cấy tế bào 24 giếng, nguyên bào sợi L929 được cố định bằng methanol và được làm sạch bằng PBS, tạo màu bằng dung dịch màu xanh methylene có chứa methylene blue, ethanol và HCL. Có thể loại bỏ đi màu sắc bằng cách rửa cùng dung dịch alkaline borate buffer. Sau khi loại bỏ đi màu xanh bằng axit ethanol, số lượng tế bào được xác định qua mật độ quang học ở mức 590 nm. Trước khi cố định số tế bào chính xác, thể nổi sẽ được loại bỏ bằng một hệ thống hút.

2.6.2. Sự tăng trưởng của nguyên bào xương người – độc tính định tính

Đĩa chứa hạt xi măng được thêm vào 2 ml nguyên bào xương người hFOB 1.19 với nồng độ 200,000 tế bào/ml để trong 48 giờ ở 37oC và 5% pCO2 trong môi trường DMEM (+10% FCS). Môi trường nuôi cấy tế bào (DMEM + 10% FCS) không độc với Triton X-100 là mẫu chứng độc. Sau khi nuôi cấy mẫu thử được rửa lại 2 lần bằng dung dịch đệm PBS. CalceinAM và ethidium-dimer được sử dụng để tạo màu cho các nguyên bào xương sống và các nguyên bào xương chết.

3. Kết quả

3.1. Hoạt động kháng khuẩn trong ống nghiệm

3.1.1. S. epidermidis EDCC 5245 (Ảnh 3)

Hạt xi măng PMMA tinh chất không thể ức chế sự tăng sinh của S. epidermidis EDCC 5245, trái lại hạt xi măng kháng sinh thường dẫn tới sự ức chế tăng sinh hoàn toàn của các loại vi khuẩn. Hàm lượng nano bạc trong hạt xi măng càng cao, hiệu quả kháng khuẩn càng cao. Hạt xi măng với hàm lượng 1% nano bạc hoàn toàn ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245 và cũng có hiệu quả tương tự như hạt xi măng kháng sinh.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-03

3.1.2. MRSE EDCC 5130 (Ảnh 4)

MRSE EDCC 5130 không khác biệt khi ở trong cả hạt xi măng tinh chất và hạt xi măng kháng sinh. Cả hạt xi măng tinh chất và hạt xi măng kháng sinh đều không có hiệu quả chống lại MRSE EDCC 5130. Hạt xi măng 1% nano bạc có hiệu quả chống lại MRSE EDCC 5130 cao hơn và có thể ức chế hoàn toàn được sự sinh trưởng của loại vi sinh vật này. Bên cạnh đó, hiệu quả của nano bạc cũng tùy thuộc vào liều lượng. Hạt xi măng với hàm lượng nano bạc 1% là loại hạt xi măng duy nhất có khả năng ức chế hoàn toàn được sự sinh trưởng của MRSE EDCC 5130.

3.1.3. MRSA EDCC 5246 (Ảnh 5)

Quan sát tương tự đối với MRSE EDCC 5130 đã được thực hiện trên MRSA EDCC 5246. Hàm lượng nano bạc 1% có hiệu quả cao trong việc chống lại MRSA EDCC 5246. Tuy nhiên, hạt xi măng kháng sinh và hạt xi măng tinh chất không thể ức chế được sự sinh trưởng của MRSA EDCC 5246.

3.1.4. Phủ mẫu thử hạt xi măng bằng huyết tương (Ảnh 5)

Phủ hạt xi măng nano bạc bằng máu hoặc các thành phần của máu (Ảnh 5, cột 6-10) trong thí nghiệm trên MRSA EDCC 5246 không làm giảm hiệu quả kháng khuẩn so với hạt xi măng nano không phủ các thành phần trên với hàm lượng nano như nhau (Ảnh 5, cột 3-5). Mặt khác, hiệu quả kháng khuẩn của hạt xi măng nano có cao hơn một chút. Điều này không được thấy ở mẫu hạt xi măng kháng sinh.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-04nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-05

