Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Mon, 06 May 2024 08:57:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Lời khuyên cần thiết phòng chống bệnh ung thư https://benh.vn/loi-khuyen-can-thiet-phong-chong-benh-ung-thu-5149/ https://benh.vn/loi-khuyen-can-thiet-phong-chong-benh-ung-thu-5149/#respond Tue, 07 May 2024 05:17:56 +0000 http://benh2.vn/loi-khuyen-can-thiet-phong-chong-benh-ung-thu-5149/ Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào, khi bị kích thích bởi các tác nhân sinh ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể. Hiện nay, ung thư là một bệnh lý thường gặp và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.

Bài viết Lời khuyên cần thiết phòng chống bệnh ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào, khi bị kích thích bởi các tác nhân sinh ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể. Hiện nay, ung thư là một bệnh lý thường gặp và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.

Tại Việt Nam, bệnh ung thư cũng có xu hướng ngày càng gia tăng về tỷ lệ mắc và trở thành một trong những gánh nặng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung về kinh tế, xã hội và sức khoẻ con người. Việc chẩn đoán và điều trị ung thư luôn là những vấn đề mà cả thế giới quan tâm và đầu tư nghiên cứu.

phòng bệnh ung thư

Phòng chống bệnh ung thư (ảnh minh họa)

Các yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư

Ung thư là một bệnh lý phức tạp có yếu tố khởi phát thường không rõ ràng và thường là kết hợp nhiều nguyên nhân, do đó cần nắm được các yếu tố nguy cơ của ung thư để có kết luận và theo dõi phù hợp.

Các yếu tố liên quan đến gen, di truyền

Một số loại ung thư như ung thư đại tràng, ung thư vú… có tính chất gia đình nghĩa là có nhiều người trong gia đình mắc cùng một loại bệnh ung thư. Do vậy, những thành viên gia đình này nên đi khám sức khoẻ định kỳ để sàng lọc phát hiện sớm bệnh ung thư, từ đó điều trị bệnh sẽ hiệu quả hơn.

Bức xạ ion hoá

Những người bị chiếu bởi các bức xạ ion hoá có thể tổn thương ADN trong nhân tế bào và dẫn đến ung thư. Nguy cơ tổn thương ADN phụ thuộc vào mức độ chiếu xạ nhiều hay ít. Do đó, chúng ta cần có các biện pháp hạn chế nguy cơ bị chiếu xạ cho cơ thể. Đối với những người làm trong môi trường có tiếp xúc với phóng xạ cần có các phương tiện bảo hộ lao động, che chắn phù hợp… để hạn chế mức độ ảnh hưởng của bức xạ ion hoá.

Bức xạ tia cực tím

Là bức xạ từ mặt trời đi tới trái đất. Loại bức xạ có hại nhất là loại có tần số cao, tức những tia cực tím B có khả năng làm tổn thương ADN. Những tia bức xạ cực tím này là nguyên nhân gây ra khoảng 90% các trường hợp ung thư da.

Mức độ nguy hiểm của tia cực tím theo từng giờ trong ngày

Vì vậy, cần có các phương tiện bảo hộ thích hợp, nên bôi kem chống nắng và tránh bị phơi nắng quá nhiều.

Hoá chất gây ung thư

Có nhiều loại hoá chất gây ung thư. Các chất này thường có ở trong đất, nước, thực phẩm, ví dụ như các thuốc trừ sâu, diệt cỏ…

Để phòng bệnh cần hạn chế ăn các thực phẩm ướp muối, nướng, hun khói; không ăn thực phẩm có thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc tăng trọng. Tăng cường ăn hoa quả, rau xanh, các thực phẩm có nhiều caroten, vitamin C…

Yếu tố nội tiết

Những phụ nữ sử dụng nhiều các chế phẩm, thuốc có chứa estrogen sẽ có nhiều nguy cơ bị một số ung thư: ung thư vú, tử cung…

Phụ nữ có kinh lần đầu sớm và mãn kinh muộn sẽ có nhiều nguy cơ mắc bệnh ung thư.

Cần thường xuyên vận động, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, không uống rượu, không nên sinh con quá muộn… sẽ làm giảm được nguy cơ mắc các bệnh ung thư nói chung và các ung thư liên quan đến yếu tố nội tiết.

Thuốc lá

Trong khói thuốc lá có nhiều chất gây ra ung thư: phổi, đường hô hấp trên, thực quản, bàng quang, tuỵ, dạ dày, gan, thận, đại tràng và trực tràng…

Hít phải khói thuốc lá thụ động cũng có nguy cơ bị các loại ung thư nói trên.

Rượu

Là một trong các nguyên nhân gây ung thư. Những người uống nhiều rượu có nguy cơ cao bị ung thư miệng, họng, thực quản, dạ dày và gan.

Thực phẩm gây ung thư

Có một số loại thực phẩm có thể gây ung thư như: thực phẩm ướp muối, ủ chua, ngâm dấm, thực phẩm bị nấm mốc; thịt, cá hun khói, thịt nướng, dưa muối, thực phẩm đóng hộp…

Chế độ ăn nhiều mỡ động vật có liên quan đến nhiều loại ung thư khác nhau như ung thư đại tràng, trực tràng và tuyến tiền liệt.

Để phòng bệnh cần hạn chế ăn các thực phẩm ướp muối, nướng, hun khói; không ăn thực phẩm có thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc tăng trọng. Tăng cường ăn hoa quả, rau xanh, các thực phẩm có nhiều caroten, vitamin C….

Chế độ ăn ít mỡ, thức ăn làm từ đậu tương, nhiều chất xơ, rau quả có thể phòng ngừa được ung thư vì chúng có tính chống oxy hoá, ngăn cản được các yếu tố nguy cơ phát triển thành ung thư.

Gốc tự do

Gốc tự do có thể gây tổn thương ADN và dẫn đến ung thư. Do đó, chúng ta cần bổ sung các chất chống oxy hoá có tác dụng kìm hãm, ngăn cản sự tạo thành các gốc tự do. Vitamin C và A là những chất chống oxy hoá tốt nhất, vì thế cần bổ sung hoặc ăn những thực phẩm chứa nhiều hai loại vitamin này.

