Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Mon, 15 Jan 2024 07:51:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Xử trí đau ngực cấp https://benh.vn/xu-tri-dau-nguc-cap-4099/ https://benh.vn/xu-tri-dau-nguc-cap-4099/#respond Tue, 02 Jan 2024 13:49:40 +0000 http://benh2.vn/xu-tri-dau-nguc-cap-4099/ Đau ngực thường làm bệnh nhân có cảm giác hoảng sợ và bắt buộc phải đi khám bệnh. Chẩn đoán đau ngực thường gặp khó khăn do đau ngực tiểm ẩn các bệnh lý nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời.

Bài viết Xử trí đau ngực cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Đau ngực là một triệu chứng thường gặp trong cấp cứu. Trong đời hầu như ai cũng bị ít nhất hơn 1 lần đau ngực.

Đau ngực thường làm bệnh nhân có cảm giác hoảng sợ và bắt buộc phải đi khám bệnh. Chẩn đoán đau ngực thường gặp khó khăn do đau ngực tiềm ẩn các bệnh lý nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời.

đau ngực cấp

Nguyên nhân

Nguyên nhân của đau ngực rất đa dạng

Có thể bao gồm các nguyên nhân đe dọa tính mạng như:

  • Nồi máu cơ tim và các cơn đau thắt ngực.
  • Phình tắc động mạch chủ.
  • Nhồi máu phổi (tắc nghẽn động mạch phổi)
  • Tràn khí màng phổi.

Tuy nhiên nhiều khi đau ngực lại bao gồm các nguyên nhân ít nguy hiểm đến tính mạng hơn như:

  • Viêm phổi
  • Viêm ngoài màng tim
  • Bệnh lý trào ngược dạ dày – thực quản
  • Viêm các cơ sụn sườn, đau mỏi các cơ ngực
  • Viêm thần kinh liên sườn, Zona hoặc Herpes vùng ngực…

Nhận biết dấu hiệu bệnh

1. Các nguyên nhân đau ngực cấp đe dọa tính mạng

Nhồi máu cơ tim và cơn đau thắt ngực

Nhồi máu cơ tim xuất hiện khi động mạch cung cấp máu cho tim (động mạch vành) bị tắc nghẽn. Bệnh nhân có thể có tiền sử đau ngực trước đó hoặc đã được chẩn đoán cơn đau thắt ngực trước đó.

– Đặc điểm đau ngực thường đau vùng trước tim bên trái, đau cảm giác nặng ngực hoặc bóp nghẹn, cơn đau điển hình có thể lan lên cổ, vai hoặc mặt trong cánh tay. Cơn đau thường kéo dài trên 20 phút. Cơn đau có thể xuất hiện tự nhiên hoặc sau khi gắng sức như đi lại, leo cầu thang, xúc động mạnh… nếu bệnh nhân đã có chẩn đoán từ trước bệnh nhân có thể đỡ đau sau khi ngậm một viên nitroglycerin, nếu ngậm nitroglycerin không đỡ bệnh nhân có thể đã bị nhồi máu cơ tim thực sự.

Bóc tách động mạch chủ

Động mạch chủ là động mạch chính xuất phát từ tim đưa máu đi khắp cơ thể, bóc tách động mạch chủ là khi lớp áo của động mạch chủ bị rách và lóc tách theo các động mạch dẫn đến thiếu máu các cơ quan hoặc vỡ khối phình động mạch chủ gây sốc mất máu.

– Đặc điểm của bóc tách động mạch chủ bệnh nhân thường đau ngực rất dữ đội, đau lan ra sau lưng, có thể có biểu hiện thiếu máu và nếu đo huyết áp có thể thấy chỉ số huyết áp của hai tay khác nhau.

Tắc mạch phổi

Là tắc nghẽn một trong những mạch máu chính cung cấp máu cho phổi. Đây là nguyên nhân gây đau ngực có thể ảnh hưởng đến tính mạng.

– Các triệu chứng thường đa dạng có thể có đau ngực, khó thở nhiều, tụt huyết áp, ho ra máu. Cần nghĩ đến tắc mạch phổi khi các triệu chứng này có thể xảy ra đột ngột đạc biệt ở những bệnh nhân nằm lâu tại chỗ, bệnh nhân cơ bệnh ung thư hoặc bệnh nhân có sưng đau một chân kèm theo.

Tràn khí mạng phổi nguyên phát

Thường được gọi là xẹp phổi, đây là tình trạng khí xuất hiện ở trong khoảng trống giữa thành ngực và nhu mô phổi. Bình thường, áp suất âm trong lồng ngực cho phép phổi nở ra. Khi bị tràn khí màng phổi nguyên phát, không khí đi vào trong lồng ngực dẫn đến mất cân bằng áp suất làm phổi không thể nở ra được và do đó sẽ làm mất đi sự cung cấp oxy bình thường trong cơ thể.

– Các triệu chứng có thể thấy bệnh nhân đột ngột đau nhói ở ngực như dao đâm, khó thở và có thể thấy lộng ngực căng hơn hoặc có tràn khí dưới da.

Ép tim cấp

Đây là tình trạng có dịch màng ngoài tim (màng ngoài tim là một túi tạo quanh tim) làm ép vào tim làm tim không co bóp được. Bệnh nhân thường có cảm giác đau liên tục, cảm giác như bóp nghẹt ngực, có thể có trụy mạch, tím tái…

2. Các nguyên nhân đau ngực ít đe dọa hơn đến tính mạng

Viêm phổi

Là nhiễm trùng nhu mô phổi. Đau ngực xuất hiện do lớp biểu mô của phổi bị viêm. Các triệu chứng kinh điển bệnh nhân thường đau ngực kèm theo sốt, ho nhiều, ho khạc đờm kèm theo mủ hoặc đờm màu gỉ sắt.

Những bệnh của thực quản

Đau ngực do những bệnh của thực quản rất thường gặp và có thể gây hoang mang lo sợ vì nó giống như những cơn đau ngực của nhồi máu cơ tim.

– Trào ngược dạ dày thực quản (GERD), viêm thực quản xuất hiện khi acid trong dạ dày đi ngược lên thực quản đôi khi cũng gây ra những cơn đau ngực. Người bệnh thường đau ngực kèm giảm giác nóng rát sau xương ức, ợ hơi, ợ chua.

– Co thắt thực quản: được định nghĩa là một tình trạng co thắt quá mức một cách bất thường củ cơ trơn thực quản. Bệnh nhân thường đau ngực kèm theo cảm giác nuốt nghẹn, nuốt vướng như cảm giác hóc xương.

Viêm sụn sườn

Đây là hiện tượng viêm của các sụn nằm giữa các xương sườn. Cơn đau thường ở vị trí giữa ngực, âm ỉ và nhói lên khi hít thở sâu, di chuyển và ấn sau vào lồng ngực.

Herpes zoster

Đây là thể tái phát của bệnh thủy đậu, những mụn nước thường xuất hiện ở một bên cơ thể. Đau rất dữ dội, thường giới hạn ở những vùng có mụn nước. Cơn đau có thể xuất hiện trước mụn nước vài ngày.

Viêm thần kinh liên sườn

Người bệnh thường có cảm giác đau lan từ trước ngực ra sau lưng theo một cung xương sườn, đau tăng khi hít sâu hoặc vận động tại bên viêm nhưng đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường.

Điều trị

Khi bị đau ngực tốt nhất nên đến cơ sở y tế để khám và loại trừ các nguyên nhân đau ngực nguy hiểm.

Các xét nghiệm thầy thuốc có thể chỉ định gồm: chụp tim phổi, ghi điện tim đồ, xét nghiệm các men tim loại trừ nhổi máu cơ tim, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực khi nghi ngờ bệnh lý nhu mô phổi, siêu âm tim…

Tùy thuộc vào nguyên nhân mà thầy thuốc sẽ có các xử trí phù hợp.

1. Nhồi máu cơ tim

Thầy thuốc sẽ dùng các thuốc chống đông để tái tưới máu vùng mạch máu bị tắc nghẽn như aspirin, clopidogrel, heparin…

Nong mạch vành là phương pháp làm thông động mạch hiệu quả nếu bệnh nhân đến sớm tốt nhất trước 6 giờ.

Cần phải phẫu thuật nối chủ vành nếu điều trị bằng thuốc thất bại, bao gồm nong mạch vành.

2. Đau thắt ngực

Nitroglycerin được sử dụng rộng rãi nhất có tác dụng làm giãn mạch vành, thường được ngậm dưới lưỡi.

3. Bóc tách động mạch chủ

Điều trị chủ yếu là giảm đau, kiểm soát huyết áp bằng thuốc, bệnh nhân có thể phải phẫu thuật thay động mạch chủ nếu phình tách gần tim hoặc đặt giá đỡ động mạch chủ.

4. Thuyên tắc mạch phổi

Điều trị bao gồm tăng cung cấp oxy, cho thuốc kháng đông như heparin, thuốc làm tan máu động được sử dụng trong một số trường hợp.

5. Tràn khí màng phổi

Nếu triệu chứng khó thở hoặc vùng tràn khí lớn, bệnh nhân sẽ được đặt dẫn lưu chất khí hoặc đặt một ống luồng vào lồng ngực để hút khí.

6. Ép tim cấp

Người bệnh cần được chọc hút dịch và dẫn lưu dịch màng tim cấp cứu.

7. Viêm phổi

Viêm phổi được điều trị với kháng sinh và thốc giảm đau khi bệnh nhân bị nhạy cảm ở thành ngực.

8. Viêm sụn sườn

Thường được điều trị với kháng viêm không steroid như inbuprofen.

9. Những bệnh của thực quản như trào ngược dạ dày thực quản

Người bệnh thường được dùng các thuốc giảm bài tiết dịch vị dạ dày và các thuốc bao bộc niêm mạc dạ dày thực quản.

Bài viết Xử trí đau ngực cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/xu-tri-dau-nguc-cap-4099/feed/ 0
Bệnh nhồi máu não https://benh.vn/benh-nhoi-mau-nao-5109/ https://benh.vn/benh-nhoi-mau-nao-5109/#respond Mon, 27 Nov 2023 05:17:09 +0000 http://benh2.vn/benh-nhoi-mau-nao-5109/ Bệnh nhồi máu não bao gồm các quá trình bệnh lý làm giảm lưu lượng tuần hoàn của một vùng não do hẹp, tắc mạch máu não hoặc do hạ huyết áp. Phần não bị ngừng cung cấp máu được gọi là thiếu máu não. Nếu sự thiếu cung cấp máu không được khắc phục và kéo dài thì phần não đó bị hoại tử do thiếu oxy và glucose. Vùng não bị hoại tử do sự thiếu cung cấp máu này được gọi là nhồi máu não.

Bài viết Bệnh nhồi máu não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh nhồi máu não bao gồm các quá trình bệnh lý làm giảm lưu lượng tuần hoàn của một vùng não do hẹp, tắc mạch máu não hoặc do hạ huyết áp. Phần não bị ngừng cung cấp máu được gọi là thiếu máu não. Nếu sự thiếu cung cấp máu không được khắc phục và kéo dài thì phần não đó bị hoại tử do thiếu oxy và glucose. Vùng não bị hoại tử do sự thiếu cung cấp máu này được gọi là nhồi máu não.

Nhồi máu não chiếm tỷ lệ khoảng 80% đột quỵ não, 20% còn lại của đột quỵ não là chảy máu não, chảy máu dưới nhện. Tỷ lệ mắc hàng năm của nhồi máu não tương đối cao, khoảng 130/100.000 người/năm. Tỷ lệ mới mắc là 22/100.000 người/năm.

Nguyên nhân gây bệnh nhồi máu não

Nguyên nhân thường gặp của nhồi máu não bao gồm:

  • Xơ vữa huyết khối của mạch máu lớn chiếm 50%, trong đó các mạch máu lớn ngoài sọ chiếm 45%, mạch máu lớn trong sọ chiếm 5%.
  • Nguyên nhân từ tim gây cục huyết khối như bệnh van tim, rung nhĩ… chiếm 20%.
  • Tắc các mạch máu nhỏ trong não chiếm 25%.
  • Bệnh động mạch không xơ vữa chiếm < 5%.
  • Bệnh về máu chiếm <5%.

Chẩn đoán bệnh nhồi máu não

Triệu chứng lâm sàng: Các triệu chứng lâm sàng của nhồi máu não xảy ra đột ngột thường vào lúc đang ngủ. Các triệu chứng điển hình thường là đau đầu, nôn hoặc buồn nôn, liệt nửa người. Có thể có rối loạn ý thức nếu tổn thương nhồi máu não rộng, nhồi máu hai bên bán cầu não hoặc nhồi máu thân não.

nhoi-mau-nao

Hình ảnh chụp cắt lớp não: Trong giai đoạn tối cấp 3-6 giờ của nhồi máu não, các thay đổi trên hình ảnh chụp cắt lớp não rất kín đáo, chủ yếu do phù não ở vùng thiếu máu não gây ra. Các dấu hiệu sớm của nhồi máu não trên chụp cắt lớp vi tính não bao gồm mất ranh giới chất trắng chất xám, mờ rãnh cuộn não, hẹp khe Sylvius, mất dải băng thuỳ đảo, hẹp não thất và bể đáy, tăng tỷ trọng các mạch máu trong khu vực đa giác Willis do cục máu đông đặc biệt động mạch não giữa. Trong giai đoạn sau khi ổ nhồi máu não đã hình thành thì hình ảnh chụp cắt lớp não là ổ giảm tỷ trọng ở vùng vỏ não, vùng dưới vỏ hoặc ở vùng chất trắng hoặc chất xám trong sâu theo vùng chi phối tưới máu của động mạch.