3.2. Độc tính trong thí nghiệm ống nghiệm

3.2.1. Xét nghiệm tách rửa – độc tính định tính

Giải phóng lactate dehydrogenase là thước đo cho tính toàn vẹn của tế bào. Sau 48 giờ, không có bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong sự giải phóng lactate dehydrogenase giữa hạt xi măng bạc và chứng thử không độc. Trái lại, có một sự thay đổi đáng kể giữa hạt xi măng bạc và nhóm Triton (Ảnh 6). Tất cả các thí nghiệm về hàm lượng protein đều không phát hiện ra được thay đổi đáng kể nào giữa môi trường trích xuất hạt xi măng và môi trường nuôi cấy tế bào không độc. Giữa tổng hàm lượng protein được phân lập từ chứng thử độc và hạt xi măng bạc và giữa chứng thử độc và môi trường nuôi cấy tế bào có sự khác biệt lớn (Ảnh 6b). Nhiều nguyên bào sợi được cấy trong môi trường cấy tế bào không độc không khác biệt nhiều lắm so với những tế bào được cấy trong môi trường trích xuất hạt xi măng bạc. Nhóm chứng thử độc khác hẳn so với cả 2 nhóm còn lại (Ảnh 6c). Hạt xi măng nano bạc khi được phân tích dựa trên các xét nghiệm định lượng không có độc tính. Dữ liệu không chỉ ra bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào so với nhóm chứng thử không độc.

3.2.2. Sự phát triển của nguyên bào xương người – độc tính định tính

Nguyên bào xương người phát triển theo kiểu mạng lưới trong môi trường nuôi cấy tế bào (Ảnh 7a). Hầu như tất cả các tế bào đều sống khi soi dưới kính hiển vi. Các tế bào này đều hình thành nên nhiều quá trình theo cụm tại tâm của môi trường nuôi cấy tế bào. Sau khi thêm Triton các tế bào bị tiêu diệt toàn bộ, không còn tế bào sống nào được thấy nữa. Các nguyên bào xương hình thành các quá trình tế bào trên hạt xi măng nano bạc ở nhóm chứng thử không độc cho thấy tính tương hợp của hạt xi măng. Chỉ một vài nguyên bào xương chết được phát hiện nhờ vào màu sắc ở hạt xi măng nano (Ảnh 7).

3.3. Tóm tắt kết quả

Hạt xi măng nano bạc là loại hạt xi măng duy nhất hoàn toàn ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245, MRSE EDCC 5130 và MRSA EDCC 5246. Hạt xi măng kháng sinh cũng có thể ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245 nhưng không có hiệu quả chống lại MRSE EDCC 5130 hay MRSA EDCC 5246. Hạt xi măng tinh chất PMMA không có hiệu quả kháng khuẩn với tất cả các chủng virus. Không có sự khác biệt lớn nào trong các xét nghiệm độc tính định tính hay độc tính định lượng giữa hạt xi măng nano bạc và nhóm chứng thử không độc. Chính vì vậy, hạt xi măng nano bạc không có bất cứ độc tính nào trong thí nghiệm ống nghiệm lần này.

4. Thảo luậnnghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-06

Các vật liệu sinh học có tính kháng khuẩn để kết hợp với hạt xi măng phải đáp ứng được một số điều kiện tiên quyết quan trọng. Đầu tiên, chúng phải hiệu quả trong việc giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn trong phẫu thuật thay khớp toàn phần. Thứ hai, vật liệu sinh học không được gây ra những phản ứng độc quá mức trong cơ thể người. Hơn nữa, đối mặt với các vấn đề như nhiễm khuẩn đa kháng kháng sinh sau phẫu thuật đang tăng lên, hạt xi măng kháng khuẩn nên làm tốt nhiệm vụ để giảm tối đa nguy cơ vi khuẩn kháng kháng sinh.