Các triệu chứng cần đi khám để phát hiện sớm ung thư

phòng chống bệnh ung thư

Vàng da là một dấu hiệu của bệnh ung thư gan

Việc chẩn đoán sớm bệnh ung thư giúp điều trị hiệu quả và có thể điều trị khỏi bệnh. Những dấu hiệu sau đây có thể là sự báo động của bệnh ung thư:

  • Ho dai dẳng, ho ra máu kéo dài, đau ngực đặc biệt trên những người nghiện thuốc lá và rượu thì cần phải nghĩ tới bệnh ung thư phổi và cần phải đi khám tại các cơ sở y tế chuyên khoa.
  • Khàn tiếng thường xuyên và kéo dài không do viêm họng hay cảm lạnh, thì có thể là dấu hiệu của ung thư thanh quản.
  • Rối loạn tiêu hoá dai dẳng, khi táo bón, khi tiêu chảy, đi ngoài có nhầy máu lẫn theo phân; ở tuổi trên 40 thường xuyên ăn không tiêu, đầy bụng, táo bón, hay bị tiêu chảy… là những dấu hiệu hướng tới bệnh ung thư đại tràng, trực tràng.
  • Chán ăn, đầy hơi, đau bụng vùng thượng vị, ợ hơi, ợ chua… cần nghĩ tới ung thư dạ dày.
  • Vết thương bị lở loét lâu lành ở vùng miệng, dù đã điều trị tích cực từ 2-3 tuần mà không khỏi, và nếu trong miệng có những vùng trắng dày lên, những khối sùi loét có thể là biểu hiện của ung thư khoang miệng.
  • Nuốt nghẹn, nuốt vướng, nuốt khó, có cảm giác vướng víu ngay vùng cổ khi ăn, đó có thể là dấu hiệu ung thư thực quản.
  • Đau hạ sườn phải, vàng mắt, vàng da có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư gan.
  • Đi tiểu ra máu, đi tiểu buốt, dắt, tiểu nhiều lần hoặc khó đi tiểu… cần đi khám để phát hiện ung thư bàng quang, tuyến tiền liệt.
  • Ra máu âm đạo bất thường: sau khi có quan hệ tình dục, giữa chu kỳ kinh, sau mãn kinh… có thể là biểu hiện của bệnh ung thư tử cung.
  • Đầu vú có tiết dịch hoặc rỉ máu, sờ thấy khối bất thường tại vú có thể là ung thư vú. Phụ nữ không sinh con, không cho con bú, những phụ nữ mà gia đình có mẹ, chị gái bị ung thư vú và phụ nữ trên 40 tuổi cần phải đi khám kiểm tra vú định kỳ 6 tháng -1 năm/lần để phát hiện sớm ung thư vú.
  • Nốt ruồi đột nhiên phát triển nhanh, đau, ngứa, dễ chảy máu khi va chạm; các vết loét nhỏ trên da lâu ngày không khỏi… có thể là dấu hiệu ung thư hắc tố, ung thư da.
  • Khối u ở chân tay, thành bụng và lưng có dạng cục tròn, hơi cứng và di động, cũng có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư phần mềm…
  • Vết xuất huyết dưới da, nổi hạch vùng cổ, nách, bẹn… có thể là dấu hiệu của bệnh bạch cầu, u lympho.
  • Đau đầu, mờ mắt, co giật, giảm trí nhớ, yếu nửa người… có thể là dấu hiệu của u não

Tóm lại

Khi thấy cơ thể có những biểu hiện bất thường chúng ta cần đến các cơ sở y tế chuyên khoa để khám, phát hiện sớm ung thư. Đối với bệnh ung thư, phát hiện bệnh càng sớm thì hiệu quả và tỷ lệ khỏi bệnh càng cao.

Chúng ta cần có lối sống lành mạnh, chế độ làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý để  tránh các yếu tố nguy cơ có thể gây bệnh ung thư.

Để phát hiện sớm và điều trị ung thư có hiệu quả chúng ta cần thực hiện khám sức khoẻ định kỳ và chương trình sàng lọc phát hiện sớm ung thư.

Cẩm nang truyền thông các bệnh thường gặp – BV Bạch Mai

Bài viết Lời khuyên cần thiết phòng chống bệnh ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/loi-khuyen-can-thiet-phong-chong-benh-ung-thu-5149/feed/ 0
Thuốc Aspirin có thể làm giảm nguy cơ bệnh ung thư ở những người thừa cân https://benh.vn/thuoc-aspirin-co-the-lam-giam-nguy-co-benh-ung-thu-o-nhung-nguoi-thua-can-7539/ https://benh.vn/thuoc-aspirin-co-the-lam-giam-nguy-co-benh-ung-thu-o-nhung-nguoi-thua-can-7539/#respond Wed, 27 Sep 2023 06:23:10 +0000 http://benh2.vn/thuoc-aspirin-co-the-lam-giam-nguy-co-benh-ung-thu-o-nhung-nguoi-thua-can-7539/ Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of Clinical Oncology, được tài trợ bởi Hội đồng nghiên cứu y học Anh, nghiên cứu ung thư Anh. Thử nghiệm ngẫu nhiên đã cho thấy rằng nguy cơ ung thư thường tăng ở những người thừa cân có thể sẽ đảo ngược khi dùng liều thường xuyên aspirin.

Bài viết Thuốc Aspirin có thể làm giảm nguy cơ bệnh ung thư ở những người thừa cân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of Clinical Oncology, được tài trợ bởi Hội đồng nghiên cứu y học Anh, nghiên cứu ung thư Anh. Thử nghiệm ngẫu nhiên đã cho thấy rằng nguy cơ ung thư thường tăng ở những người thừa cân có thể sẽ đảo ngược khi dùng liều thường xuyên aspirin.

Thuốc aspirin làm giảm nguy cơ ung thư ở người thừa cân

Những người thừa cân, béo phì có rất nhiều nguy cơ bệnh tật, trong đó có nguy cơ ung thư. Aspirin được các nhà nghiên cứu theo dõi khi dùng cho các đối tượng này và cho kết quả khả quan.

Nghiên cứu trên những người mắc hội chứng Lynch

Các nhà nghiên cứu đánh giá hiệu quả của thuốc trong một nghiên cứu kéo dài 10 năm trên 937 người mắc hội chứng Lynch – một bệnh rối loạn di truyền làm tăng nguy cơ ung thư, đặc biệt là bệnh ung thư đại tràng và ung thư tử cung.

Trong số những bệnh nhân này, các nhà nghiên cứu thấy rằng khi bị thừa cân sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư đại tràng. Tuy nhiên, nguy cơ này có thể được đảo ngược với dùng liều thường xuyên thuốc aspirin

“Điều này rất quan trọng đối với những người mắc hội chứng Lynch”, tác giả nghiên cứu Sir John Burn, giáo sư di truyền học lâm sàng tại Đại học Newcastle ở Anh cho biết. “Rất nhiều người đấu tranh với nguy cơ ung thư do thừa trọng lượng và điều này cho thấy nguy cơ ung thư có thể được loại trừ bằng cách dùng một viên aspirin.”