Hình ảnh chụp cộng hưởng từ não: Trong giai đoạn cấp ổ nhồi máu não giảm tín hiệu nhẹ trên ảnh T1W, tăng tín hiệu trên ảnh T2W. Tiêm thuốc đối quang từ thấy ổ tổn thương không ngấm thuốc. Trong giai đoạn bán cấp (sau 1 tuần) ổ nhồi máu não giảm tín hiệu trên ảnh T1W, tăng tín hiệu trên ảnh T2W. Tiêm thuốc đối quang từ thấy ổ tổn thương ngấm thuốc. Giai đoạn mạn tính ổ nhồi máu não giảm tín hiệu trên ảnh T1W, tăng tín hiệu trên ảnh T2W. Hiệu ứng khối mất sau 1 tháng, hiện tượng ngấm thuốc đối quang từ giảm dần sau vài tháng.

Điều trị bệnh nhồi máu não

– Điều trị tiêu huyết khối: Là biện pháp điều trị đặc hiệu của nhồi máu não. Tuy nhiên, để áp dụng được biện pháp điều trị này bệnh nhân phải đáp ứng được một loạt tiêu chuẩn xét nghiệm và thời gian trong đó tiêu chuẩn bắt buộc là thời gian trong vòng 3 giờ kể từ khi khởi phát.

– Aspirin và các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu khác: Tất cả bệnh nhân bị đột quỵ nhồi máu não cấp cần được dùng aspirin ngay chỉ trừ trường hợp bị dị ứng hoặc không dung nạp với aspirin hoặc đang cân nhắc dùng thuốc tiêu huyết khối. Các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu khác như dipyridamol, clopidogrel, cilostazole, ticlopydil là các thuốc được lựa chọn trong trường hợp bệnh nhân bị dị ứng hoặc không dung nạp với aspirin.

– Heparin và các thuốc chống đông khác được chỉ định điều trị trong đột quỵ nhồi máu não có rung nhĩ, bệnh van tim và ngăn ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu.

– Điều trị thuốc hạ huyết áp: Tăng huyết áp được xác định khi huyết áp tâm thu > 140mmHg hoặc huyết áp tâm trương > 90mmHg. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ chính của đột quỵ não. Đối với bệnh nhân tăng huyết áp chưa bị đột quỵ, nếu điều trị huyết áp trung bình giảm được 5,8mmHg thì nguy cơ đột quỵ giảm được 42%. Đối với bệnh nhân tăng huyết áp đã bị đột quỵ, nếu điều trị huyết áp tâm trương giảm được 5mmHg hoặc huyết áp tâm thu giảm được 10mmHg thì nguy cơ tương đối của đột quỵ giảm được 30%. Việc lựa chọn thuốc hạ huyết áp tuỳ từng bệnh nhân cụ thể.

– Điều trị đái tháo đường trong đột quỵ não: Trong nhồi máu não tất cả bệnh nhân đái tháo đường được khuyên điều trị để mức đường máu về bình thường và HbA1c dưới 7%. Đối với bệnh nhân n hồi máu não có đái đường, tăng huyết áp thì nhóm thuốc hạ huyết áp được khuyên dùng là nhóm ức chế men chuyển. Trong đột quỵ não nếu mức đường máu > 10mmol/L thì nên dùng insulin để kiểm soát đường máu.

Cách phòng chống bệnh nhồi máu não

Phát hiện và kiểm soát các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, các rối loạn nhịp tim và bệnh van tim.

Bài viết Bệnh nhồi máu não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-nhoi-mau-nao-5109/feed/ 0
Cơn đau thắt ngực và bệnh nhồi máu cơ tim https://benh.vn/con-dau-that-nguc-va-benh-nhoi-mau-co-tim-5359/ https://benh.vn/con-dau-that-nguc-va-benh-nhoi-mau-co-tim-5359/#respond Mon, 02 Oct 2023 05:22:21 +0000 http://benh2.vn/con-dau-that-nguc-va-benh-nhoi-mau-co-tim-5359/ Cơn đau thắt ngực xuất hiện do giảm dòng máu đến nuôi cơ tim. Cơn đau thắt ngực là triệu chứng của bệnh động mạch vành, với biểu hiện đau ngực trái, cảm giác bóp nghẹt, đè nặng hoặc như có ai đứng trên ngực của mình.

Bài viết Cơn đau thắt ngực và bệnh nhồi máu cơ tim đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Cơn đau thắt ngực xuất hiện do giảm dòng máu đến nuôi cơ tim. Cơn đau thắt ngực là triệu chứng của bệnh động mạch vành, với biểu hiện đau ngực trái, cảm giác bóp nghẹt, đè nặng hoặc như có ai đứng trên ngực của mình.

nhoi-mau-co-tim

Nhồi máu cơ tim là bệnh lý xuất hiện khi có cục máu đông gây bít tắc động mạch vành – mạch máu cung cấp máu và nuôi dưỡng cơ tim. Khi động mạch vành bị tắc, không còn dòng máu đến cơ tim sẽ gây phá huỷ hoặc chết một phần cơ tim tương ứng.

Triệu chứng cơn đau thắt ngực và bệnh nhồi máu cơ tim

Triệu chứng của nhồi máu cơ tim

– Cảm giác đau ngực với tính chất bóp nghẹt, tức nặng vùng giữa ngực kéo dài trên vài phút.

– Đau lan lên vai, cánh tay, lưng, răng hoặc hàm của bạn.

– Đau ngực có xu hướng tăng dần.

– Đau vùng bụng trên kéo dài.

– Khó thở.

– Vã mồ hôi.

– Một số bệnh nhân có cảm giác như sắp chết.

– Mệt mỏi, buồn nôn và nôn.

Ở một số trường hợp (đặc biệt là phụ nữ) có biểu hiện đau bụng vùng thượng vị, mệt mỏi không rõ nguyên nhân, da lạnh, chóng mặt hoặc choáng váng.

Tuy nhiên, không phải ai cũng có những triệu chứng điển hình của nhồi máu cơ tim như đã mô tả ở trên, thậm chí một số người không có triệu chứng. Nhưng nếu bạn bị những triệu chứng như trên, nhiều khả năng bạn đã bị nhồi máu cơ tim.

Hoàn cảnh bị nhồi máu cơ tim

Nhồi máu cơ tim có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào, khi bạn đang làm việc hoặc khi chơi thể thao, khi bạn nghỉ ngơi, thậm chí khi xúc động mạnh. Một số bệnh nhân đột ngột bị nhồi máu cơ tim, nhưng phần lớn bệnh nhân đã từng có cơn đau thắt ngực sẽ có những dấu hiệu cảnh báo hàng giờ, hàng ngày hoặc hàng tuần trước khi xảy ra nhồi máu cơ tim. Dấu hiệu cảnh báo sớm nhất đó là đau ngực tái đi tái lại xuất hiện khi gắng sức và đỡ khi nghỉ ngơi (do cơ tim sẽ bị thiếu máu tạm thời khi bạn gắng sức).

Khi nào bạn cần đến khám bác sĩ?

Khi bạn bị nhồi máu cơ tim, cần hành động ngay lập tức. Nhiều bệnh nhân đã lãng phí quá nhiều thời gian do không nhận ra các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. Hãy làm các bước sau:

– Gọi cứu trợ y tế khẩn cấp. Nếu bạn nghi ngờ mình bị nhồi máu cơ tim, đừng do dự. Hãy gọi 115 hoặc trung tâm y tế gần nhà. Nếu bạn không gọi điện được, hãy nhờ ai đó đưa bạn đến trung tâm y tế gần nhất.

– Ngậm viên thuốc nitroglycerin nếu đã được kê đơn. Nếu bác sĩ đã kê đơn thuốc nitroglycerin cho bạn, uống hoặc ngậm viên thuốc trong khi chờ đợi hỗ trợ y tế.

– Uống aspirin nếu có chỉ định. Nếu bạn nghĩ rằng mình bị nhồi máu cơ tim, việc uống aspirin là rất cần thiết để giảm tổn thương cơ tim, tuy nhiên bạn không nên tự uống thuốc khi chưa có sự chỉ định của bác sĩ.

Nguyên nhân của bệnh nhồi máu cơ tim

Nhồi máu cơ tim xảy ra khi một hoặc nhiều mạch máu nuôi dưỡng cho tim (động mạch vành) bị tắc. Theo năm tháng, động mạch vành bị hẹp dần lại do sự bồi đắp dần của cholesterol trong lòng động mạch hình thành các mảng xơ vữa. Khi một trong những mảng xơ vữa bị nứt vỡ ra, cục máu đông sẽ được hình thành trên mảng xơ vữa đó, nếu cục máu đủ lớn sẽ gây bít tắc toàn bộ lòng mạch và gây ra nhồi máu cơ tim.

Một số nguyên nhân ít gặp khác của nhồi máu cơ tim đó là: co thắt động mạch vành (đặc biệt là khi sử dụng ma tuý), cục máu đông hoặc khối u từ nơi khác bắn vào động mạch vành gây tắc mạch.

Yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ của nhồi máu cơ tim bao gồm:

– Tuổi. Nam giới trên 45 tuổi hoặc nữ trên 55 tuổi có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim nhiều hơn so với những người trẻ tuổi.

– Hút thuốc lá.

– Bệnh đái tháo đường.

– Tăng huyết áp.

– Tăng LDL-cholesterol (cholesterol trọng lượng phân tử thấp).

– Tiền sử gia đình có người bị nhồi máu cơ tim (bố mẹ hoặc ông bà).

– Ít vận động thể lực.

– Béo phì.

– Căng thẳng.

– Sử dụng thuốc cấm: ma tuý, thuốc phiện,…

Biến chứng của bệnh nhồi máu cơ tim

– Rối loạn nhịp tim, một số rối loạn nhịp tim nguy hiểm có thể dẫn đến chết người.

– Suy tim. Thiếu máu nuôi dưỡng sẽ làm cơ tim bị phá huỷ và mất chức năng sẽ gây ra suy tim về lâu dài.

– Vỡ tim. Vùng cơ tim thiếu máu nuôi dưỡng bị hoại tử và suy yếu sẽ có thể dẫn đến vỡ tim. Đây là biến chứng rất nặng, nguy cơ tử vong cao.

– Tổn thương van tim có thể dẫn đến tình trạng nặng đe doạ tính mạng.

Xét nghiệm cần làm và chẩn đoán

Bên cạnh việc hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng của bác sĩ, các xét nghiệm sẽ giúp chẩn đoán nhồi máu cơ tim. Các xét nghiệm bao gồm:

– Điện tâm đồ.

– Xét nghiệm máu.

– Siêu âm tim.

– Chụp động mạch vành.

– Trong một số trường hợp, cần làm nghiệm pháp gắng sức hoặc chụp cộng hưởng từ tim, xạ hình cơ tim.

Điều trị bệnh nhồi máu cơ tim

Mỗi phút trôi qua sau nhồi máu cơ tim, lại có nhiều hơn cơ tim bị thiếu oxy và bị phá huỷ. Do vậy, việc phục hồi dòng máu nuôi dưỡng cơ tim là đặc biệt quan trọng và tiến hành càng sớm càng tốt.

Thuốc điều trị

– Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu, bao gồm aspirin và nhóm thuốc có tính chất tương tự như asprin, ví dụ clopidogrel (plavix).

– Thuốc tiêu sợi huyết giúp tan cục máu đông trong động mạch vành.

– Các thuốc giúp làm máu “loãng” hơn và ít tạo thêm các cục máu đông mới, ví dụ như heparin.

– Nitroglycerin. Có tác dụng giãn mạch vành, giảm đau ngực.

– Thuốc làm giảm đau ngực như morphin.

– Các thuốc khác làm tim thư giãn hơn, giảm bớt nhịp tim và ngăn quá trình tiến triển của nhồi máu cơ tim như thuốc chẹn beta giao cảm, thuốc ức chế men chuyển.

– Thuốc làm hạ cholesterol.

Các biện pháp làm tái thông mạch máu

Nong bóng và đặt stent động mạch vành. Bác sĩ sẽ luồn một ống thông nhỏ vào động mạch vành bị tắc của bạn qua một động mạch, thường là động mạch quay hoặc động mạch đùi. Sau đó sẽ luồn một quả bóng đặc biệt tới nơi bị tắc nghẽn và làm quả bóng nở rộng, qua đó làm khai thông vị trí tắc và làm cho dòng máu được chảy trở lại. Cùng lúc đó, một ống kim loại đặc biệt (stent) được đưa vào để giúp cho lòng mạch được thông hoàn toàn, phục hồi dòng chảy và giúp phục hồi cơ tim.