Thảo luận dưới đây tập trung chủ yếu vào những vấn đề chính như thứ gì nên được kết hợp với hạt xi măng, kháng sinh hay bạc? Trong thập kỷ trước, số lượng và phần trăm các ca nhiễm trùng sâu tại vị trí phẫu thuật xương do vi khuẩn kháng kháng sinh tăng lên. Nhiễm các loại vi khuẩn đa kháng kháng sinh như S. aureus (MRSA) kháng methicillin hay S. epidermidis kháng methicillin (MRSE) gây ra những biến chứng nặng. Trong những trường hợp nhiễm những loại vi khuẩn kháng kháng sinh này ở vị trí thay hông hay đầu gối thường làm giảm tỉ lệ thành công của ca phẫu thuật giảm xuống đáng kể so với nhiễm những loại vi khuẩn không kháng kháng sinh. Qua đây thấy được tầm quan trọng của việc cảnh giác ngay từ đầu với không chỉ nguy cơ nhiễm trùng nói chung mà còn với cả những loại vi khuẩn kháng kháng sinh.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-07

Những loại kháng sinh hay được sử dụng để kết hợp với hạt xi măng nhất là tobramycin hay gentamicin. Hạt xi măng trộn gentamicin không có độc tính được cho biết qua một nghiên cứu kéo dài 10 năm. Cả MRSE EDCC 5130 và MRSA EDCC 5245 trong nghiên cứu hiện tại đều kháng gentamicin ở mức cao (MIC 64 mg/ml). Điều này khiến cho hạt xi măng trộn gentamicin trở nên kém hiệu quả. S. epidermidis EDCC 5245 kháng gentamicin ở mức cực kỳ thấp (MIC of o0.0064 mg/ml), điều này giải thích cho tính tương hợp giữa S. epidermidis và hạt xi măng trộn gentamicin.

Sự kháng gentamicin không phải là một tình trạng do lạm dụng mà là một vấn đề nghiêm trọng hơn và đây cũng chính là điểm hạn chế lớn nhất của hạt xi măng trộn gentamicin. Hạt xi măng trộn gentamicin cũng làm tăng nguy cơ nhiễm những loại vi khuẩn kháng gentamicin cao hơn so với hạt xi măng tinh chất qua một thí nghiệm được tiến hành bởi Thornes và các cộng sự. Ông và các cộng sự cũng chỉ ra rằng bề mặt hạt xi măng đã được trộn kháng sinh là môi trường lý tưởng cho sự phát triển của các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh do thời gian tiếp xúc với kháng sinh kéo dài đủ để thích nghi. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sử dụng PMMA khiến cho sự phát triển của các khuẩn lạc nhỏ của chủng Staphylococcus kháng kháng sinh gây nhiễm khuẩn kéo dài sau khi phẫu thuật.

Chính vì vậy, hạt xi măng trộn gentamicin có thể được xem như có hiệu quả kháng khuẩn tương đối và độc tính thấp (Ảnh 8). Trong lúc này, một loại thuốc kháng khuẩn mới ra đời là điều đang rất được mong chờ. Bên cạnh hiệu quả kháng khuẩn của kháng sinh, bạc cũng là một chất có khả năng kháng khuẩn tốt. Dueland và các cộng sự đã đánh giá tác dụng của hạt xi măng trộn bạc sulphate trên thỏ. S. aureus đã được tiêm vào ống tủy xương chày của thỏ trong khi phẫu thuật. Những con thỏ được này có tỉ lệ sống thấp hơn hẳn những con thỏ được tiến hành bằng hạt xi măng bạc sulphate.

Tính kháng khuẩn cao cũng đồng thời làm suy giảm chức năng của hệ thần kinh ngoại biên. Điều này được nhận thấy qua những nghiên cứu về biến chứng nhiễm độc thần kinh ở một bệnh nhân được điều trị bằng hạt xi măng trộn bạc.nghien-cuu-ve-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-08

Hàm lượng ion bạc tăng lên cực kỳ cao trong huyết tương và hoạt dịch khớp hông khiến cho quá trình nhiễm độc bạc diễn ra sau 5 năm sau khi cấy ghép. Không có bất cứ yêu cầu cụ thể nào cho loại bạc được kết hợp với hạt xi măng. Do hàm lượng ion bạc cao nên việc sử dụng muối bạc là hoàn toàn có khả năng.