Người béo phì có khả năng mắc ung thư cao hơn

Trong nghiên cứu này, một nhóm các nhà nghiên cứu từ hơn 43 trung tâm ở 16 quốc gia đã kiểm tra sữ cải thiện của người tham gia mắc hội chứng Lynch được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: một nửa được dùng hai viên aspirin (600 mg) mỗi ngày trong 2 năm và nửa còn lại dùng giả dược.

Những người tham gia sau đó được theo dõi trong 10 năm, lúc này tổng số 55 người đã phát triển bệnh ung thư đại tràng. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người tham gia bị béo phì có khả năng phát triển thành bệnh ung thư gấp 2,75 lần so với người tham gia có cân nặng bình thường.

Aspirin có thể tác động lên các tế bào khối u

Tuy nhiên, trong số những người tham gia uống 02 viên aspirin mỗi ngày, các nhà nghiên cứu thấy rằng nguy cơ ung thư đại tràng là như nhau cho dù những người tham gia có bị béo phì hay không.

Mỗi đơn vị chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng lên làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết 7%. John Mathers, giáo sư của con người về dinh dưỡng tại Đại học Newcastle, nói rằng thật đáng ngạc nhiên béo phì là một trình điều khiển của ung thư ngay cả ở những người có khuynh hướng di truyền căn bệnh này.

“Thật vậy, nguy cơ béo phì liên quan đã làm tăng hai lần nguy cơ đối với những người có hội chứng Lynch cũng như đối với dân số nói chung,” ông nói thêm.

Vì thuốc aspirin xuất hiện để ngăn chặn trước những giai đoạn sớm nhất của khối u khi nó phát triển, các nhà nghiên cứu tin rằng aspirin có thể ảnh hưởng đến các tế bào dễ trở thành ung thư.

aspirin-thuoc

Thông tin nhanh về thuốc aspirin

Thuốc Aspirin được sử dụng từ rất lâu đời với tác dụng chống viêm, giảm đau và tác dụng chống cục máu đông. Ngày nay, Aspirin có trong chỉ định của nhiều trường hợp trong điều trị và phòng ngừa bệnh.

Tác dụng và cơ chế tác dụng

Thuốc Aspirin thường được sử dụng như một hình thức giảm đau nhức nhẹ, giảm sốt và kháng viêm.

Thuốc Aspirin cũng được chỉ định để ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông máu ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị đau tim và đột quỵ

Ước tính trên toàn thế giới có khoảng 40.000 tấn thuốc aspirin được tiêu thụ hàng năm.

“Chúng ta có thể nhìn thấy một cơ chế ở người, theo đó aspirin được khuyến khích hư hỏng di truyền tế bào gốc phải trải qua cái chết tế bào, “Giáo sư Burn cho thấy. “Điều này sẽ có tác động trên bệnh ung thư.”

Một khả năng khác là aspirin ức chế phản ứng viêm hay tăng trong bệnh béo phì. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy khi quá trình viêm tăng lên liên quan với một nguy cơ mắc bệnh ung thư cao.

Trong khi mọi người nên cố gắng duy trì một trọng lượng cân đối, GS Mathers cho thấy rằng thuốc aspirin có thể giúp bệnh nhân bị béo phì đang khó khăn tìm cách giảm cân.

Cân nhắc khi sử dụng aspirin

Các nhà nghiên cứu tin rằng cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn nữa để khẳng định và xác định mức độ chính xác sự bảo vệ của thuốc aspirin đối với người có chỉ số BMI cao.

GS Burn cũng cho rằng bất cứ ai trước khi bắt đầu dùng aspirin thường xuyên, họ cần phải tham khảo ý kiến ​​bác sĩ, do aspirin có thể gây ra một số tác dụng phụ cho dạ dày, như viêm, loét. Ông cho biết thêm:

“Nhưng nếu có một tiền sử gia đình có nguy cơ cao bệnh ung thư, cân nhắc giữa lợi ích và chi phí, đặc biệt là tác dụng phụ với dạ dày, chúng ta có thể sử dụng thuốc aspirin”

Các nhà nghiên cứu hiện có kế hoạch tiến hành một thử nghiệm theo dõi lớn hơn liên quan đến 3.000 người tham gia từ khắp nơi trên thế giới để kiểm tra ảnh hưởng các liều khác nhau của aspirin và xem xét với liều thấp hơn có thể đủ để bảo vệ cơ thể.

Bài viết Thuốc Aspirin có thể làm giảm nguy cơ bệnh ung thư ở những người thừa cân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/thuoc-aspirin-co-the-lam-giam-nguy-co-benh-ung-thu-o-nhung-nguoi-thua-can-7539/feed/ 0
Ăn nhiều thực phẩm giàu cholesterol – nguy cơ ung thư tăng 100 lần https://benh.vn/an-nhieu-thuc-pham-giau-cholesterol-nguy-co-ung-thu-tang-100-lan-59271/ https://benh.vn/an-nhieu-thuc-pham-giau-cholesterol-nguy-co-ung-thu-tang-100-lan-59271/#respond Sun, 24 Mar 2019 14:15:14 +0000 https://benh.vn/?p=59271 Theo nghiên cứu mới đây, chế độ ăn nhiều thực phẩm giàu cholesterol làm tăng nguy cơ mắc ung thư gấp 100 lần. Đây là vấn đề đáng lo ngại mọi người cần chú ý đặc biệt là các bạn trẻ.

Bài viết Ăn nhiều thực phẩm giàu cholesterol – nguy cơ ung thư tăng 100 lần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo nghiên cứu mới đây, chế độ ăn nhiều thực phẩm giàu cholesterol làm tăng nguy cơ mắc ung thư gấp 100 lần. Đây là vấn đề đáng lo ngại mọi người cần chú ý đặc biệt là các bạn trẻ.

Thực phẩm giàu cholesterol làm tăng nguy cơ ung thư

Nghiên cứu mới đây của Đại học California, Los Angeles (Mỹ) cho thấy, để đáp ứng với lượng cholesterol cao được tiêu thụ, các tế bào gốc trong ruột của chuột phân chia và nhân lên nhanh chóng, làm tăng diện tích mô ruột và khiến ruột dài hơn. Cơ chế này tác động mạnh mẽ đến các tế bào ung thư khiến khối u tăng trưởng nhanh gấp 100 lần so với chế độ ăn lành mạnh. Các nhà khoa học cho rằng cholesterol cao gần như một liều thuốc tử cho bệnh nhân ung thư đại tràng.