Mổ bắc cầu nối động mạch vành. Ở một số trường hợp, bác sĩ tiến hành mổ cấp cứu khi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. Bác sĩ sẽ dùng những đoạn mạch để nối từ động mạch bình thường vượt qua chỗ bị tắc của động mạch vành, khôi phục dòng máu cho vùng cơ tim, làm cho tim hồi phục. Nhưng thông thường, mổ bắc cầu nối động mạch vành được tiến hành một thời gian sau khi nhồi máu cơ tim để chờ cơ tim tự hồi phục sau nhồi máu.

Điều chỉnh lối sống và dự phòng

Sẽ không bao giờ là muộn để phòng ngừa nhồi máu cơ tim, thậm chí là ngay cả khi bạn đã từng bị nhồi máu cơ tim. Bạn hãy uống thuốc đầy đủ và thay đổi lối sống – đó là cách tốt nhất để phòng tránh nhồi máu cơ tim. Cụ thể như sau:

– Uống thuốc đều đặn theo đơn thuốc của bác sĩ.

– Không hút thuốc lá.

– Đi khám định kỳ để kiểm soát những rối loạn hiện tại như tăng huyết áp, béo phì, đái tháo đường hoặc tăng cholesterol máu.

– Duy trì hoạt động thể lực.

– Hạn chế ăn các thức ăn có nhiều mỡ, cholesterol, hạn chế ăn muối.

– Duy trì cân nặng ở mức hợp lý theo hướng dẫn của bác sĩ.

– Tránh căng thẳng.

CNTTCBTG – BV Bạch Mai

Bài viết Cơn đau thắt ngực và bệnh nhồi máu cơ tim đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/con-dau-that-nguc-va-benh-nhoi-mau-co-tim-5359/feed/ 0
Các môn thể thao và phương pháp tập luyện phù hợp với người mắc bệnh huyết áp thấp https://benh.vn/cac-mon-the-thao-va-phuong-phap-tap-luyen-phu-hop-voi-nguoi-mac-benh-huyet-ap-thap-5876/ https://benh.vn/cac-mon-the-thao-va-phuong-phap-tap-luyen-phu-hop-voi-nguoi-mac-benh-huyet-ap-thap-5876/#respond Wed, 05 Jul 2023 04:35:21 +0000 http://benh2.vn/cac-mon-the-thao-va-phuong-phap-tap-luyen-phu-hop-voi-nguoi-mac-benh-huyet-ap-thap-5876/ Huyết áp thấp là một bệnh lý thường gặp ở mọi giới, mọi lứa tuổi. Hiện nay, bệnh huyết áp thấp đã trở nên khá phổ biến với tỷ lệ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam.

Bài viết Các môn thể thao và phương pháp tập luyện phù hợp với người mắc bệnh huyết áp thấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Huyết áp thấp là một bệnh lý thường gặp ở mọi giới, mọi lứa tuổi. Hiện nay, bệnh huyết áp thấp đã trở nên khá phổ biến với tỷ lệ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam.

Để cải thiện sức khỏe, tập luyện thể dục thể thao là một phương pháp trị liệu tốt cho người bị huyết áp thấp. Tuy nhiên, người tập phải chọn những môn thể thao phù hợp và đúng cách.

Vậy, những môn thể thao phù hợp với người bị huyết áp thấp? Phương pháp tập luyện?

Khi nào thì được coi là huyết áp thấp

Huyết áp của một người bình thường là ở mức khoảng 120/80mmHg (huyết áp có thể dao động giữa 110-120 (tâm thất) và 70-80 (tâm thu).

Người bị coi là huyết áp thấp (HAT) nếu như huyết áp dưới mức 65 (tâm thu).

huyet-ap-ket

Huyết áp thấp khi huyết áp tâm thu dưới mức 65.

Nguyên nhân gây huyết áp thấp

Huyết áp thấp có thể do nguyên nhân bẩm sinh cũng có thể do các yếu tố vận động, môi trường gây ra.

Do suy giảm hoạt động của tuyến giáp

Khi cơ thể bị thiếu hụt hàm lượng hormon của tuyến giáp, sẽ có nguy cơ mắc chứng huyết áp thấp kèm theo các triệu chứng hoa mắt chóng mặt, rụng tóc.

Do suy giảm glucoza

Khi hàm lượng đường trong máu giảm xuống dưới mức 2.5mmol/l, cơ thể có cảm giác mệt mỏi, run rẩy và vã mồ hôi đó là các triệu chứng của huyết áp thấp.

Hàm lượng hemoglobin thấp

Khi hàm lượng hemoglobin thấp, dưới mức 9g/dl (người khỏe mạnh có hàm lượng hemoglobin trong máu là 100 milliters) sẽ khiến cho lượng oxy vận chuyển tới não và tim bị suy giảm, khiến cho cơ thể choáng váng, hoa mắt, chóng mặt.

Nhịp tim chậm

Khi nhịp tim đập dưới 60 nhịp/phút, có thể sẽ không đủ lượng máu và oxy lưu thông trong cơ thể và là nhân tố dẫn tới bệnh huyết áp thấp.

benh-tim-mach

Nhịp tim chậm không cung cấp đủ máu và oxy trong cơ thể dẫn đến huyết áp thấp.

Ngoài ra nguyên nhân gây áp huyết thấp còn do stress và di truyền.

Các môn thể thao phù hợp với bệnh huyết áp thấp

  • Đi bộ.
  • Chạy.
  • Cầu lông.
  • Bơi.
  • Dưỡng sinh.
  • Yoga….

lop-hoc-yoga

Đi bộ, tập yoga, dưỡng sinh…là các môn thể thao phù hợp cho người huyết áp thấp.

Phương pháp tập luyện

  • Tập luyện cần duy trì thường xuyên.
  • Tập luyện tùy thuộc vào sức khỏe, không nên cố sức.
  • Không tập khi đói hoặc sau khi ăn no.
  • Trong khi tập nếu thấy mệt thì nghỉ 5 phút.
  • Thời gian tập từ 20 đến 30 không nên kéo dài…

Chế độ ăn cho người bị huyết áp thấp

  • Khẩu phần ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng như: thịt nạc, gan động vật, cá, trứng…
  • Tăng cường ăn rau, quả để thêm vitamin, chất xơ và chất khoáng.
  • Không bỏ bữa, đặc biệt là bữa sáng.
  • Ăn mặn hơn người bình thường (10-15g muối/ngày).
  • Bổ sung một số thức ăn, đồ uống có tác dụng tăng huyết áp như: cà phê, nước chè đặc, ăn thức ăn đậm đà muối, nước sâm, bột tam thất, nước nho…

Lời kết

Huyết áp thấp là một bệnh lý thường gặp ở nhiều lứa tuổi. Hiện, tỷ lệ người bị bệnh huyết áp thấp ngày ra tăng với tỷ lệ bệnh nhân nữ nhiều hơn nam. Triệu chứng rõ rệt của huyết áp thấp là mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, lạnh tay chân, suy giảm khả năng tình dục, thở dốc sau khi làm việc nặng…

Vì vậy, việc tập luyện thể dục thể thao là một phương pháp trị liệu tốt cho người bị huyết áp thấp. Tuy nhiên, người bị huyết áp thấp rất nhanh mệt nên cần chọn những môn tập phù hợp với sức khỏe như: đi bộ, đánh cầu lông, bơi, dưỡng sinh, yoga… Lưu ý không tập quá sức, tập khi quá đói hoặc quá no, không tập quá 30 phút… để giữ gìn sức khỏe.

Bài viết Các môn thể thao và phương pháp tập luyện phù hợp với người mắc bệnh huyết áp thấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-mon-the-thao-va-phuong-phap-tap-luyen-phu-hop-voi-nguoi-mac-benh-huyet-ap-thap-5876/feed/ 0
Các xét nghiệm sinh hóa máu trong bệnh nhồi máu cơ tim cấp https://benh.vn/cac-xet-nghiem-sinh-hoa-mau-trong-benh-nhoi-mau-co-tim-cap-3302/ https://benh.vn/cac-xet-nghiem-sinh-hoa-mau-trong-benh-nhoi-mau-co-tim-cap-3302/#respond Sat, 06 May 2023 04:33:07 +0000 http://benh2.vn/cac-xet-nghiem-sinh-hoa-mau-trong-benh-nhoi-mau-co-tim-cap-3302/ Các xét nghiệm sinh hóa máu trong bệnh nhồi máu cơ tim cấp

Bài viết Các xét nghiệm sinh hóa máu trong bệnh nhồi máu cơ tim cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>

Các xét nghiệm sinh hóa máu trong bệnh nhồi máu cơ tim cấp. Nếu có nghi ngờ bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, các bác sỹ thường sẽ chỉ định các loại xét nghiệm sau đây.

Sự cần thiết của các xét nghiệm trong nhồi máu cơ tim (NMCT)

  • Do những thay đổi điện tim không rõ rệt (có thể bị che lấp bởi block nhánh, hoặc nhồi máu cơ hoành…).
  • Cần chẩn đoán phân biệt với cơn đau thắt ngực, nhồi máu phổi.
  • Các enzym huyết tương ở giới hạn bình thường trong suốt 48h đầu sau những khởi phát không phải là NMCT.
  • Cần theo dõi quá trình diễn biến bệnh của bệnh nhân NMCT.
  • Cần dự tính trước tình trạng bệnh (khi các enzym huyết tương tăng cao 4 – 5 lần so với bình thường có liên quan đến rối loạn nhịp tim, sốc, suy tim).
  • Sau những triệu chứng khởi phát của NMCT máu cần được thông nhanh chóng. Các xét nghiệm cần được làm nhắc lại ở các thời điểm hợp lý để phát hiện các triệu chứng tái phát, các triệu chứng mới, cũng như các triệu chứng cho biết tình trạng nặng hơn của bệnh.

Các xét nghiệm cần làm để chẩn đoán cũng như theo dõi điều trị bệnh nhồi máu cơ tim

1. CK-MB (Creatinkinase-MB)

CK là creatinkinase, có 3 isozym là CK-MM (cơ vân), CK-MB (cơ tim), và CK-BB (não). CK ở tim có CK-MB (> 40%) và CK-MM (~ 60%), CK có trong huyết tương chủ yếu là CK-MM.

Creatinkinase  có giá trị đặc biệt với các lý do sau:

  • CK toàn phần có độ nhạy 98% đối với nhồi máu cơ tim giai đoạn sớm (nhưng có 15% dương tính giả do các nguyên nhân khác).
  • CK cho phép chẩn đoán sớm vì hoạt độ của nó tăng cao trong vòng 3 – 6h sau khởi phát và đạt cực đại sau 24 – 36h sau cơn nhồi máu cơ tim.
  • Hoạt độ CK tăng cao từ 6 – 12 lần so với bình thường, cao hơn hẳn các enzym huyết tương khác.
  • Hạn chế sự sai lầm trong chẩn đoán NMCT vì CK không tăng ở các bệnh với nhồi máu khác như hủy hoại tế bào gan do tắc mạch, do thuốc điều trị làm tăng GOT, nhồi máu phổi.
  • Hoạt độ CK trở về bình thường đến ngày thứ 3, nếu tăng cao kéo dài 3 – 4 ngày cho biết sự tái phát của NMCT.
  • Có giá trị phân biệt với các bệnh khác mà enzym ở mức bình thường (gặp trong cơn đau thắt ngực), nhồi máu phổi (LDH tăng).

Do CK-MB có chủ yếu ở cơ tim, nên trong các bệnh lý của tim (như NMCT) khi các tế bào cơ tim bị hủy hoại thì CK-MB tăng cao sẽ phản ánh tình trạng bệnh nặng hơn, có giá trị hơn so với CK.

CK-MB cho phép chẩn đoán phân biệt tốt nhất giữa ổ nhồi máu tái phát với ổ nhồi máu hồi phục, và nó là “tiêu chuẩn vàng” cho chẩn đoán trong vòng 24h kể từ lúc triệu chứng khởi phát.

Xét nghiệm CK-MB dùng để chẩn đoán sớm NMCT, vì từ 4 – 8h  sau cơn nhồi máu, hoạt độ CK-MB luôn luôn tăng, cao gấp 10 – 20 lần bình thường, sau 15 – 24h tăng cao nhất và 4 – 5 ngày sau trở về bình thường.

Sau 72h, 2/3 số bệnh nhân vẫn còn tăng CK-MB so với bình thường, mẫu xét nghiệm thường xuyên hơn (6h một lần) dễ cho ta xác định giá trị cực đại. Ở bệnh nhân cao tuổi, giá trị cực đại cao hơn bệnh nhân NMCT tuổi trẻ hơn. Khoảng 5% số bệnh nhân NMCT (đặc biệt ở bệnh nhân cao  tuổi ) có CK-MB tăng cao rõ rệt trong khi CK vẫn bình thường.

Bình thường: CK-MB < 24 U/l.