Ảnh hưởng độc tố có thể cản trở việc sử dụng loại xi măng bạc này liên tục cả ngày mặc dù có tính kháng khuẩn tốt (Ảnh 8). Mặc dù không có bất kỳ tác dụng phụ nào do độc tố trong các thí nghiệm ống nghiệm của hạt xi măng trộn phân tử bạc. Nhưng vẫn cần thêm thời gian để đánh giá các thử nghiệm ống nghiệm, đặc biệt là sau thử nghiệm ngăn viêm màng trong tim bằng van nhân tạo (AVERT). Van tim được phủ một lớp bạc (Silzones, St. Jude Medical, Minneapolis, MN, USA) đã được loại bỏ độc tính trong một thí nghiệm về tính tương hợp của nguyên bào sợi và tính tương hợp sinh học trong một mô hình sinh trưởng bên trong của cừu.

Dựa trên những dữ liệu này và hiệu quả kháng khuẩn đầy triển vọng của hạt xi măng được phủ bạc, một thử nghiệm lâm sàng trên 4400 bệnh nhân đã được tiến hành năm 1998. Trong năm 2002, 2 nhóm thử nghiệm được báo lại có tỉ lệ hở cận van tim tăng ở bệnh nhân có van Silzones, điều này góp phần gây ra sự nhạy cảm quá mức hay dị ứng và ức chế sự phát triển của nguyên bào sợi bình thường dẫn đến việc phải tháo van Silzone. Có một số sự khác biệt lớn giữa van Silzone và hạt xi măng nano bạc.

Đầu tiên là phân tử nano bạc hoạt động bề mặt rộng hơn và  phân bổ đồng đều hơn so với phân tử bạc trên bề mặt van Silzone. Tiếp theo là bề mặt van Silzone được phủ một lớp bạc, lớp bạc này có nguy cơ bị bong ra ở môi trường áp suất cao, trái lại nano bạc được thêm vào hạt xi măng sau đó trộn lại. Về lâu dài, những nghiên cứu trong ống nghiệm sẽ chỉ ra rõ hơn về những ảnh hưởng do độc tính của nano bạc trong hạt xi măng. Bằng cách kết hợp những cấu trúc tế bào lại với nhau như enzyme với các protein, đặc biệt là nhóm SH, các ion bạc can thiệp vào tính toàn vẹn của tế bào vi khuẩn và quá trình tạo ra năng lượng của chúng. Chế độ kháng khuẩn nhiều mức độ này bảo đảm rằng sự đề kháng không dễ dàng xảy ra chỉ bởi một đột biến điểm, trái với kháng sinh nhóm aminoglycoside sự đề kháng có thể xảy ra dễ dàng hơn nhiều. Kháng bạc đã từng nhắc tới, nhưng cho tới nay nó không ảnh hưởng quá nhiều tới hệ vi sinh vật trong cơ thể. Câu hỏi thường được đặt ra là tại sao bạc không có những ảnh hưởng độc tính lên các tế bào nhân thực. Các tế bào nhân thực thường lớn hơn các tế bào nhân sơ và thường là mục tiêu lớn hơn nhiều cho việc tấn công các ion bạc.

Các tế bào nhân thực cũng có cũng có cấu trúc và chức năng ở mức cao hơn so với các tế bào nhân sơ. Chính vì vậy, phải cần tới một hàm lượng ion bạc đủ cao để có thể thấy được những ảnh hưởng độc tính so với các tế bào vi khuẩn. Sự khác biệt này mang tới một “cửa sổ điều trị”, các tế bào vi khuẩn có thể bị tiêu diệt thành công, trái lại những tác động có hại lên các tế bào nhân thực không còn nữa. Phản ứng của bạc lên sự tạo ra năng lượng tế bào có thể được coi là một ví dụ minh họa.

Các phức hợp protein của chuỗi truyền điện tử được đặt trên bề mặt tế bào, chính vì thế dễ dàng bị vô hiệu hóa bởi các ion bạc phản ứng. Ở các tế bào nhân thực có cấu trúc tương tự được phát hiện ở ty thể. Cần hàm lượng ion bạc lớn để vô hiệu hóa các protein ty thể do lớp niêm mạc tế bào hoạt động như một lớp hàng rào bảo vệ cần phải vượt qua đầu tiên. Hơn nữa, các tế bào nhân thực cũng có chứa một vài ty thể, trong khi các tế bào vi khuẩn thì không để có thể tự bảo vệ hệ thống bảo toàn năng lượng khỏi sự tấn công của các ion bạc. Vì thế, quá trình hô hấp của vi khuẩn bị cản trở nghiêm trọng, trong khi đó quá trình hô hấp tế bào không bị ảnh hưởng bằng. Hạt xi măng có chứa 1% nano bạc có khả năng kháng khuẩn cao và chống lại được hầu hết các chủng như MRSA EDCC 5246 hay MRSE EDCC 5130.