Chế độ ăn uống ngăn ngừa ung thư

Từ kết quả nghiên cứu trên, các nhà khoa học đã đưa ra lời cảnh báo về một số thực phẩm làm tăng nhanh hàm lượng cholesterol, nhất là cholesterol xấu như xúc xích, thịt mỡ, bơ, kem, phô mai, bánh ngọt, bánh quy, thực phẩm chứa dầu dừa hoặc dầu cọ…

Ngoài ra, để giảm nguy cơ ung thư bạn nên có một chế độ ăn uống lành mạnh như sau:

Tăng cường chất xơ, thực phẩm tươi

Nên ăn nhiều thực phẩm từ thực vật như hoa quả, rau, ngũ cốc, các loại hạt, đậu… Nghiên cứu chỉ ra rằng những người ăn ít hoa quả và rau xanh có nguy cơ bị ung thư gấp hai lần so với những người ăn lượng vừa phải hoa quả và rau.

Chất xơ là thành phần giúp giảm nguy cơ ung thư. Tất cả những thực phẩm giàu chất xơ giúp làm sạch hệ tiêu hóa và loại bỏ những chất gây ung thư ra khỏi đường ruột trước khi chúng kịp gây hại.

Bảo vệ chất dinh dưỡng khi chế biến

Rửa sạch rau và hoa quả để loại bỏ dư lượng thuốc trừ sâu. Ăn sống càng nhiều càng tốt, điều này sẽ giúp giữ lại nhiều chất dinh dưỡng. Luộc rau với ít nước. Tránh đun dầu quá nóng vì nó có thể biến thành chất gây ung thư.

Uống nhiều nước

Tăng cường uống nước giúp loại bỏ độc tố ra khỏi cơ thể và ngăn ngừa các tế bào ung thư nhân lên. Tránh các đồ uống có đường như cola, nước ép trái cây vì chúng làm tăng quá trình viêm và nguy cơ phát triển ung thư.

uống nước

Tránh thực phẩm chế biến sẵn

Ăn nhiều thực phẩm nguyên chất, hiệu quả bảo vệ cơ thể càng cao. Vì vậy, nên hạn chế tối đa các thực phẩm chế biến sẵn, không rõ nguồn gốc.

Giảm thịt đỏ và sữa béo nguyên chất

Những người ăn kiêng giảm 50% nguy cơ ung thư so với những người ăn nhiều thịt. Vì thịt và sữa thiếu chất xơ, chất chống oxy hóa và các dưỡng chất có đặc tính bảo vệ cơ thể và nhiều chất béo bão hòa có liên quan tới tăng nguy cơ ung thư. Nhưng không nên loại bỏ thịt hoàn toàn khỏi chế độ dinh dưỡng mà chỉ nên hạn chế. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tiêu thụ nhiều thịt chế biến sẵn có thể làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.

Ngoài ra, để phòng ngừa ung thư bạn nên đến bệnh viện thăm khám sức khỏe định kỳ thường xuyên.

Bài viết Ăn nhiều thực phẩm giàu cholesterol – nguy cơ ung thư tăng 100 lần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/an-nhieu-thuc-pham-giau-cholesterol-nguy-co-ung-thu-tang-100-lan-59271/feed/ 0
U xơ tử cung có chuyển thành ung thư được không? https://benh.vn/u-xo-tu-cung-co-chuyen-thanh-ung-thu-duoc-khong-56482/ https://benh.vn/u-xo-tu-cung-co-chuyen-thanh-ung-thu-duoc-khong-56482/#respond Fri, 01 Mar 2019 10:36:12 +0000 https://benh.vn/?p=56482 Mức độ phổ biến của u xơ tử cung khiến cho rất nhiều chị em phụ nữ lo sợ. Vậy u xơ tử cung có nguy cơ phát triển thành ung thư không, khi nào người bệnh cần phải phẫu thuật can thiệp?

Bài viết U xơ tử cung có chuyển thành ung thư được không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Mức độ phổ biến của u xơ tử cung khiến cho rất nhiều chị em phụ nữ lo sợ. Vậy u xơ tử cung có nguy cơ phát triển thành ung thư không, khi nào người bệnh cần phải phẫu thuật can thiệp?

u xơ tử cung

U xơ tử cung là gì?

U xơ tử cung là bệnh lý phụ khoa phổ biến ở mọi độ tuổi, nhất là phụ nữ trong giai đoạn sinh đẻ. Đây là hiện tượng các khối mụn thịt mọc bất thường từ cơ tử cung. Vị trí của u xơ có thể nằm dưới thanh mạc, niêm mạc, trong lớp cơ, thậm chí bên ngoài tử cung…

Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính xác dẫn đến u xơ tử cung. Tuy nhiên, vẫn có một số nhận định cho rằng sự gia tăng quá mức của estrogen, hậu quả của thừa cân… đều làm tăng nguy cơ mắc u xơ tử cung.

U xơ tử cung có thể phát triển thành ung thư không?

Trong tất cả các trường hợp, bệnh nhân u xơ tử cung cần tầm soát, siêu âm để theo dõi sự phát triển của khối u. Không nên chủ quan khi thấy khối u không gây chèn ép khó chịu mà bỏ qua tái khám định kỳ. Bởi vì u xơ tử cung vẫn có nhiều khả năng phát triển âm thầm, tăng kích thước và số lượng. Đến lúc các khối u phát triển to ra sẽ gây nguy hiểm và đe dọa tính mạng.

Về khả năng u xơ tử cung chuyển thành ung thư hầu như rất hiếm xảy ra. Vốn dĩ các u xơ được xem là khối u lành tính nên không phát triển thành u ác tính. Tuy nhiên, người bệnh không nên chủ quan mà cần điều trị sớm, kịp thời để bệnh không tái phát, tránh biến chứng.

Khi nào cần phẫu thuật u xơ tử cung?

Bệnh nhân u xơ tử cung tuyệt đối không được tự ý điều trị khi chưa có chẩn đoán và chỉ định của bác sĩ. Dựa trên tình trạng khối u mà bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Nếu u xơ tử cung ở thể nhẹ, bệnh được phát hiện sớm thì chỉ cần uống thuốc.

Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp cần phải phẫu thuật. Nguyên nhân là vì:

  • U xơ làm khó có thai, chèn ép thai dễ gây sảy thai
  • Gây rong kinh, băng huyết
  • Khi các khối u phát triển lớn, chèn ép các cơ quan xung quanh như bàng quang (gây tiểu rắt), đại tràng (gây táo bón hoặc tiêu chảy) mà uống thuốc không có hiệu quả

Lúc này, bác sĩ sẽ tiến hành phẫu thuật nhằm can thiệp trực tiếp vào các u xơ, giảm thiểu các triệu chứng của bệnh và ngăn không cho u xơ tử cung tái phát.