Xét nghiệm CK-MB có ý nghĩa chẩn đoán sớm NMCT so với các enzym khác như  GOT (CK-MB tăng cao sau 4h, còn GOT tăng cao từ 6h sau cơn nhồi máu). Nhưng thực tế ở các bệnh viện nhỏ, do điều kiện trang bị máy, kit chưa có nên thông thường vẫn dùng xét nghiệm GOT để chẩn đoán NMCT.

Ngoài nhồi máu cơ tim CK-MB cũng có thể tăng trong một số trường hợp như

  • Chấn thương tim.
  • Viêm cơ tim.
  • Ứ máu suy tim (tăng vừa phải).
  • Co thắt mạch vành (tăng thoáng qua).
  • Phẫu thuật tim hoặc thay van tim.
  • Loạn dưỡng cơ, viêm đa cơ, bệnh lý collagen, myoglobin niệu hoặc sarcoma cơ vân.
  • Bỏng do nhiệt hoặc điện.
  • Sốt phát ban.

Ngoài ra, CK-MB không tăng trong một số trường hợp sau:

  • Thiếu máu.
  • Ngừng tim không do NMCT.
  • Phì đại tim hoặc do bệnh lý cơ tim; trừ trường hợp viêm cơ tim, suy tim.
  • Đặt máy tạo nhịp tim hoặc đặt catheter mạch máu.
  • Nối tắt mạch tim-phổi.
  • Nhồi máu não hoặc chấn thương não (CK toàn phần có thể tăng).
  • Nhồi máu phổi.
  • Đột qụy (CK toàn phần có thể tăng đáng kể).

Trong khi xét nghiệm CK, CK-MB tăng cao, có giá trị chẩn đoán quyết định thì việc xét nghiệm LDH và GOT không cần thiết lắm vì chúng cung cấp rất ít thông tin hữu ích. CK, CK-MB  cũng tăng trong phẫu thuật tim, vì vậy chẩn đoán NMCT sẽ không được thực hiện trong khoảng thời gian 12 – 24h sau phẫu thuật. Ở các bệnh nhân mà NMCT cấp điển hình thì các giá trị hoạt độ CK, CK-MB và myoglobin cao hơn. Cũng ở những bệnh nhân không bị NMCT thì có giá trị cực đại sớm hơn và  trở về bình thường nhanh hơn.

Xét nghiệm CK-MB được coi là xét nghiệm duy nhất có giá trị cho chẩn đoán các trạng thái bệnh lý NMCT sau mổ vì tình trạng huyết tán làm tăng hoạt độ các enzym khác.

CK-MB tăng đáng kể trong soi động mạch vành qua da, nong động mạch vành bằng bóng cũng làm tăng CK-MB và myoglobin.

2. LDH (Lactatdehydrogenase)

LDH là enzym bào tương, có ở mọi tế bào, đặc biệt có nhiều ở gan, tim, cơ xương….

LDH là enzym xúc tác biến đổi acid pyruvic thành acid lactic, phản ứng cần coenzym là NADH2. Đây là phản ứng cuối cùng của đường phân “yếm khí”.

Xác định hoạt độ LDH trong trường hợp mà các triệu chứng ở bệnh nhân đó xuất hiện từ 12 – 24h trước khi vào viện hoặc bệnh nhân có tiền sử và điện tim gợi ý là NMCT cấp.

Nếu lấy máu XN vào ngày thứ 2 (24 – 48h) mà kết quả CK và LDH đều tăng cao (không nhất thiết ở cùng một thời điểm) thì gần như chắc chắn bệnh nhân bị NMCT mà không cần làm các xét nghiệm chẩn đoán khác nữa. Nếu chúng không tăng trong vòng 48h thì tình trạng hoại tử cơ tim cấp được loại trừ và không cần phải làm các xét nghiệm các enzym tiếp theo.

Các bệnh nhân bị NMCT vào viện muộn thì xét nghiệm LDH toàn phần, các isozym của LDH và GOT có giá trị khi mà CK và CK-MB không cũng giá trị chẩn đoán.

Bình thường: LDH = 230 – 460 U/l.

Nếu LDH toàn phần tăng cao hơn 2000 U/l thì ít có giá trị chẩn đoán vì nhiều bệnh khác cũng có thể làm tăng LDH. Cho nên cần xác định các isozym của LDH. Phân tách bằng phương pháp điện di huyết tương cho thấy: LDH có 5 isozym, gồm từ LDH1 đến LDH5.

Trong NMCT: LDH1, LDH2  tăng cao, LDH tăng cao trong khoảng thời gian 10- 12h đầu sau cơn nhồi máu (tăng khoảng 2 – 10 lần so với bình thường) và đạt tối đa từ  48 đến 72h.

Trong NMCT, tỷ số LDH1/LDH2 > 1 thường xuất hiện từ 12 – 24h, đạt cực đại khoảng 55 – 60h, và thường xuất hiện trong vòng 48h (chiếm tới 80% số bệnh nhân NMCT, sau 1 tuần giảm xuống còn khoảng 5%, mặc dù LDH toàn phần có thể cũng tăng). Tỷ lệ  LDH1/LDH2 > 1 không bao giờ xuất hiện trước CK-MB, nó có thể xuất hiện nhiều lần trong vòng 2- 3 ngày. LDH1 có thể vẫn tăng sau khi LDH toàn phần đó trở về bình thường. LDH1/LDH2 > 1 có thể gặp trong một số trường hợp như nhồi máu thận cấp, thiếu máu do huyết tán, thiếu máu ác tính, đặt van tim nhân tạo, nhiễm ure huyết, đột quỵ, nhũn não.

Nếu LDH tăng kéo dài từ 10 – 14 ngày là rất có giá trị cho chẩn đoán NMCT muộn khi bệnh nhân được phát hiện sau khoảng thời gian mà CK đó trở về bình thường.

3. GOT

GOT là enzym có ở mọi tổ chức, nhưng có nhiều nhất ở cơ tim, rồi đến gan và cơ xương. Như trên đã trình bày, xét nghiệm GOT đó được CK, LDH thay thế để chẩn đoán NMCT, nhưng nó có ý nghĩa khi mà CK không còn tăng nữa (mẫu máu xét nghiệm đầu lấy sau 24h khi bệnh khởi phát) với các lý do sau:

  • GOT tăng ở > 90% số bệnh nhân khi lấy máu ở thời điểm thớch hợp.
  • Nó cho phép chẩn đoán NMCT vì mức tăng của enzym này xuất hiện trong vũng 4 – 6h và đạt cực đại trong 24h, có khi tới 15 – 20 lần, rồi giảm dần và về bình thường sau 4 – 6 ngày. Nếu tổn thương nhẹ tế bào cơ tim thì mức tăng ít hơn và về bình thường từ 2 – 3 ngày.
  • Mức tăng thường khoảng 200 U/l, và đạt cực đại từ 5 – 7 lần so với bình thường. Mức tăng cao hơn 300 đơn vị đồng thời tăng kéo dài hơn thì có ớt giá trị chẩn đoán hơn.
  • Tình trạng tái nhồi máu được chỉ điểm bằng sự tăng hoạt độ GOT sau khi enzym này trở về bình thường.

Trong NMCT  hoạt độ GPT thường không tăng, trừ trường hợp có tổn thương gan do suy tim ứ máu hoặc do sử dụng thuốc.

Tỷ số GOT/GPT > 3:1 có giá trị chẩn đoán NMCT nếu loại trừ được các yếu tố sau:

  • Tổn thương gan do nhiễm độc ethanol.
  • Ung thư gan, xơ gan, tắc mạch gan nặng.
  • Tổn thương cơ xương nghiêm trọng.

Tỷ số GOT/GPT có giá trị khi LDH tăng và khi máu lấy muộn để xét nghiệm sau khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên; CK-MB đó giảm và về mức giới hạn hoặc bình thường.

4. HBDH (Hydroxybutyrat dehydrogenase).

HBDH là enzym  có nhiều ở cơ tim so với mọi tổ chức khác, nó  xúc tác phản ứng:

a-HBDH huyết tương tăng song song với LDH, với đỉnh cực đại tăng gấp 3 – 4 lần  giá trị bình thường trong 48h sau cơn nhồi máu và có thể tăng cho tới 2 tuần. Xét nghiệm HBDH có sự đặc hiệu cao hơn LDH, phối hợp cựng với LDH1 để chẩn đoán NMCT và cũng nhạy hơn GOT, LDH toàn phần.

  • Bình thường:  HBDH = 55 – 140 U/l (25O C)

Tỷ số HBDH/LDH = 0,63 – 0,81. Tỷ số này được dựng để chẩn đoán phân biệt NMCT với bệnh gan. Trong viêm gan tỷ số này < 0,63.

  • Trong nhồi máu cơ tim:

HBDH tăng rõ từ 6 – 12h, mức cao nhất đạt từ 30 – 72h, thường tăng cao từ 2 – 8 lần bình thường và giữ ở mức cao lâu hơn so với GOT, LDH và về bình thường sau 10 – 20 ngày.

Tỷ số HBDH/LDH > 0,81.

Để phát hiện sớm NMCT có thể xem xét mức độ tăng và thứ tự thay đổi hoạt độ các enzym huyết tương sau nhồi máu cơ tim cấp được minh hoạ bằng đồ thị (Hình 6.1).

Số lần tăng so với bình thường

Những ngày tiếp theo sau triệu chứng khởi phát NMCT cấp

Các xét nghiệm enzym về NMCT có giá trị chẩn đoán sớm theo thứ tự CK-MB > GOT > LDH > HBDH (Bảng 6.1).

Bảng 6.1:   Hoạt độ các enzym CK-MB, LDH, HBDH ở 37oC.

Enzym

CK-MB
GOT
LDH
HBDH

Giá trị bình thường/37OC

< 24 U/l
< 46 U/l
80 – 200 U/l (XN dùng pyruvat)
24 – 78 U/l (XN dùng lactat)
55 – 140 U/l

Đặc điểm tăng

( sau  4 h sau cơn MCT
( 6 h sau cơn NMCT
( trong 12 h đầu
( trong 12 h đầu

5. Glucose máu và glucose niệu

  • Glucose máu tăng và đường niệu dương tính.
  • Glucose máu tăng ở < 50% số bệnh nhân bị NMCT.
  • Dung nạp glucose giảm.

6. Myoglobin huyết tương

Myogobin huyết tương tăng, đạt cực đại và trở về bình thường sớm hơn CK. Nó có ý nghĩa cho chẩn đoán trong vòng 6h sau khi xuất hiện triệu chứng cơn nhồi máu. Thường có myoglobin niệu.

Các yếu tố nguy hại quan trọng nhất cần dự phòng với NMCT là:

  • Lipoprotein máu cao.
  • Đái tháo đường.
  • Cao huyết áp.
  • Nghiện hút.
  • Béo phì.
  • Acid uric máu cao.

Chẩn đoán phân biệt bệnh NMCT với:

  • Cơn đau thắt ngực: các enzym huyết tương CK, CK-MB, GOT, LDH không tăng; nhưng tăng rõ rệt và có nghĩa trong NMCT.
  • Tổn thương cơ tim do viêm: enzym huyết tương bình thường hoặc tăng ít.
  • Trong suy tim cấp do tắc mạch: GOT, GPT tăng ở một mức độ nào đó, tình trạng này nhanh chóng được hồi phục nếu liệu pháp điều trị phù hợp. Có
  • thể tăng đáng kể trong trường hợp ép tim do chảy máu ở ngoại tâm mạc.
  • Trong nhồi máu phổi: GPT > GOT.

Bài viết Các xét nghiệm sinh hóa máu trong bệnh nhồi máu cơ tim cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-xet-nghiem-sinh-hoa-mau-trong-benh-nhoi-mau-co-tim-cap-3302/feed/ 0
Cách chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh https://benh.vn/cach-cham-soc-tre-bi-benh-tim-bam-sinh-5021/ https://benh.vn/cach-cham-soc-tre-bi-benh-tim-bam-sinh-5021/#respond Wed, 08 Feb 2023 05:15:20 +0000 http://benh2.vn/cach-cham-soc-tre-bi-benh-tim-bam-sinh-5021/ Có những đứa trẻ ngay từ khi lọt lòng mẹ đã thiếu may mắn do mắc các căn nguy hiểm về não, khối u dị tật, bệnh tim… Mỗi loại bệnh đều để lại những di chứng ảnh hưởng đến thể chất của trẻ. Và bệnh tim là căn bệnh ảnh hưởng hàng ngày đến đời sống của trẻ như thế. Vậy, cách chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh như thế nào?

Bài viết Cách chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Có những đứa trẻ ngay từ khi lọt lòng mẹ đã thiếu may mắn do mắc các căn nguy hiểm về não, khối u dị tật, bệnh tim… Mỗi loại bệnh đều để lại những di chứng ảnh hưởng đến thể chất của trẻ. Và bệnh tim là căn bệnh ảnh hưởng hàng ngày đến đời sống của trẻ như thế. Vậy, cách chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh như thế nào?

Tìm hiểu về bệnh tim bẩm sinh

Bệnh tim bẩm sinh là các dị tật của buồng tim, van tim, vách tim va các mạch máu lớn, xảy ra từ lúc còn ở bào thai.