Phủ bề mặt hạt nano bạc bằng huyết tương được thực hiện để phỏng theo các biểu hiện lâm sàng sau khi phẫu thuật thay khớp toàn phần, hạt xi măng lúc này sẽ được phủ ngay lập tức với một lớp huyết tương trước khi tiêm vào xương. Lớp bọc huyết tương thậm chí cũng làm tăng hiệu quả kháng khuẩn của nano bạc và điều này cũng được chứng minh là phù hợp với mục đích lâm sàng. Hiệu quả kháng khuẩn tăng lên của bạc nhờ vào lớp phủ huyết tương cũng được báo lại sớm hơn so với những yếu tố khác. Bằng chứng khoa học cho điều này hiện không còn. Nhìn chung, nano bạc được chứng minh có tính kháng khuẩn tốt mà không có độc tính (Ảnh 8).

5. Kết luận

Hạt xi măng nano bạc hoàn toàn ức chế được sự sinh trưởng của S. epidermidis EDCC 5245, MRSE EDCC 5130 và MRSA EDCC 5246 mà không có độc tính qua thí nghiệm ống nghiệm. Nếu những kết quả này được xác định chắc chắn hơn qua các thí nghiệm trên vật thể sống, nano bạc có thể trở thành loại vật liệu sinh học được sử dụng nhiều nhất trong lĩnh vực phẫu thuật tạo hình xương, khớp, đặc biệt là nhờ vào đặc tính chống lại các loại vi khuẩn đa kháng kháng sinh, điều này không thể có được nhờ vào hạt xi măng kháng sinh. Những xét nghiệm độc tính trong ống nghiệm có sự cộng tác của bác sĩ Scheddin, CYTOX, 91052 Erlangen, Đức.

Tham khảo

[1] Breusch SJ, Aldinger PR, Thomsen M, Ewerbeck V, Lukoschek M. Anchoring principles in hip endoprostheses. I: prosthesis stem. Unfallchirurg 2000;103:918–31.

[2] Gristina AG. Biomaterial-centered infection; microbial adhesion versus tissue integration. Science 1987;237:1588–95.

[3] Buchholz HW, Engelbrecht H. Uber die Depotwirkung einiger . Antibiotika bei Vermischung mit dem Kunstharz Palacos. Chirurg 1970;40:511–5.

[4] Josefsson G, Gudmundsson G, Kolmert L, Wijkstrom S. Prophylaxis with systemic antibiotics versus gentamicin bone cement in total hip arthroplasty. A five-year survey of 1688 hips. Clin Orthop 1990;253:173–8.

[5] Thierse L. Erfahrungen mit Refobacin-Palacos im Hinblick auf die tiefen Spatinfektionen nach H . uftoperationen. Z Orthop . 1978;116:847–9.

[6] Wannske M, Tscherne H. Ergebnisse prophylaktischer Anwendung von Refobacin-Palacos bei der Implantation von Endoprothesen des Huftgelenkes in Hannover. In: Burri C, R . uter A, . editors. Lokalbehandlung chirurgischer Infektionen. Akt Probl Chir Ortho, vol. 12. Bern: Hans Huber; 1979. p. 201–8.

[7] Antti-Poika I, Josefsson G, Konttinen Y, Lidgren L, Santavirta S, Sanzen L. Hip arthroplasty infection. Current concepts. Acta Orthop Scand 1990;61:163–9.

[8] Harris WH, Sledge CB. The total hip and total knee replacement (Part II). N Engl J Med 1990;323:801–7.

[9] Josefsson G, Kolmert L. Prophylaxis with systemic antibiotics versus gentamicin bone cement in total hip arthroplasty. A tenyear survey of 1688 hips. Clin Orthop 1993;292:210–4. [10] Espehaug B, Engesaeter LB, Vollset SE, Havelin LI, Langeland N. Antibiotic prophylactics in total hip arthroplasty. J Bone Jt Surg Br 1997;79-B:590–5.