Bệnh nhân mắc u xơ tử cung cần thăm khám để can thiệp kịp thời bằng phẫu thuật

Phương pháp phẫu thuật

Phẫu thuật u xơ tử cung sẽ dựa trên kích thước, vị trí và tình trạng bệnh. Hiện nay, bệnh được can thiệp thông qua nút mạch hoặc phẫu thuật. Nút mạch là phương pháp chặn các động mạch nuôi u xơ và chỉ thực hiện với phụ nữ đã sinh đẻ. Phương pháp phẫu thuật phổ biến là mổ mở, mổ nội soi và nội soi bằng robot.

  • Mổ mở: bác sĩ sau khi gây mê sẽ rạch từ thành bụng để tiếp cận khối u xơ. Các khối u được bóc tách, sau đó khâu vết thương. Phẫu thuật mổ hở gây đau, mất máu, hồi phục chậm.
  • Mổ nội soi: với các khối u dưới phúc mạc hoặc trong cơ tử cung, kích thước phù hợp sẽ được mổ nội soi. Bệnh nhân được gây mê toàn thân, sau đó đưa đèn soi và dụng cụ phẫu thuật vào tử cung. Khi đã xong, bác sĩ đóng vết mổ và sát trùng. Phẫu thuật nội soi giúp khắc phục những nhược điểm của mổ mở như: tính thẩm mỹ cao, ít chảy máu và xâm lấn, hạn chế biến chứng, hồi phục nhanh.
  • Phẫu thuật nội soi bằng robot được xem là phương pháp hiện đại và ưu việt nhất hiện nay. Phẫu thuật nội soi bằng robot có tính chính xác cao, dễ dàng kiểm soát. Đường rạch nhỏ chỉ 1 – 2 cm giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng, tính thẩm mỹ cao, ít đau, hồi phục nhanh.

Trong một số trường hợp nặng, bệnh nhân phải cắt bỏ toàn bộ tử cung để ngăn chặn biến chứng.

Benh.vn (Theo BV Vinmec)

Bài viết U xơ tử cung có chuyển thành ung thư được không? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/u-xo-tu-cung-co-chuyen-thanh-ung-thu-duoc-khong-56482/feed/ 0
Báo động tình trạng bệnh nhân ung thư ngày càng trẻ hóa https://benh.vn/bao-dong-tinh-trang-benh-nhan-ung-thu-ngay-cang-tre-hoa-8231/ https://benh.vn/bao-dong-tinh-trang-benh-nhan-ung-thu-ngay-cang-tre-hoa-8231/#respond Fri, 18 Jan 2019 00:44:52 +0000 http://benh2.vn/bao-dong-tinh-trang-benh-nhan-ung-thu-ngay-cang-tre-hoa-8231/ Xã hội phát triển, cuộc sống của con người được nâng cao nhưng có một thực tế là tỷ lệ bệnh nhân ung thư, đặc biệt là ung thư buồng trứng, tinh hoàn, ung thư dạ dày… ngày càng trẻ hóa dần. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên?

Bài viết Báo động tình trạng bệnh nhân ung thư ngày càng trẻ hóa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Xã hội phát triển, cuộc sống của con người được nâng cao nhưng có một thực tế là tỷ lệ bệnh nhân ung thư, đặc biệt là ung thư buồng trứng, tinh hoàn, ung thư dạ dày… ngày càng trẻ hóa dần. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên?

Số liệu thống kê của WHO và Việt Nam

Ung thư là một nhóm các bệnh liên quan đến việc phân chia tế bào một cách vô tổ chức và những tế bào đó có khả năng xâm lấn những mô khác bằng cách phát triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến nơi xa (di căn). Hiện, trên thế giới có khoảng 200 loại ung thư.

Hàng năm, căn bệnh ung thư đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên trái đất

Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), hàng năm trên toàn thế giới có từ 9 đến 10 triệu bệnh nhân mới mắc ung thư và một nửa trong số đó chết vì căn bệnh này. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư còn phải gánh chịu những hệ lụy tài chính nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong lên đến 55% trong vòng một năm sau khi được chẩn đoán.

Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu phòng chống ung thư Việt Nam, trong 15 năm qua hầu hết các loại ung thư tại Việt Nam đều gia tăng, trong đó ung thư ở nam giới tăng nhanh nhất là phổi, dạ dày, đại trực tràng, thực quản; ở nữ tăng nhanh nhất là ung thư vú, đại trực tràng, dạ dày, tuyến giáp, cổ tử cung. Theo dự đoán đến năm 2020, số mắc ung thư sẽ gần 200.000 ca.

Bệnh nhân ung thư đang trẻ hóa dần

Bé N.T. M. 11 tuổi người Nghệ An bị ung thư buồng trứng. Bố của bé M cho biết thấy con thường xuyên đau bụng nên cha mẹ tưởng bé có giun nên mua thuốc giun về tẩy. Tuy nhiên khi bụng đau nhiều, bé cứ ôm bụng kêu đau kèm đi tiểu nhiều lần nên bố mẹ đã cho con vào bệnh viện tỉnh Nghệ An khám.

Bệnh nhân ung thư đang trẻ hóa dần

Sau khi làm các xét nghiệm, siêu âm ổ bụng, bác sĩ phát hiện buồng trứng bất thường nên làm thêm các xét nghiệm lâm sàng khác. Kết quả, bé M. bị chẩn đoán ung thư buồng trứng giai đoạn 2B.

Không chỉ vậy, theo ghi nhận tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, đã có ca trẻ em mới 9 tuổi đã bị ung thư dạ dày, hy hữu có trẻ 2 tuổi đã bị ung thư tinh hoàn…

Giải đáp của chuyên gia về nguyên nhân khiến ung thư ngày càng trẻ hóa

Bác sĩ Phạm Định Tuấn – Trung tâm y tế Lao động Thái Hà cho biết, ung thư buồng trứng thường xảy ra ở phụ nữ nhiều tuổi, bởi vậy trường hợp của bé M là cực kỳ hiếm. Ngoài ra, có trường hợp bệnh nhi mới 2 tuổi đã bị ung thư tinh hoàn cho thấy sự trẻ hoá của căn bệnh ung thư đang gia tăng, đặc biệt những căn bệnh được coi là “của người lớn” đang “hỏi thăm” cả ở trẻ nhỏ.

Giải đáp về nguyên nhân trên, các chuyên gia cảnh báo do ảnh hưởng từ môi trường sống, từ thực phẩm bẩn và có tác nhân của khói thuốc lá. Nếu bệnh nhân hút thuốc lá thụ động (ngửi phải không khí có khói thuốc) trong cơ thể vốn có gen nhạy cảm với các chất từ khói thuốc gây ra sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ.