Bệnh tim bẩm sinh được chia thành 2 nhóm

  • Trẻ không bị tím da niêm.
  • Trẻ bị tím da niêm.

 benh-tim-bam-sinh-1

Bệnh tim bẩm sinh (Ảnh minh họa)

Nguyên nhân bệnh tim bẩm sinh

  • Do sai lạc nhiễm sắc thể.
  • Do di truyền.
  • Do các nguyên nhân ngoại lai xảy ra trong khi mang thai…

Triệu chứng trẻ bị bệnh tim bẩm sinh

  •  Trẻ hay bị ho, khò khè tái đi tái lại.
  • Trẻ thở khác thường (thở nhanh, lồng ngực rút lõm khi hít vào) thường bị viêm phổi.
  • Khi trẻ bú hay khóc vì bị khó thở.
  • Trẻ có làn da xanh xao, lạnh, vã mồ hôi.
  • Trẻ bị tím môi, đầu ngón tay, ngón chân, tăng lên khi khóc, khi rặn…
  • Trẻ bú hoặc ăn kém, chậm lên cân, thậm chí không tăng cân hay sụt cân.
  • Trẻ đi tiểu ít hơn bình thường…

 

Trẻ bị tứ chứng fallot (Ảnh minh họa)

Các bệnh tim bẩm sinh thường gặp

  • Bệnh tim thông liên thất chiểm tỷ lệ: 30,5%.
  • Bệnh tim thông liên nhĩ chiếm tỷ lệ: 9,8%.
  • Bệnh ống động mạch chiếm tỷ lệ: 9,7%…

Một số bệnh tim bẩm sinh khác:

  • Hẹp van động mạch phổi.
  • Hẹp eo động mạch chủ.
  • Kênh nhĩ thất, thất phải hai đường ra.
  • Chuyển vị đại động mạch.
  • Bệnh Ebstein, không lỗ van ba lá, tâm thất độc nhất… Bệnh tim bẩm sinh nguy hiểm như thế nào?
  • Gây suy tim nhanh chóng.
  • Kém phát triển về thể chất và tinh thần
  • Tỷ lệ tử vong cao…

Cách chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh

Để chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh cần lưu ý chăm sóc đầy đủ cả thể chất lẫn tinh thần trẻ để giúp trẻ có cơ thể khỏe mạnh mà không gặp vấn đề về tinh thần.

Chăm sóc thể chất trẻ bị bệnh tim bẩm sinh

  • Cho trẻ ăn nhạt.
  • Cho trẻ ăn từ từ, chủ yếu bằng thìa.
  • Cho trẻ ăn nhiều bữa, mỗi bữa ít hơn bình thường.

 cham-soc-tre

Cho trẻ ăn nhạt và ăn nhiều bữa ít hơn bình thường (Ảnh minh họa)

  • Hạn chế các thực phẩm có đường trong thực đơn của trẻ.
  • Theo dõi sát việc lên cân của trẻ để có chế độ dinh dưỡng hợp lý.
  • Cho trẻ uống đủ nước khi trời nóng.
  • Cho trẻ mặc ấm khi trời lạnh và tránh tiếp xúc với lạnh đột ngột (trẻ bị tim bẩm sinh rất hay mắc chứng viêm phổi).
  • Bổ sung những thực phẩm giàu kali như cam, chuối, nho, đu đủ, nước dừa…khi trẻ phải sử dụng thuốc lợi tiểu: lasix (furosemide) …
  • Chăm sóc răng miệng (đánh răng, dùng chỉ nha khoa) để phòng tránh sâu răng (sâu răng có thể gây biến chứng nguy hiểm như: viêm màng trong tim, nhiễm khuẩn bán cấp..)

 cham-soc-rang-mieng-tre

Chăm sóc răng miệng cho trẻ để phòng tránh sâu răng (Ảnh minh họa)

  • Nếu trẻ khó thở cần nới rộng quần áo và đặt trẻ nằm theo tư thế quay sang một bên với hai đầu gối co lên ngực (tư thế này giúp tăng lượng máu lên phổi, trẻ sẻ đỡ mệt). Sau đó, lập tức đưa trẻ đến bệnh viện để điều trị kịp thời.
  • Cho trẻ tái khám đúng theo lịch và tuân theo sự điều trị của bác sĩ, ngay cả khi trẻ đã được phẫu thuật (bệnh tim bẩm sinh cần phải theo dõi sau phẫu thuật vì khi lớn lên, trẻ có thể gặp một số vấn đề khác về sức khỏe)

Chăm sóc tinh thần trẻ bị bệnh tim bẩm sinh

  • Trẻ bị bệnh tim cần được chăm sóc, nuôi dưỡng giống như những em bé bình thường khác.
  • Không hạn chế hoặc cấm đoán trẻ vui chơi, giải trí, tham gia hoạt động thể dục thể thao. (trừ những hoạt động mạnh, nguy hiểm).
  • Cho trẻ đi tham quan, du lịch… tuy nhiên, khi đi chơi xa cần mang theo các loại thuốc cần thiết cho trẻ.
  • Khám và làm nghiệm pháp gắng sức định kỳ cho trẻ để xác định tình trạng chịu đựng khi vận động và có hướng dẫn tập luyện đúng mức.

 cho-tre-tham-gia-vui-choi

Cho trẻ tham gia vui chơi, giải trí để trẻ không tự ti, mặc cảm (Ảnh minh họa)

Lời kết

Bệnh tim bẩm sinh nặng thường được các bác sỹ chẩn đoán ngay từ khi trẻ chào đời. Với trẻ bị dị tật tim nhẹ hơn, triệu chứng dần xuất hiện khi trẻ lớn lên. Trẻ bị bệnh tim bẩm sinh thường yếu ớt hơn những đứa trẻ bình thường.

Tuy nhiên, ngoài những yêu cầu đặc biệt cho việc chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh: ăn uống đầy đủ dưỡng chất, ăn nhạt, giữ vệ sinh răng miệng, không hoạt động quá sức… các bậc phụ huynh cần ứng xử với trẻ như với những đứa trẻ bình thường khác. Việc chăm sóc, lo lắng thái quá cho tình trạng sức khoẻ của trẻ sẽ khiến trẻ cảm thấy mình bị yếu đuối, thiếu các kỹ năng tự bảo vệ, tự ti, mặc cảm…

Bài viết Cách chăm sóc trẻ bị bệnh tim bẩm sinh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cach-cham-soc-tre-bi-benh-tim-bam-sinh-5021/feed/ 0
Phòng chống nguy cơ đột tử https://benh.vn/phong-chong-nguy-co-dot-tu-4233/ https://benh.vn/phong-chong-nguy-co-dot-tu-4233/#respond Tue, 31 Jan 2023 00:52:22 +0000 http://benh2.vn/phong-chong-nguy-co-dot-tu-4233/ “Mới gặp đó mà nay đã trở về với cát bụi” là câu nói để chỉ một người đột ngột lìa trần khi mà họ hoàn toàn không có biểu hiện của người bị bệnh thậm chí còn rất khỏe. Theo y học, hiện tượng trên gọi là đột tử.

Bài viết Phòng chống nguy cơ đột tử đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
“Mới gặp đó mà nay đã trở về với cát bụi” là câu nói để chỉ một người đột ngột lìa trần khi mà họ hoàn toàn không có biểu hiện của người bị bệnh thậm chí còn rất khỏe. Theo y học, hiện tượng trên gọi là đột tử.

Tổng quan về Đột tử

Hiện nay hiện tượng đột tử xuất hiện ngày càng nhiều và xảy ra cả ở lứa tuổi ngày càng trẻ. Đây là vấn đề nan giải mà các tổ chức y tế thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng đang dùng mọi biện pháp để hạn chế.

Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến đột tử? Làm thế nào để loại trừ đột tử? Chúng ta sẽ cùng Benh.vn tìm hiểu vấn đề này.

Thế nào là đột tử

Đột tử là tình trạng tử vong đột ngột ngay lập tức, tuổi càng cao nguy cơ đột tử càng tăng. Nam giới bị đột tử cao gấp hai lần phụ nữ.

Tỷ lệ này cũng cao hơn nhiều lần ở những người hút thuốc lá, rối loạn mỡ máu, có người thân trong gia đình bị bệnh tim mạch, sang chấn tâm lý.

Ngoài ra, có những hội chứng đột tử mà thế giới chưa giải thích được nguyên nhân (thường xảy ra vào ban đêm ở nam giới châu Á).

Những thời điểm nguy hiểm dễ xảy ra đột tử

  • Buổi sáng được xem là thời điểm nguy hiểm nhất, dễ gây đột tử cho những người có nguy cơ.
  • Đột tử cũng có thể xảy ra lúc bệnh nhân đang nghỉ ngơi nhưng thường gặp nhất là lúc gắng sức.
  • Nhiều trường hợp chết đột ngột khi đang chơi đá bóng, đánh quần vợt, cầu lông, hội họp, tranh cãi…
  • Có một số trường hợp có các biểu hiện báo trước sự đột tử như: nhức đầu nhiều, nặng ngực, khó thở, vã mồ hôi, buồn nôn…

phong_ngua_dot_tu

Đau ngực, khó thở… là dấu hiệu báo trước đột tử (Ảnh minh họa)

Nguyên nhân gây đột tử

  • Do bệnh lý tim mạch như: Nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, nhịp nhanh thất hay rung thất…
  • Do xơ vữa mạch máu.

Các biểu hiện thường gặp của đột tử

  • Cơn nhồi máu cơ tim điển hình là đau ngực trái dữ dội, cơn đau kéo dài khoảng 15 – 30 phút và dẫn đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.
  • Đôi khi cơn đau không rõ ràng, nhất là ở người có bệnh đái tháo đường, người lớn tuổi, người bệnh chỉ cảm thấy bị ngộp thở, nặng ngực. Triệu chứng đi kèm là vã mồ hôi, khó thở, mệt nhiều, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực…

Anh N.V.H 40 tuổi, dược sỹ cao cấp nhà máy X đột tử do nhồi máu cơ tim

“Anh H là một người đàn ông cao 1m80, khỏe mạnh, đã có vợ và hai người con gái. Anh sống rất hạnh phúc bên tổ ấm của mình, cho đến một ngày định mệnh.

Một trưa hè năm 1998, như thường lệ đến giờ nghỉ trưa, anh về ăn cơm cùng gia đình nhưng anh đã ra đi mãi mãi.

Một người đi đường thấy anh nằm gục trên xe máy trước cổng bệnh viện Thanh Nhàn đã đưa anh vào bệnh viện để cấp cứu. Nhưng các bác sỹ kết luận anh đã chết do bị nhồi máu cơ tim.

Sự ra đi đột ngột của anh khiến ai cũng bàng hoàng, sửng sốt. Hình ảnh người thiếu phụ trẻ và hai cháu bé với vành khăn tang trắng với những tiếng khóc ai oán, xé ruột gan đã khiến cho trái tim tôi ứa lệ.

Bao năm qua, hình ảnh người anh, người đồng nghiệp luôn làm tôi day dứt, ám ảnh. Liệu có cách nào để để loại trừ đột tử?”

Những phương pháp phòng ngừa đột tử

Ngoài những yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành mà ta không thay đổi được như tuổi, giới tính, tiền sử gia đình thì cần phải thay đổi những yếu tố nguy cơ để đề phòng nguy cơ đột tử.

Không hút thuốc

Hút thuốc lá, thuốc lào đều là những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh lý động mạch vành, tăng huyết áp, bệnh động mạch ngoại biên… nguy cơ dẫn đến đột tử.

hut_thuoc_la

Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ đột tử (Ảnh minh họa)

Tăng cường hoạt động thể lực

Hoạt động thể lực làm giảm khả năng xuất hiện bệnh tăng huyết áp, bệnh động mạch vành… do đó làm giảm nguy cơ đột tử.

Không để cơ thể thừa cân, béo phì

Thừa cân là yếu tố nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh động mạch vành. Vì vậy, cần duy trì cân năng ở mức hợp lý tránh các nguy cơ dẫn đến đột tử.

Giảm căng thẳng (stress)

Căng thẳng trong cuộc sống, các stress tâm lý đều được chứng minh làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch, nguyên nhân dẫn đến đột tử. Vì vậy, cần cân bằng giữa công việc, nghỉ ngơi, tránh căng thẳng…

Cân bằng cholesterol trong máu

Tăng cholesterol máu làm thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch, là yếu tố làm tăng khả năng mắc bệnh tăng huyết áp, bệnh lý động mạch cảnh, động mạch chủ, động mạch vành, động mạch chi dưới… là nguyên nhân nhân hàng đầu dẫn đến đột tử.

Vì vậy, cần đảm bảo một chế độ ăn uống khoa học để cân bằng lượng cholesterol trong máu.

Giữ huyết áp ổn định

Tăng huyết áp là kẻ giết người thầm lặng, là yếu tố nguy cơ làm xuất hiện và tiến triển bệnh lý động mạch vành, động mạch chủ, động mạch ngoại biên… những nguyên nhân dẫn đến đột tử.