[11] van de Belt H, Neut D, Schenk W, van Horn JR, van der Mei HC, Busscher HJ. Infection of orthopedic implants and the use of antibiotic-loaded bone cements. A review. Acta Orthop Scand 2001;72:557–71.

[12] Kilgus DJ, Howe DJ, Strang A. Results of periprosthetic hip and knee infections caused by resistant bacteria. Clin Orthop 2002;404:116–24.

[13] Crede KSF. Die Verh ! utung der Augenentz . undung der Neugebor- . enen, der haufigsten und wuchtigsten Ursache der Blindheit. A. . Hirschwald, Berlin, 1894.

[14] Chu CS, McManus AT, Pruitt BA, Mason AD. Therapeutic effects of silver nylon dressing with weak direct current on Pseudomans aeruginosa infected burn wounds. J Trauma 1988; 28:1488–92.

[15] Deitch EA, Marin A, Malakanov V, Albright JA. Silver nylon cloth: in vivo and in vitro evaluation of antimicrobial activity. J Trauma 1987;27:301–4.

[16] Margraff HW, Covey TH. A trial of silver-zinc-allantoine in the treatment of leg ulcers. Arch Surg 1977;112:699–704.

[17] Wyatt D, McGowan DN, Najarian MP. Comparison of a hydrocolloid dressing and silver sulphadiazine cream in the outpatient management of second degree burns. J Trauma 1990; 30:857–65.

[18] Bechert T, Steinrucke P, Guggenbichler JP. A new method . for screening antibacterial biomaterials. Nat Med 2000;6: 1053–6.

[19] Bechert T, Boswald M, Lugauer S, Regenfus A, Greil J, . Guggenbichler JP. The Erlanger Silver Catheter: in vitro results for antimicrobial activity. Infection 1999;27(Suppl 1): S24–9. [20] Joyce-Wohrmann RM, M . unstedt H. Determination of silver ion . release from polyurethanes enriched with silver. Infection 1999; 27(Suppl. 1):S46.

[21] DiVincenzo GD, Giordano CJ, Schiever LS. Biologic monitoring of workers exposed to silver. Int Arch Occup Environ Health 1985;56:205–15.

[22] Franken E, Langhof H. Argyrosis universalis durch TargesinRollkulturen. Med Klein 1964;27:1094–6.

[23] Holzegel K. Uber die Agyrose der Haut und Schleimh . aute in der . chemischen Industrie. Z Ges Hyg 1970;16:440–7.

[24] Jensen EL, Rungby J, Hansen JC, Schmidt E, Pedersen B, Dahl R. Serum concentration and accumulation of silver in skin during three months treatment with an anti-smoking chewing gum containing silver accetate. Hum Toxicol 1988;7:535–40.

[25] Moss AP, Sugar A, Hargett NA, Atkin A, Wolkstein M, Roseman KD. The occular manifestations and functional effects of occupational argyrosis. Arch Ophthalmol 1979;97:90–908.

[26] Reinhardt G, Geldmacher V, Mallinckrodt M, Kittel H, Opitz O. Akute todliche Vergiftung mit Silbernitrat als Folge eines . Abtreibungsversuches. Arch Kriminol 1971;148:69–78.

[27] Konig O, Randerath O, Hackenbroch MH. Nosokomiale . Infektionen mit Methicillin-resistenten Staphylococcus aureus (MRSA)und -epidermidis (MRSE)Stammen: bedeutung, prophy- . laxe und therapie in der knochenchirurgie. Unfallchirurg 1999;102:324–8.

[28] Rosenman KD, Moss A, Kon S. Argyria: clinical implications of exposure of silver nitrate and silver oxide. J Occup Med 1979;21:430–5.

[29] Zech P, Colon S, Labeeuw R, Blanc-Brunat N, Richard P, Peron M. Syndrome nephrotique avec d ! epot d’argent. Nouv Presse M ! ed! 1973;2:161–4.

[30] O’Toole GA, Pratt LA, Watnick PI, Newman DK, Weaver VB, Kolter R. Genetic approaches to study of biofilms. Methods Enzymol 1999;310:91–109.