Cùng quan điểm trên, GS. Nguyễn Bá Đức, Nguyên Giám đốc Bệnh viện K trung ương cho biết bệnh nhân ung thư không chỉ tăng mà có xu hướng trẻ hóa. Trước đây, trừ một số ung thư ở trẻ em như ung thư hạch, ung thư máu thì đa phần các loại ung thư thường đến ở người lớn tuổi, từ 60-70 tuổi. Nhưng hiện nay các bệnh viện chuyên khoa ung bướu đã tiếp nhận nhiều bệnh nhân trẻ tuổi.

Qua đó, Giáo sư Đức khuyến cáo người dân nên biết lắng nghe cơ thể mình và cần có thói quen đi khám sàng lọc sớm hàng năm để có phát hiện sớm và điều trị. Nhất là đối với những người có nguy cơ cao như có yêu tố di truyền; nam thường hút thuốc lá nên khám sàng lọc ung thư phổi, vòm họng, thực quản, đại trực tràng; nếu ợ chua, khó tiêu, rối loạn tiêu hóa thì nên sàng lọc ung thư đường tiêu hóa; với nữ sinh con nhiều, sinh sớm hoặc có nhiều bạn tình thì nên sàng lọc ung thư cổ tử cung…

Ngoài ra, có một số dấu hiệu báo động của ung thư như: người bệnh có vết loét lâu liền; ho dai dẳng, tức ngực, điều trị không đỡ; chậm tiêu, khó nuốt; có khối u ở vú hay ở trên cơ thể; hạch to lên bất bình thường; chảy máu, dịch ra bất thường ở âm đạo; gầy sút, thiếu máu không rõ nguyên nhân… cần đến bệnh viện kiểm tra ngay.

Tổng hợp

Bài viết Báo động tình trạng bệnh nhân ung thư ngày càng trẻ hóa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/bao-dong-tinh-trang-benh-nhan-ung-thu-ngay-cang-tre-hoa-8231/feed/ 0
Các nguyên nhân gây ung thư https://benh.vn/cac-nguyen-nhan-gay-ung-thu-2438/ https://benh.vn/cac-nguyen-nhan-gay-ung-thu-2438/#respond Wed, 10 Oct 2018 04:14:03 +0000 http://benh2.vn/cac-nguyen-nhan-gay-ung-thu-2438/ Hiện nay tỷ lệ mắc bệnh ung thư dự báo ngày càng tăng và kết quả chữa khỏi bệnh vẫn còn hạn chế do đa số phát hiện giai đoạn muộn. Một số ung thư ngay cả giai đoạn sớm cũng không thể chữa khỏi. Vì vậy, cách lý tưởng nhất là phải biết cách dự phòng ung thư.

Bài viết Các nguyên nhân gây ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hiện nay tỷ lệ mắc bệnh ung thư dự báo ngày càng tăng và kết quả chữa khỏi bệnh vẫn còn hạn chế do đa số phát hiện giai đoạn muộn. Một số ung thư ngay cả giai đoạn sớm cũng không thể chữa khỏi. Vì vậy, cách lý tưởng nhất là biết cách dự phòng ung thư.

tế bào ung thư

Hình ảnh tế bào ung thư

Nguyên nhân sinh ung thư rất đa dạng, ngoài một số tác nhân đã được biết rõ gây ung thư như thuốc lá, amiang…vẫn còn nhiều nguyên nhân gây ung thư đang được nghiên cứu.

Nghiên cứu nguyên nhân ung thư không chỉ dựa trên sự hiểu biết các quá trình sinh học liên quan đến bệnh tật mà còn dựa vào bằng chứng dịch tễ học mô tả và phân tích bao gồm sự giải thích những khác biệt quan sát được về tần suất của một số loại ung thư theo giới tính, tuổi tác, hoàn cảnh kinh tế xã hội và địa lý.

Nguyên nhân sinh ung thư gồm 2 nhóm chính là các yếu tố môi trường và tác nhân di truyền.

Các yếu tố môi trường

Vai trò của các yếu tố sinh ung thư người có trong môi trường đã được biết đến cách đây hơn 200 năm nhờ các phát hiện của một bác sĩ người Anh tên là Percival Pott về sự gia tăng ung thư da bìu những người thợ nạo ống khói vào những năm 1775. Kể từ đó, các bằng chứng về yếu tố môi trường gây ung thư được ghi nhận ngày càng nhiều.

1. Tác nhân vật lý

Chủ yếu là bức xạ ion hóa và tia cực tím.

1.1. Bức xạ ion hóa

Nguồn tiếp xúc tia phóng xạ tự nhiên chủ yếu từ các các tia vũ trụ, đất hoặc các vật liệu xây dựng. Nguồn tiếp xúc phóng xạ nhân tạo chủ yếu là trong chẩn đoán Y khoa. Tỷ lệ tất cả ung thư do tia phóng xạ rất thấp (khoảng 2% – 3%).

Các bằng chứng dịch tễ học:

  • Các nhà X quang đầu tiên đã không tự che chắn nên thường bị ung thư da và bệnh bạch cầu.
  • Ung thư tuyến giáp gia tăng rõ những người điều trị tia xạ vào vùng cổ lúc còn trẻ.
  • Ngày nay người ta thấy rằng bệnh phổi các thợ mỏ vùng Joachimstal (Tiệp Khắc) và Schneeberg (Đức) quan sát được từ thế kỷ 16, chính là ung thư phổi do sự hiện diện của quặng đen có tính phóng xạ trong các mỏ.
  • Nguy cơ ung thư phổi tăng cao trong các nghiên cứu về thợ mỏ Uranium và thợ mỏ đá cứng dưới lòng đất phải tiếp xúc với khí radon vì lý do nghề nghiệp.
  • Nghiên cứu những người sống sót trong vụ nổ bom nguyên tử Hiroshima và Nagasaki Nhật Bản năm 1945 đã cho thấy tăng nguy cơ nhiều loại ung thư đặc biệt ung thư máu thể tủy cấp.
  • 10 năm sau sự cố rò rỉ tia phóng xạ Chernobyl 1986, người ta nhận thấy tỷ lệ ung thư gia tăng mạnh, trong đó đặc biệt trẻ em bị ung thư tuyến giáp tăng gấp 10 lần.

Quá trình phóng xạ đã bắn ra các hạt làm ion hóa các thành phần hữu cơ của tế bào tạo ra các gốc tự do. Chính các gốc tự do này tác động lên các base của ADN làm rối loạn các gen tế bào tạo ra các biến dị và đột biến gây ung thư, quái thai và dị tật.