Vì vậy, khi bị tăng huyết áp, cần phải tuân thủ chặt chẽ những quy định của bác sỹ để làm giảm nguy cơ tiến triển bệnh lý tim mạch.

Kiểm soát nguy cơ đái tháo đường

Đái tháo đường là yếu tố nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch như bệnh lý động mạch vành, động mạch cảnh, động mạch ngoại biên…

Vì vậy, khi bị đái tháo đường, cần tuân thủ điều trị bệnh nghiêm ngặt: không ăn đồ ngọt, chất bột… để tránh biến chứng tim mạch.

Hạn chế uống rượu bia

Rượu bia làm tăng huyết áp, tăng triglicerid máu, gây nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.

Vì vậy, hạn chế uống rượu bia là bảo vệ huyết áp, bảo vệ tim và phòng chống đột tử.

Ý kiến của chuyên gia về phòng chống đột tử

Hội Tim mạch quốc gia Việt Nam

“ Hàng năm số bệnh nhân tim mạch trẻ tuổi đang tăng lên rất nhanh. Những năm 90 của thế kỷ 20, nhồi máu cơ tim ở người trẻ tuổi vô cùng hãn hữu, nhưng hiện nay đã bắt gặp thường xuyên.

Những lý do: lối sống thay đổi, hoạt động thể lực ít đi, sử dụng máy tính nhiều; khẩu phần ăn nhiều đường, mỡ, môi trường xung quanh, sức ép tâm lý… là những nguyên nhân chính làm tỉ lệ bệnh tim mạch tăng cao và số ca đột tử tăng lên”

Giáo sư – bác sĩ Nguyễn Mạnh Phan, Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất

“Do cuộc sống phát triển, ngày nay con người làm việc nhiều hơn, chịu nhiều áp lực, căng thẳng hơn, từ đó đã hình thành “lối sống công nghiệp”.

Chính lối sống hối hả, nhiều stress, ít vận động đã khiến nhiều người mắc bệnh tim mạch, nhất là bệnh mạch vành là nguyên nhân dẫn đến đột tử. Trong vòng 10 năm qua, tỷ lệ dân số mắc bệnh mạch vành trong cả nước đã tăng từ 3% lên khoảng 10%. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bệnh nhân tim mạch chưa được quản lý”.

Ăn nhiều trái cây, rau tươi để cơ thể khỏe mạnh đề phòng đột tử (Ảnh minh họa)

Bác sỹ Phạm Nguyễn Vinh

“Nhồi máu cơ tim được xem là nguyên nhân cao nhất dẫn đến đột tử. Vì vậy, mọi người nên phòng tránh nhồi máu cơ tim bằng cách không hút thuốc lá, không uống rượu, không ăn mỡ, tránh bị tiểu đường, không để cao huyết áp và nên tập thể dục mỗi ngày từ 30 – 60 phút, ăn nhiều rau tươi, trái cây, hạn chế ăn mặn…”

Lời kết:

Để phòng tránh các bệnh về tim mạnh, nguyên nhân chính dẫn đến đột tử, chúng ta cần điều chỉnh thói quen sinh hoạt hàng ngày, từ bỏ những thói quen xấu như: uống bia rượu, hút thuốc lá, ăn nhiều chất béo, ít vận động…

Ngoài ra, cần tăng cường chế độ ăn nhiều rau xanh, vận động thể lực… để cuộc sống được an toàn, thoải mái và trường thọ.

Bài viết Phòng chống nguy cơ đột tử đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phong-chong-nguy-co-dot-tu-4233/feed/ 0
Bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới https://benh.vn/benh-viem-tac-tinh-mach-chi-duoi-5479/ https://benh.vn/benh-viem-tac-tinh-mach-chi-duoi-5479/#comments Sun, 01 Jan 2023 05:24:41 +0000 http://benh2.vn/benh-viem-tac-tinh-mach-chi-duoi-5479/ Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới là bệnh lý rất nguy hiểm và khó phát hiện sớm. Nếu không được điều trị, lâu dài có thể gây hậu quả nặng nề, thậm chí tử vong ...

Bài viết Bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới, thuật ngữ chuyên môn gọi là huyết khối tĩnh mạch chi dưới, là tình trạng tắc nghẽn tĩnh mạch chi dưới, vị trí thường ở các tĩnh mạch sâu vùng cẳng chân, vùng đùi, khoeo, tĩnh mạch chậu do sự hình thành cục máu đông gây lấp lòng mạch.

viem-tac-tinh-mach-chi-duoi

Minh họa hình ảnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới là một bệnh lý nguy hiểm vì triệu chứng có thể gây nhầm lẫn hoặc bỏ sót, dẫn đến chẩn đoán và điều trị muộn, tạo điều kiện cho cục máu đông di chuyển về tim, lên động mạch phổi gây thuyên tắc phổi.

Hàng năm tại Hoa Kỳ có khoảng 50,000 bệnh nhân tử vong do thuyên tắc phổi. Có tới 10% bệnh nhân tử vong trong bệnh viện liên quan đến thuyên tắc phổi. Về lâu dài, viêm tắc tĩnh mạch sâu có thể phá huỷ các van tĩnh mạch, gây ra các hậu quả như phù, loét chi dưới… gọi là bệnh lý hậu huyết khối tĩnh mạch, ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của người bệnh. 60% bệnh nhân viêm tắc TM chi dưới có thể bị bệnh lý hậu huyết khối này, nếu không được điều trị và theo dõi đúng cách.

Các dấu hiệu nhận biết bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Khi cục máu đông gây lấp lòng tĩnh mạch, sẽ cản trở máu từ chi dưới trở về tim. Từ đó gây ra tình trạng ứ trệ trong lòng mạch, thoát dịch ra ngoài lòng mạch, giải phóng các yếu tố viêm. Bên chân bị tắc sẽ có hiện tượng sưng, nóng, đỏ, đau, khi sờ vào thấy cảm giác căng, tăng trương lực cơ, so với chân bên lành. Tuy nhiên, giai đoạn đầu của bệnh sẽ rất khó phát hiện vì biểu hiện sưng đau đều kín đáo. Vì vậy, để chẩn đoán sớm huyết khối tĩnh mạch chi dưới, cần chú ý phát hiện:

  • Dấu hiệu Homans là dấu hiệu sớm phát hiện viêm tắc tĩnh mạch: bệnh nhân đau khi hơi gấp mu bàn chân.
  • Các yếu tố nguy cơ, hay hoàn cảnh thuận lợi dẫn đến sự hình thành huyết khối tĩnh mạch.

Đau khi hơi gấp mua bàn chân có thể gợi ý bệnh lý viêm tắc tĩnh mạch chi (dấu hiệu Homans)

Các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân gây ra viêm tắc tĩnh mạch

Sự hình thành huyết khối trong lòng tĩnh mạch thường do nhiều yếu tố phối hợp, trong đó 3 yếu tố chính được Virchow mô tả là tình trạng tăng đông, ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch và sự tổn thương của nội mạc thành tĩnh mạch.

Các yếu tố thuận lợi của bệnh viêm tắc tĩnh mạch

  • Tuổi: tuổi càng cao, càng dễ bị huyết khối tĩnh mạch.
  • Béo phì.
  • Giãn và suy tĩnh mạch chi dưới.
  • Bất động kéo dài, nằm nhiều, ít đi lại.
  • Tiêm chích ma tuý.
  • Sau dùng một số thuốc như thuốc tránh thai, thuốc điều trị ung thư…
  • Nguyên nhân ngoại khoa: Các phẫu thuật chấn thương chỉnh hình chi dưới như thay khớp háng, khớp gối…, các phẫu thuật vùng ổ bụng, tiểu khung là những phẫu thuật có nguy cơ cao bị viêm tắc huyết khối tĩnh mạch.
  • Nguyên nhân sản khoa: viêm tắc huyết khối tĩnh mạch dễ xảy ra ở phụ nữ mang thai (do thay đổi hormone, hoặc do thai lớn chèn ép vào tĩnh mạch), sau nạo phá thai, sau mổ, sau đẻ (do kiêng khem, bất động quá mức).
  • Nguyên nhân nội khoa: bệnh nhân nằm điều trị trong khoa hồi sức tích cực, suy tim nặng, đợt cấp của bệnh phổi mạn tính, tai biến mạch máu não, nhiễm trùng nặng, ung thư … phải bất động kéo dài, là những nguyên nhân dễ dẫn đến hình thành huyết khối tĩnh mạch.
  • Bệnh lý tăng đông máu: có thể là bẩm sinh do thiếu hụt một số yếu tố dẫn đến tình trạng tăng đông như thiếu hụt protein C, protein S, antithrombin III, yếu tố V Leyden… hoặc mắc phải như trong hội chứng kháng phospholipid, hội chứng thận hư, xơ gan…

viem-tac-tinh-mach-chi-duoi-khi-mang-thai

Sau giai đoạn mang thai phụ nữ có nguy cơ cao mắc viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Chẩn đoán bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Biểu hiện lâm sàng tại chân bị huyết khối tĩnh mạch là các dấu hiệu sưng, nóng, đỏ, đau, tăng trương lực cơ. Tuy nhiên, vì triệu chứng có thể không rõ ràng, cần đặc biệt chú ý đến hoàn cảnh thuận lợi làm tăng nguy cơ tắc tĩnh mạch chi dưới.

Cần phân biệt viêm tắc tĩnh mạch chi dưới với một số nguyên nhân khác cũng làm chân sưng to, đau:

  • Tụ máu trong cơ: thường xuất hiện sau chấn thương
  • Vỡ kén hoạt dịch sau khoeo chân: thường ở bệnh nhân có tuổi, thoái hoá khớp.

Chẩn đoán chính xác cục máu đông trong lòng tĩnh mạch khá đơn giản. Chỉ cần sử dụng một máy siêu âm có thể dễ dàng phát hiện cục máu đông trong lòng tĩnh mạch chi dưới, làm tĩnh mạch ấn không xẹp. Việc chẩn đoán sâu hơn, ví dụ tìm nguyên nhân bẩm sinh do rối loạn đông máu, hoặc nguyên nhân khác (ung thư, bệnh mạn tính), hay chẩn đoán biến chứng thuyên tắc phổi, thường đòi hỏi được thực hiện ở cơ sở chuyên khoa tim mạch, có sẵn các thăm dò cận lâm sàng cần thiết phục vụ chẩn đoán.

Điều trị bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Mục tiêu hàng đầu của điều trị viêm tắc tĩnh mạch là ngăn ngừa sự lan lên của cục máu đông, để ngăn chặn biến cố thuyên tắc mạch phổi. Mục tiêu lâu dài là tránh nguy cơ tái phát huyết khối tĩnh mạch chi dưới, giảm tối đa nguy cơ bệnh lý suy tĩnh mạch sâu hậu huyết khối. Các biện pháp được sử dụng bao gồm.

Thuốc chống đông

Có hai loại: Thuốc chống đông đường truyền tĩnh mạch hay tiêm dưới da, là heparin và heparin trọng lượng phân tử thấp. Heparrin TLPT thấp được sử dụng phổ biến hơn, trong môi trường bệnh viện hoặc tại nhà với một số bệnh nhân (thuốc được tiêm dưới da bụng, do nhân viên y tế hoặc người nhà bệnh nhân đã được huấn luyện thực hiện), trong vòng 5 – 7 ngày, và gối với một thuốc chống đông đường uống gọi là kháng vitamin K, dùng lâu dài.

Băng chun áp lực hay tất áp lực y tế

Có tính đàn hồi cao và áp lực từ 20 – 30 mmHg khi đeo, giúp duy trì một áp lực thường xuyên lên tĩnh mạch chi dưới, một mặt góp phần làm ly giải cục máu đông, giảm nguy cơ di chuyển của cục máu đông, mặt khác, ngăn ngừa biến chứng suy tĩnh mạch mạn tính.

Chế độ vận động, dinh dưỡng

Thông thường bệnh nhân viêm tắc tĩnh mạch chi dưới khi mới điều trị được yêu cầu nằm tại giường, nhưng chỉ sau 24 – 48 giờ và được đeo tất hay băng áp lực, bệnh nhân được khuyến cáo dậy đi lại nhẹ nhàng. Về dinh dưỡng, người bệnh thường được khuyên tránh các thức ăn có thể gây táo bón. Điều quan trọng là chế độ ăn phù hợp với chế độ điều trị thuốc chống đông, hạn chế các thức ăn có khả năng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc dùng thuốc. Trong thời gian dùng thuốc chống đông, người bệnh được khuyên tránh các hoạt động thể lực mạnh, có nguy cơ gây chảy máu, tránh sử dụng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid, aspirin, thuốc đông y do làm tăng nguy cơ chảy máu.

thuoc-chong-dong-dieu-tri-viem-tac-tinh-mach-chi-duoi

Thuốc chống đông máu được chỉ định trong trường hợp viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Thời gian điều trị

Trong thời gian điều trị thuốc chống đông đường tiêm, bệnh nhân sẽ phải nằm viện, trung bình 7 – 10 ngày, nếu như không có biến chứng thuyên tắc phổi. Khi chuyển sang thuốc chống đông đường uống, bệnh nhân sẽ được theo dõi và điều trị ngoại trú. Hiệu quả điều trị thuốc chống đông kháng vitamin K đường uống được đánh giá dựa vào chỉ số INR, yêu cầu chỉ số này từ 2 – 3. Thông thường INR được xét nghiệm mỗi tháng 1 lần. INR dưới 2 chứng tỏ thuốc chống đông không có hiệu quả, INR trên 3 chỉ ra sự quá liều thuốc, có nguy cơ gây biến chứng chảy máu.