[31] Bradford MM. A rapid and sensitive method for the quantitation of microgram quantities of protein utilizing the principle of protein-dye binding. Anal Biochem 1976;72:248–54.

[32] Hirikawa K, Stuhlberg BN, Wilde AH, Bauer TW. Secic M Results of 2-stage reimplantation for infected total knee arthroplasty. J Arthroplasty 1998;13:22–8.

[33] James PJ, Butcher IA, Gardner ER, et al. Methicillin-resistant Staphylococcus epidermidis in infection of hip arthroplasties. J Bone Jt Surg Br 1994;76-B:725–7.

[34] Hope PG, Kristinsson KG, Norman P, Elson RA. Deep infection of cemented total hip arthroplasty caused by coagulase-negative staphylococci. J Bone Jt Surg Br 1989;71-B:851–5. [35] Thornes B, Murray P, Bouchier-Hayes D. Development of resistant strains of Staphylococcus epidermidis on gentamicinloaded bone cement in vivo. J Bone Jt Surg Br 2002;84-B: 758–60.

[36] von Eiff C, Lindner N, Proctor RA, Winkelmann W, Peters G. Development of gentamicin-resistant small colony variants of S. aureus after implantation of gentamicin chains in osteomyelitis as a possible cause of recurrence. Z Orthop Ihre Grenzgeb 1998;136:268–71.

[37] Dueland R, Sparado JA, Rahn BA. Silver antibacterial bone cement. Clin Orthop 1982;169:264–8.

[38] Vik H, Andersen KJ, Julshamn K, Todnem K. Neuropathy caused by silver absorption from arthroplasty cement. Lancet 1985;13:872.

[39] Sudmann E, Vik H, Rait M, Todnem K, Andersen KJ, Julsham K, Flesland O, Rungby J. Systemic and local silver accumulation after total hip replacement using silver-impregnated bone cement. Med Prog Technol 1994;20:179–84.

[40] Tweden KS, Cameron JD, Razzouk AJ, Holmberg WR, Kelly SJ. Biocompatibility of silver-modified polyester for antimicrobial protection of prosthetic valves. J Heart Valve Dis 1997;6: 553–61.

[41] Butany J, Scully HE, VanArsdell G, Leask R. Prosthetic heart valves with silver-coated cuff fabric: early morphological features in two patients. Can J Cardiol 2002;18:733–8.

[42] Schaff HV, Carrel TP, Jamieson WRE, Jones KW, Rufilanches JJ, Cooley DA, Hetzer R, Stumpe F, Duveau D, Moseley P, van Boven WJ, Grunkemeier GL, Kennard ED, Holubkov R. Paravalvular leak and other events in silzone-coated mechanical heart valves: a report from AVERT. Ann Thorac Surg 2002;73:785–92.

[43] Ghandour W, Hubbard JA, Deistrung J, Hughes MN, Poole RK. The uptake of silver ions by Escherichia coli: toxic effects and interactions with copper ions. Appl Microbiol Biotechnol 1988;28:559–65.

[44] Grier N. Silver and its compounds. In: Block SS, editor. Disinfection, sterilization, and prevention. Philadelphia: Lea & Febiger; 1977. p. 395–407.

[45] Petering HG. Pharmacology and toxicology of heavy metals: silver. Pharmacol Ther A 1976;1:127–30.

[46] Schreurs WJ, Rosenberg H. Effect of silver ions on transport and retention of phosphate by Escherichia coli. J Bacteriol 1982;152: 7–13.

[47] Bragg PD, Rainnie DJ. The effect of silver ions on the respiratory chain of Escherichia coli. Can J Microbiol 1973;20: 883–9.

[48] Davies J, Wright GD. Bacterial resistance to aminoglycoside antibiotics. Trends Microbiol 1997;5:234–40. [49] Gupta A, Phung LT, Taylor DE, Silver S. Diversity of silver resistance genes in IncH incompatibility group plasmids. Microbiology 2001;147:3393–402.

Bài viết Đánh giá về các đặc tính kháng khuẩn và độc tính của hạt xi măng nano bạc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/danh-gia-ve-cac-dac-tinh-khang-khuan-va-doc-tinh-cua-hat-xi-mang-nano-bac-79476/feed/ 0