Tác động của tia phóng xạ gây ung thư người phụ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng:

  • Tuổi tiếp xúc càng nhỏ càng nguy hiểm nhất là bào thai và trẻ nhỏ.
  • Mối liên hệ liều đáp ứng: phơi nhiễm càng cao và càng kéo dài thì nguy cơ càng tăng.
  • Cơ quan bị chiếu xạ: các cơ quan như tuyến giáp, tủy xương rất nhạy cảm với tia xạ.

1.2. Bức xạ cực tím

Tia cực tím có trong ánh sáng mặt trời gồm 3 loại A, B và C gây bỏng da, ung thư da, loét giác mạc và đục thủy tinh thể. Càng gần xích đạo tia cực tím càng mạnh. Tia C gây đột biến mạnh nhất nhưng được lọc bởi tầng ozon. Tia B kích thích các tế bào da tạo ra sắc tố melanin làm rám nắng và đỏ da và tác động trực tiếp lên ADN làm lớp da lão hóa sớm và tế bào bị biến đổi thành ung thư. Tia A do bước sóng dài nên ít gây ung thư da hơn.

Các bằng chứng dịch tễ học cho thấy những người làm việc ngoài trời thường có tỷ lệ ung thư tế bào đáy và tế bào vảy của da khu trú vùng đầu, cổ cao hơn những người làm việc trong nhà. Đối với những người da trắng sống ở vùng nhiệt đới tỷ lệ ung thư hắc tố cao hơn hẳn người da màu.

Cần phải lưu ý trào lưu tắm nắng thái quá của người da trắng gây bỏng nắng và tăng nguy cơ ung thư da. Hiện nay tầng ozon ngày càng mỏng đi do ngày càng có nhiều chất thải độc hại từ mặt đất, sự phun của núi lửa làm hủy hoại tầng ozon đã làm tăng cả về cường độ lẫn biên độ tiếp xúc với tia cực tím. Kết quả dự báo sẽ gia tăng tần suất mới mắc của ung thư da cũng như một số bệnh khác trong tương lai.

2. Tác nhân hóa học

2.1. Thuốc lá

Vai trò của thuốc lá gây ung thư đã được chứng minh rõ ràng bằng:

  • Các nghiên cứu dịch tễ học
  • Nghiên cứu các thành phần của thuốc lá
  • Phát hiện các tổn thương di truyền đặc thù ở các tế bào ung thư và tế bào bình thường người hút thuốc lá
  • Hiểu biết về sự chuyển hóa của các amine có trong thuốc lá.

Các nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rằng những người hút thuốc lá có nguy cơ mắc các ung thư phổi, thanh quản, khoang miệng, thực quản và bàng quang. Những ung thư này ít gặp ở những người không hút thuốc lá. Quan sát cũng nhận thấy một số ung thư khác cũng đang gia tăng ở những người hút thuốc lá: ung thư tụy, thận, mũi họng, dạ dày và ung thư máu.

hút thuốc lá

Vai trò của thuốc lá gây ung thư đã được chứng minh rõ ràng

Thành phần của khói thuốc lá: Có trên 4000 hóa chất có trong khói thuốc lá trong đó 43 chất gây ung thư đã được nhận biết. Các chất này chủ yếu là:

  • Các hydrocarbon thơm đa vòng: được tạo ra đốt cháy thuốc lá không hoàn toàn hay trong các khói và bụi công nghiệp
  • Nitrosamine: là chất gây ung thư mạnh nhất ở động vật thí nghiệm và có vai trò chủ yếu trong ung thư phổi, thực quản, tụy, miệng khi hút thuốc.
  • Hydrocarbon dị vòng: có trong nhựa thuốc lá là những chất gây biến dị mạnh và sinh ung thư ở nhiều cơ quan khác nhau như gan, phổi…
  • Benzene
  • Polonium-210 có hoạt tính phóng xạ

Trình bày đầu tiên về mối liên quan giữa hút thuốc và tăng tỷ lệ ung thư phổi được biết đến từ một nghiên cứu ca-đối chứng ở Đức năm 1939. Từ đó người ta đã thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu ca – đối chứng cho thấy ung thư phổi tăng gấp 10 lần những người hút thuốc so với những người không hút thuốc.

Về sau nhờ vào các thống kê của Doll ở Anh người ta mới khẳng định thuốc lá là nguyên nhân của khoảng 90% ung thư phế quản. Tính chung thuốc lá gây ra khoảng 30% các loại ung thư chủ yếu là ung thư phế quản và một số ung thư vùng mũi họng, ung thư đường tiết niệu. Ngoài chất Nicotin, trong khói thuốc lá chứa rất nhiều chất Hydrocarbon thơm, trong đó chất 3-4 Benzopyren là chất gây ung thư trên thực nghiệm.

Những bằng chứng gần đây cho thấy nguy cơ ung thư phổi gia tăng ở những người không hút thuốc nhưng họ thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc thải ra từ người hút thuốc (ví dụ khói thuốc của những người hút thuốc trong nhà).

2.2. Chế độ ăn uống và các chất gây ô nhiễm thực phẩm

Người ta nhận thấy có sự khác nhau giữa tỷ lệ ung thư đường tiêu hóa theo vùng địa lý và theo thói quen ăn uống.

Những thay đổi nhanh chóng về tỷ lệ ung thư dạ dày (giảm) và tỷ lệ ung thư đại tràng (tăng) ở thế hệ người Nhật đầu tiên di cư sang Mỹ là bằng chứng rõ ràng rằng những thay đổi môi trường và chế độ ăn uống làm thay đổi nguy cơ của các loại ung thư này.

Lạm dụng rượu gây ung thư: Lạm dụng rượu là nguyên nhân làm tổn hại sức khoẻ của nhân loại. Hằng năm người ta nhận thấy khoảng 15-30% số bệnh nhân nhập viện là do tác hại của rượu. Uống rượu nhiều làm tăng tỷ lệ ung thư cao chỉ sau thuốc lá. Nghiện rượu liên quan đến các ung thư vùng miệng, họng, thanh quản, thực quản và gan.

Chất béo và thịt: Các nghiên cứu cho thấy với chế độ ăn uống giàu chất béo động vật làm tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư đại trực tràng. Ở các nước phát triển, nơi tiêu thụ nhiều thịt người ta thấy tỷ lệ ung thư đại tràng cao có ý nghĩa. Ngược lại, chế độ ăn nhiều trái cây và rau xanh, quả chín và nhiều sợi thực vật làm giảm tỷ lệ ung thư đại trực tràng. Tỷ lệ một số loại ung thư khác như ung thư hạ họng thanh quản, thực quản, phổi và vú cũng giảm nhẹ. Những chất gây ô nhiễm và chất phụ gia trong thực phẩm: Thịt cá hun khói và ướp muối, các loại mắm và dưa muối có rất nhiều muối Nitrat và Nitrit. Nitrat, Nitrit và Nitrosamin làm tăng nguy cơ ung thư thực quản và dạ dày. Nitrosamin là chất gây ung thư khá mạnh trên thực nghiệm.