Thời gian điều trị thuốc phụ thuộc vào nguyên nhân, tối thiểu là 3 tháng nếu viêm tắc tĩnh mạch có yếu tố nguy cơ rõ ràng và tạm thời, trên 12 tháng, thậm chí cả đời, nếu không rõ nguyên nhân, viêm tắc tĩnh mạch tái phát, hoặc do nguyên nhân rối loạn đông máu. Thời gian đeo tất hay băng áp lực được khuyến cáo tổi thiểu là 2 năm, tốt nhất là kéo dài, để tránh nguy cơ suy tĩnh mạch.

Phòng tránh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới

Những người có nguy cơ cao bị viêm tắc tĩnh mạch như sau phẫu thuật vùng tiểu khung, chấn thương chỉnh hình …, bị các bệnh lý nội khoa nặng nề buộc phải nằm bất động kéo dài … có chỉ định dùng thuốc chống đông dự phòng. Gia đình của họ đươc khuyên phải thường xuyên thay đổi tư thế, xoa bóp chân, có thể đeo tất áp lực dự phòng huyết khối ở chân cho bệnh nhân.

Phụ nữ có chỉ định điều trị hormone, dùng thuốc tránh thai, cần tham khảo bác sĩ điều trị và khám định kỳ. Phụ nữ có thai đặc biệt ở những tháng cuối, được khuyên mang tất áp lực, gác cao chân để tránh ứ trệ tuần hoàn. Sau đẻ, sau mổ nên dậy vận động sớm, xoa bóp chân tay, tránh nằm một chỗ.

Người béo phì, có lối sống tĩnh tại được tư vấn giảm cân, tăng cường tập thể dục thể thao để cải thiện hoạt động bơm của cơ. Khi đi ô tô, máy bay đường dài, để tránh nguy cơ tắc tĩnh mạch, nên uống nhiều nước, co duỗi chân tay, đứng dậy đi lại sau mỗi 1 – 2 tiếng nếu có thể, ngoài ra, có thể đeo tất áp lực phòng chống tắc mạch.

CNTTCBTG – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh viêm tắc tĩnh mạch chi dưới đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-viem-tac-tinh-mach-chi-duoi-5479/feed/ 6
Bệnh tai biến mạch máu não https://benh.vn/benh-tai-bien-mach-mau-nao-5362/ https://benh.vn/benh-tai-bien-mach-mau-nao-5362/#respond Mon, 13 Dec 2021 09:22:24 +0000 http://benh2.vn/benh-tai-bien-mach-mau-nao-5362/ Tai biến mạch não là một cấp cứu cần được điều trị càng sớm càng tốt để giảm tổn thương não và biến chứng. Để phòng ngừa tai biến mạch não vấn đề quan trọng là kiểm soát các yếu tố nguy cơ chính như tăng huyết áp, hút thuốc, rối loạn mỡ máu

Bài viết Bệnh tai biến mạch máu não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Tai biến mạch não xảy ra khi một phần của não không có máu nuôi hoặc giảm nặng lượng máu nuôi, khi đó các tế bào não bị mất oxy và dinh dưỡng sẽ bị chết trong vài phút. Tai biến mạch não là một cấp cứu cần được điều trị càng sớm càng tốt để giảm tổn thương não và biến chứng. Để phòng ngừa tai biến mạch não vấn đề quan trọng là kiểm soát các yếu tố nguy cơ chính như tăng huyết áp, hút thuốc, rối loạn mỡ máu…

tai_bien_mach_mau_nao_1

Dấu hiệu bệnh tai biến mạch máu não

Các dấu hiệu và triệu chứng của tai biến mạch máu não rất phong phú, đa dạng:

  • Rối loạn vận động: đột ngột trượt chân, mất thăng bằng hoặc mất sự phối hợp các động tác.
  • Rối loạn nói và hiểu: lẫn lộn, nói lắp hoặc khó khăn trong việc hiểu lời nói.
  • Liệt hoặc tê bì mặt, tay hoặc chân: có thể đột ngột tê bì, yếu hoặc liệt mặt, tay hoặc chân, đặc biệt ở một bên cơ thể. Cố gắng giơ cả 2 tay lên trên đầu cùng lúc nếu 1 tay bị rơi xuống có thể là dấu hiệu của tai biến mạch não. Tương tự như vậy, một bên của miệng có thể bị trễ xuống khi người bệnh cười.
  • Rối loạn nhìn ở một hoặc hai mắt: người bệnh có thể đột ngột mờ hoặc tối sầm một hoặc hai bên mắt hoặc có vấn đề về thị giác.
  • Đau đầu: đau đột ngột, dữ dội có thể phối hợp với nôn, hoa mắt chóng mặt hoặc thay đổi ý thức.
  • Nếu người bệnh có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào của tai biến mạch não, thậm chí nếu triệu chứng thay đổi bất thường hoặc biến mất vẫn phải gọi cấp cứu hoặc đến ngay cơ sở y tế gần nhất càng sớm càng tốt, đừng chờ đợi triệu chứng biến mất. Nếu để quá lâu không điều trị khả năng tổn thương não và mất chức năng sẽ nặng hơn. Người bệnh nên đến bệnh viện trong vòng 3 giờ kể từ khi xuất hiện triệu chứng. Nếu nghi ngờ bị tai biến mạch não, người bệnh phải được chăm sóc cẩn thận trong khi chờ tới được bệnh viện.

Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ của tai biến mạch máu não

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tai biến mạch máu não trong đó chủ yếu tới 85% nguyên nhân thường gặp là nhồi máu não.

Nguyên nhân bệnh tai biến mạch máu não

Tai biến mạch não có thể do tắc nghẽn mạch máu não (nhồi máu não – NMN) hoặc do vỡ mạch máu não (xuất huyết não – XHN). Một vài người có tổn thương tạm thời mạch máu não (thiếu máu não thoáng qua).

Nhồi máu não: Khoảng 85% tai biến mạch não là nhồi máu não. Nhồi máu não xảy ra khi động mạch nuôi não bị hẹp hoặc tắc, gây giảm nặng dòng máu đến não. Nhồi máu não bao gồm: NMN do huyết khối (thường do xơ vữa động mạch…), do tắc mạch (cục máu đông bắn lên não thường có nguồn gốc từ tim).

Xuất huyết não: XHN có thể do nhiều tổn thương mạch máu não, do không kiểm soát được huyết áp, do yếu một vị trí trên thành mạch máu (phình mạch). Một nguyên nhân ít phổ biến của XHN là vỡ dị dạng động tĩnh mạch – một bất thường bẩm sinh gây yếu thành mạch. Các dạng XHN gồm có: xuất huyết trong sọ, xuất huyết dưới màng nhện.

Thiếu máu não thoáng qua: Cũng là một tai biến mạch não nhẹ, do sự giảm đột ngột cung cấp máu cho một phần của não do cục máu đông hoặc mảnh vụn làm tắc mạch não, thường kéo dài trong vòng vài phút tới 24 giờ.

Yếu tố nguy cơ của bệnh tai biến mạch máu não

Yếu tố nguy cơ có thể điều trị được: tăng huyết áp (nguy cơ tai biến mạch não bắt đầu khi tăng huyết áp trên 120/80mmHg), hút thuốc lá chủ động hoặc thụ động, tăng mỡ máu, đái tháo đường, béo phì, lười vận động, hội chứng ngừng thở khi ngủ, bệnh tim mạch (suy tim, tim bẩm sinh, nhiễm trùng trong tim hoặc rối loạn nhịp tim), dùng thuốc (estrogen, cocain…), nghiện rượu.

Yếu tố nguy cơ khác: tiền sử gia đình có người tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim hoặc thiếu máu não thoáng qua, tuổi từ 55 trở lên, giới nam có nguy cơ cao hơn giới nữ.

Biến chứng của tai biến mạch não

Liệt: liệt một bên cơ thể hoặc liệt một bên mặt, cánh tay, gây khó khăn trong sinh hoạt như ăn uống, đi lại, mặc quần áo.

Khó nói hoặc nuốt. Cũng có thể khó khăn trong hiểu vấn đề, đọc hoặc viết.

Mất trí nhớ hoặc khó khăn khi suy nghĩ.

Rối loạn cảm xúc.

Đau, nhạy cảm với thay đổi nhiệt độ nhất là khi lạnh.

Thay đổi hành vi, không thể chăm sóc bản thân.

Chẩn đoán bệnh tai biến mạch máu não

Khám lâm sàng: thời điểm xuất hiện triệu chứng rất quan trọng góp phần quyết định biện pháp điều trị, ngoài ra các triệu chứng hiện tại, người thầy thuốc cần hỏi thêm về tiền sử dùng thuốc, tiền sử chấn thương, tiền sử gia đình bị bệnh tim mạch. Việc khám lâm sàng bao gồm nghe tim, phát hiện tiếng thổi ở động mạch cảnh, đo huyết áp, soi đáy mắt giúp phát hiện dấu hiệu lắng đọng các tinh thể mỡ nhỏ hoặc cục máu đông trong mạch máu ở mắt.

Xét nghiệm máu: đánh giá thời gian đông máu, đường máu, điện giải hoặc tình trạng nhiễm trùng.

Chụp CT sọ não hoặc MRI sọ não: giúp phát hiện vị trí tổn thương trên não, diện tổn thương, dạng tai biến mạch não là do nhồi máu hay xuất huyết não đồng thời phát hiện khối u trong não (nếu có) hoặc các tình trạng bệnh lý khác.

Các phương pháp khác: siêu âm mạch cảnh, chụp mạch não, siêu âm tim.

Điều trị bệnh tai biến mạch máu não

Để điều trị tai biến mạch máu não hiệu quả cần căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh, các nguyên nhân khác nhau sẽ có cách điều trị khác nhau.

Điều trị tai biến mạch máu não do nhồi máu não

Aspirin: cho ngay sau khi bị tai biến mạch não để giảm nguy cơ bị tái tai biến mạch não. aspirin phòng ngừa sự hình thành cục máu đông.

Những thuốc chống đông máu khác: heparin có thể cho nhưng không có lợi ích nhiều trong cấp cứu. clopidogrel (plavix), sintrom, aspirin, dipyridamole (aggrenox) có thể phối hợp nhưng không thường sử dụng trong cấp cứu.

Truyền tĩnh mạch thuốc tiêu sợi huyết (TPA-alteplasse): được chỉ định khi bệnh nhân đến viện trong vòng 4 đến 5 giờ đầu tiên kể từ khi xuất hiện triệu chứng. Bác sĩ sẽ cân nhắc nguy cơ chảy máu để quyết định dùng TPA cho bệnh nhân. Có thể đưa thuốc trực tiếp vào vị trí tổn thương thông qua một ống (catheter) từ đùi lên, hoặc trực tiếp lấy cục máu đông bằng một dụng cụ nhỏ đưa vào trong não.

Các phương pháp điều trị khác: cắt bỏ lớp áo trong động mạch cảnh để loại bỏ mảng xơ vữa động mạch, đặt stent động mạch cảnh để mở thông động mạch bị hẹp.

Điều trị tai biến mạch máu não do xuất huyết não

Điều trị tập trung vào kiểm soát chảy máu và giảm huyết áp. Phẫu thuật có thể sử dụng để giảm nguy cơ trong tương lai. Nếu người bệnh đang dùng các thuốc có thể gây chảy máu như sintrom, coumadin hoặc thuốc chống tiểu cầu như clopidogrel (plavix), người bệnh sẽ được cho uống thuốc hoặc truyền các chế phẩm máu (huyết tương tươi) nhằm trung hoà tác dụng của các thuốc ở trên. Không sử dụng các thuốc chống đông máu như aspirin và TPA trong trường hợp người bệnh bị xuất huyết não.

Phẫu thuật sửa chữa: giảm nguy cơ vỡ phình mạch não, dị dạng động tĩnh mạch. Ví dụ cặp vị trí phình mạch để ngăn dòng máu tới đó bằng 1 clamp nhỏ, hoặc nút mạch bằng Coil, phẫu thuật cắt bỏ khối phình nếu khối phình có thể tiếp cận được và không quá to.

Điều trị phục hồi chức năng sau tai biến mạch máu não

Giúp bệnh nhân phục hồi khả năng vận động và sinh hoạt. Chế độ luyện tập phụ thuộc vào tuổi, tình trạng sức khoẻ chung, mức độ khó khăn trong hoạt động sau khi bị tai biến mạch não cũng như lối sống, sở thích, cũng như khả năng những người tham gia chăm sóc người bệnh. Tập luyện có thể bắt đầu trong thời gian nằm viện và tiếp tục ở nhà hoặc ở các cơ sở y tế địa phương.

Phòng ngừa tai biến mạch máu não

Kiểm soát huyết áp: đóng vai trò rất quan trọng. Kiểm soát huyết áp bao gồm thay đổi lối sống như thể dục, giảm stress, duy trì cân nặng lý tưởng, giảm muối và rượu bên cạnh việc điều trị bằng các thuốc hạ huyết áp.

Kiểm soát rối loạn lipid máu: ăn ít cholesterol và chất béo. Nếu không kiểm soát được bằng chế độ ăn phải dùng thuốc hạ lipid máu do bác sĩ chỉ định.

Bỏ thuốc lá, thuốc lào: tai biến mạch não tăng ở cả người hút thuốc chủ động hoặc thụ động (người hít phải khói thuốc)

Kiểm soát đái tháo đường: bằng chế độ ăn, luyện tập, duy trì cân nặng và dùng thuốc.

Duy trì cân nặng lý tưởng: giúp làm giảm huyết áp, cải thiện mỡ máu và giảm nguy cơ tim mạch.

Chế độ ăn nhiều hoa quả và rau.

Luyện tập thể dục hàng ngày: tập aerobic, đi bộ, bơi, đạp xe… làm giảm huyết áp, cải thiện mỡ máu, tốt cho tim và mạch máu. Thể dục giúp giảm cân, kiểm soát đái tháo đường và giảm stress.

Hạn chế uống rượu: rượu mạnh làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, tai biến mạch não. Tuy nhiên uống một lượng nhỏ đến vừa có thể giúp dự phòng tai biến mạch não và giảm xu hướng đông máu.

Điều trị hội chứng ngừng thở khi ngủ (nếu có): cung cấp oxy vào buổi tối.

Tránh thuốc có hại: cocain, methamphetamine…

Dự phòng bằng thuốc: nếu người bệnh đã bị tai biến mạch não hoặc thiếu máu não thoáng qua việc dự phòng tai biến mạch não đóng vai trò rất quan trọng. Các thuốc dự phòng biến cố tai biến mạch não bao gồm: Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (Aspirin, có thể phối hợp với Dipyridamole như Aggrenox); có thể thay thế Aspirin bằng Clopidogrel (Plavix). Thuốc chống đông: nếu người bệnh có cục máu đông ở trong buồng tim, rối loạn nhịp tim, người bệnh nên được dự phòng tai biến mạch não bằng các thuốc chống đông bao gồm hepain và warfarin. Heparin được dùng trong thời gian ngắn khi người bệnh nằm viện; warfarin (coumadin) có thể được sử dụng lâu dài, tác dụng chống đông mạnh nhưng khoảng liều hẹp, liều dùng thật chính xác và cần theo dõi chặt chẽ tác dụng phụ.

CNTTCNTG – BV Bạch Mai

Bài viết Bệnh tai biến mạch máu não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-tai-bien-mach-mau-nao-5362/feed/ 0
Hội chứng tiền kích thích trong rối loạn nhịp tim https://benh.vn/hoi-chung-tien-kich-thich-trong-roi-loan-nhip-tim-3776/ https://benh.vn/hoi-chung-tien-kich-thich-trong-roi-loan-nhip-tim-3776/#respond Mon, 06 Sep 2021 04:42:59 +0000 http://benh2.vn/hoi-chung-tien-kich-thich-trong-roi-loan-nhip-tim-3776/ Hội chứng tiền kích thích là hội chứng rối loạn nhịp tim gây nhịp nhanh kịch phát, rung nhĩ, cuồng động nhĩ với đặc trưng là hc Wolff -Parkinson-White

Bài viết Hội chứng tiền kích thích trong rối loạn nhịp tim đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hội chứng tiền kích thích (pre- excitation syndromes) là xung động không đi qua bộ phận giữ chậm của nút nhĩ-thất, mà đi theo con đường dẫn truyền nhanh nối tắt từ nhĩ xuống thất (thất sẽ được khử cực sớm hơn so với bình thường), hoặc từ thất dẫn truyền ngược lên nhĩ (nhĩ sẽ khử cực sớm hơn so với bình thường); những con đường dẫn truyền xung động nhanh này nằm ngoài nút nhĩ-thất như cầu Ken bó Jame, Mahain, nhưng lại được liên hệ với nút nhĩ-thất bằng cầu nối là những bó sợi cơ tim.

loan_nhip_tim_benh_vn

Bằng phương pháp nghiên cứu điện sinh lý học của tim, người ta chia hội chứng tiền kích thích trong rối loạn nhịp tim ra làm 3 loại (3 type):

  • Type A: hội chứng WPW (Wolff -Parkinson-White syndrome).
  • Type B: hội chứng WPW ẩn (concealed WPW syndrome).
  • Type C: hội chứng PR ngắn: (LGL: Lown-Ganon-Lewin syndrome).

1. Hội chứng WPW

Hội chứng có đặc điểm là: đường dẫn truyền nhanh từ nhĩ xuống thất chạy song song với nút nhĩ-thất và bó His; xung động có thể đi được 2 chiều: từ nhĩ xuống thất hoặc ngược lại từ thất lên nhĩ.

Những bó sợi cơ tim tạo cầu nối từ đường dẫn truyền nhanh với nút nhĩ- thất ở những vị trí khác nhau như: thành tự do thất trái, vùng trước hoặc sau vách liên thất,thành tự do thất phải, một bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều đường dẫn truyền tắt bệnh lý.

Nguyên nhân hội chứng WPW

hội chứng WPW thuộc nhóm rối loạn nhịp tim bẩm sinh, 80-90 % hội chứng WPW gặp ở tim bình thường, số còn lại gặp ở những người có bệnh tim bẩm sinh hay mắc phải như: Ebstein, sa van 2 lá, bệnh cơ tim phì đại…

Biểu hiện hội chứng WPW

Biểu hiện lâm sàng của hội chứng WPW là do nhịp nhanh vào lại kịch phát, hoặc rung nhĩ, cuồng động nhĩ. Những cơn nhịp nhanh có thể tái phát lại sau vài tuần hoặc vài tháng,  bệnh nhân có thể tự chữa cơn nhịp nhanh cho mình bằng các phương pháp gây cường phó giao cảm (ấn nhãn cầu, xoa xoang động mạch cảnh hoặc làm nghiệm pháp Valsalva…).

Trong cơn nhịp nhanh, bệnh nhân có thể bị ngất, nếu rung nhĩ nhanh dẫn đến rung thất thì bệnh nhân bị đột tử.

– Biểu hiện điện tim đồ của hội chứng WPW:

  • PR (hoặc PQ) ngắn < 0,12 giây.
  • Sóng delta, hoặc trát đậm sóng R.
  • Độ rộng của QRS ≥ 0,12 giây.
  • Sóng T âm tính.
  • Có khi là nhịp nhanh, cuồng động nhĩ, rung nhĩ.

Điều trị hội chứng WPW

Điều trị cơn nhịp nhanh vào lại WPW:

  • Các biện pháp cường phó giao cảm: xoa xoang động mạch cảnh, nghiệm pháp Valsalva, cho ngón tay ngoáy họng… nếu không tác dụng thì phải dùng thuốc.
  • Lựa chọn thuốc chống loạn nhịp đường tĩnh mạch, một trong số thuốc sau:
    • Nhóm Ic (ajmaline, propafenone, flecainide) hoặc
    • Nhóm Ia (procainamide, disopyramide, quinidine).
  • Nếu vẫn không cắt được cơn nhịp nhanh thì phải sốc điện  đảo nhịp với liều khởi đầu 50j.

Điều trị cơn rung nhĩ hoặc cuồng động nhĩ do WPW.

  • Lựa chọn thuốc chống loạn nhịp tim đường tĩnh mạch, một trong số thuốc sau: Thuốc nhóm Ic (ajmaline, propafenone, flecainide) hoặc Nhóm Ia (procainamide, disopyramide, quinidine) hoặc tốt nhất là amiodarone (cordaron).
  • Nếu dùng thuốc không có tác dụng, có rối loạn huyết động, sốc, hoặc suy tim ứ đọng thì phải tiến hành sốc điện để điều trị.
  • Hội chứng WPW có biến chứng cơn nhịp nhanh, rung nhĩ, cuồng động nhĩ không được dùng digoxin và  verapamil, vì những thuốc này rút ngắn quá trình tái cực của nút nhĩ-thất, nên không khống chế được nhịp thất (nhịp thất giải phóng) nhất là khi có rung nhĩ hoặc cuồng động nhĩ.
  • Nhưng thuốc digoxin hoặc verapamil có thể dùng được ở trẻ em, vì ở trẻ em rất hiếm khi WPW gây biến chứng rung nhĩ.
  • Điều trị kéo dài dự phòng những biến chứng rối loạn nhịp do hội chứng WPW gây ra, lựa chọn một trong số thuốc sau đây:
    • Thuốc nhóm Ic (propafenone, flecainide).
    • Thuốc nhóm Ia (quinidine, procainamide, disopyramide). Thuốc nhóm block thụ cảm thể bêta giao cảm.
    • Nếu vẫn không có tác dụng thì có thể phối hợp thuốc nhóm Ic với thuốc nhóm block thụ cảm thể bêta giao cảm.
  • Điều trị cơn nhịp nhanh bằng phương pháp phẫu thuật hoặc đốt đường dẫn truyền tắt bệnh lý bằng năng lượng tần số radio qua ống thông, nhất là những trường hợp sau đây:
    • Đã bị ngừng tim đột ngột mà được cấp cứu sống lại.
    • Cơn rung nhĩ hoặc cuồng động nhĩ đã gây ra ngất lịm mà không  điều trị được bằng thuốc.
    • Thường có những cơn nhịp nhanh mà không khống chế được bằng thuốc.

2. Hội chứng WPW ẩn (hoặc hội chứng WPW có đường dẫn truyền ẩn)

Hội chứng WPW ẩn có đặc điểm là đường dẫn truyền bệnh lý liên hệ với nút nhĩ-thất tạo ra vòng dẫn truyền blốc một chiều, nghĩa là chỉ cho xung động đi ngược từ thất  lên nhĩ (không cho xung động đi theo hướng từ nhĩ xuống thất).

Biểu hiện hội chứng WPW ẩn

Biểu hiện lâm sàng của hội chứng WPW ẩn giống như hội chứng WPW, chỉ khác là hoạt động nhĩ nhanh khi bị rung nhĩ hoặc cuồng động nhĩ, rất ít khi bị ngất, không gây đột tử.

Điện tim đồ:

  • Khi nhịp xoang bình thường, rung nhĩ hoặc cuồng động nhĩ, điện tim đồ không chẩn đoánđược hội chứng WPW ẩn.
  • Khi nhịp nhanh vào lại do WPW ẩn thấy nhịp nhĩ đảo lại: sóng P âm tính sau phức bộ QRS và rơi vào đoạn ST, đoạn P’R > RP’.

Điều trị hội chứng WPW ẩn

Giống như điều trị hội chứng WPW, ngoài ra hội chứng WPW ẩn có thể dùng được thuốc nhóm digitalis hoặc verapamil vì không gây ra tình trạng tăng nhịp thất khi rung nhĩ hoặc khi bị cuồng động nhĩ.

3. Hội chứng PR ngắn

Hội chứng PR ngắn còn có tên là hội chứng Lown-Ganong-Lewine (LGL), để chỉ khoảng PR trên điện tim đồ ngắn, sau đó là phức bộ QRS bình thường (không có sóng delta) phối hợp với bệnh sử có cơn nhịp nhanh kịch phát.

Bản chất của PR ngắn và nhịp  tim nhanh là do những sợi cơ nhĩ nối tắt giữa phần dẫn truyền chậm ở phía trên nút nhĩ-thất đến phần xa của nút nhĩ-thất hoặc bó His, tạo ra vòng vào lại nhỏ nằm ở phần cơ nhĩ của tim.

Biểu hiện hội chứng PR ngắn

Biểu hiện lâm sàng giống như hội chứng WPW, phụ thuộc vào các cơn nhịp nhanh vào lại, rung nhĩ nhanh, cuồng động nhĩ nhanh.

  • Rung nhĩ nhanh kết hợp với đáp ứng nhịp thất nhanh có thể dẫn đến rung thất gây tử vong.
  • Cuồng động nhĩ nhanh phối hợp với dẫn truyền nhĩ thất 1:1, nhịp thất nhanh từ 220-300 ck/phút sẽ gây ngất, lịm…

Biểu hiện điện tim đồ

  • Khoảng PR ngắn < 0,12 giây.
  • Phức bộ QRS bình thường hoặc rộng hơn bình thường nhưng không có sóng delta.
  • Trong bệnh sử đã có lầm ghi được những cơn nhịp nhanh kịch phát.

Điều trị hội chứng PR ngắn

Cách điều trị hội chứng PR giống như điều trị hội chứng WPW.

Bài viết Hội chứng tiền kích thích trong rối loạn nhịp tim đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/hoi-chung-tien-kich-thich-trong-roi-loan-nhip-tim-3776/feed/ 0