Thực phẩm mốc gây ung thư: Gạo, lạc là hai loại thực phẩm dể bị mốc. Nấm mốc Aspergillus flavus thường có ở gạo, lạc mốc tiết ra độc tố aflatoxin, chất này gây ra ung thư tế bào gan nguyên phát. Sự đột biến gen P53 được tìm thấy trong 53% các trường hợp ung thư tế bào gan nguyên phát ở các khu vực có độc tố aflatoxin trong thực phẩm.

Các thực phẩm bị ô nhiễm do thuốc trừ sâu có thể gây cơn bùng phát ngộ độc cấp tính. Tuy nhiên ngày nay người ta chưa xác định được mối liên hệ giữa hiện tượng này với các bệnh ung thư.

2.3. Ung thư liên quan đến nghề nghiệp

Theo các nghiên cứu ở Pháp, phơi nhiễm nghề nghiệp có thể gây ra khoảng 3% tử vong do ung thư.

Các nghiên cứu ở Mỹ những năm gần đây có tỷ lệ ung thư cao hơn do phơi nhiễm với các chất như amian, arsen, nickel, chrome, benzene và các sản phẩm của công nghiệp hóa dầu. Tuy nhiên phơi nhiễm nghề nghiệp là khó đánh giá do có sự phối hợp với các yếu tố khác như thuốc lá và rượu.

Tác nhân sinh ung quan trọng nhất trong việc gây bệnh ung thư nghề nghiệp chủ yếu là các hóa chất và ít gặp hơn là các tác nhân khác như vi rút, bức xạ ion hóa. Việc đánh giá ung thư nghề nghiệp trong dân số chỉ mang tính chất tương đối. Một công trình nghiên cứu ở Mỹ cho thấy rằng 4% ung thư có liên quan đến nghề nghiệp. Một số đánh giá của các quốc gia công nghiệp hóa khác thấy tỷ lệ này thay đổi từ 2-8%… Các nước đang phát triển và các nước mới công nghiệp hóa tỷ lệ ung thư do nghề nghiệp chưa được đánh giá một cách rõ ràng. Các ung thư nghề nghiệp thường xảy ra ở các hệ cơ quan tiếp xúc trực tiếp với các nhân sinh ung thư hay với các chất chuyển hóa còn hoạt tính của các tác nhân này.

– Ung thư nghề nghiệp thường hay gặp nhất ngày nay là ung thư đường hô hấp. Người ta đã xác định một số hóa chất hay hỗn hợp hóa chất trong môi trường nghề nghiệp có liên quan nhân quả với bệnh ung thư  phổi. Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế IARC đã đánh giá 10 hóa chất hay hổn hợp khác như là khói thải của động cơ Diesel, beryllium và các hỗn hợp của nó, tinh thể silica, cadmium và các hợp chất của nó có khả năng sinh ung thư người. Amian có lẽ là chất quan trọng nhất gây ung thư phổi do nghề nghiệp. Hít bụi (amian) sẽ gây xơ hóa phổi lan tỏa (asbertosis). Các nghiên cứu từ nhiều nơi trên thế giới cho thấy số công nhân chết do nhiễm asbestos (asbertosis) thì tỷ lệ ung thư phổi hiện diện từ 20-50% trường hợp trong đó bướu trung mô màng phổi chiếm tỷ lệ cao (thậm chí thời gian tiếp xúc không dài).

– Ung thư bàng quang cũng là một trong các ung thư nghề nghiệp thường gặp nhất. Bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX. Công nghiệp nhuộm azo đã phát triển nhanh chóng. Vào cuối thế kỷ này những trường hợp ung thư bàng quang đầu tiên đã được phát hiện ở các thợ thường tiếp xúc với chất Anilin. Chất Anilin tự nó không sinh ra ung thư ở người và động vật nhưng Anilin có chứa nhiều tạp chất 4-amindiphenyl có tính sinh ung thư. Các chất chính gây ra ung thư bàng quang trong kỹ nghệ sản xuất anilin là Benzidine, 2 naphthylamine và 4-aminodiphenyl.

– Hít thở Benzen có thể làm ức chế tủy xương và gây ra chứng thiếu máu bất sản, nếu tiếp xúc Benzen với mức độ cao sẽ gây ra bệnh ung thư bạch cầu tủy cấp. Ngoài ra nó có thể gây ra bệnh đa u tủy xương và u lympho ác tính. Sarcoma phần mềm hay gặp ở công nhân tiếp xúc với chất diệt cỏ có gốc phenoxy; ung thư thanh quản gặp các công nhân tiếp xúc với hơi acid vô cơ mạnh và ung thư các xoang cạnh mũi gặp ở công nhân tiếp xúc với formaldehyd.

2.4. Hóa trị liệu

Điều trị hóa chất chống ung thư có thể gây ra tổn thương ADN và sinh ung thư. Ngày nay nhờ phát hiện sớm ung thư và sử dụng nhiều phương pháp điều trị hiệu quả nên thời gian sống thêm kéo dài hơn. Một số ung thư điều trị khỏi nhờ phát hiện ở giai đoạn chưa xâm lấn. Vì vậy vai trò sinh ung thư do hóa chất cần phải được cân nhắc và có biện pháp sàng lọc ở những đối tượng này.

Nguy cơ gây ung thư do thuốc gia tăng phụ thuộc vào các yếu tố:

  • Tuổi sử dụng: tuổi càng trẻ càng tăng nguy cơ.
  • Thời gian tiềm tàng giữa sữ dụng thuốc và phát triển ung thư trung bình từ 5 đến 10 năm ngắn hơn so với 40 đến 50 năm trong phơi nhiễm hóa chất công nghiệp.
  • Có sự hiện diện của các yếu tố cùng sinh ung thư như thuốc lá và phơi nhiễm phóng xạ

Thuốc gây ung thư nhiều nhất là các thuốc chống ung thư vì các loại thuốc này đã được chứng minh gây ung thư thực nghiệm và các loại ung thư chủ yếu là ung thư máu và các loại u lymphô ác.

Ung thư máu thể tủy cấp là biến chứng hiếm của các thuốc nhóm alkyl. Suy giảm miễn dịch do hóa trị, thuốc ức chế miễn dịch, AIDS làm tăng nguy cơ mắc u lymphô ác do nhiễm EBV.

Ngày nay, có nhiều thuốc chống ung thư hiện đại có hiệu quả nên thời gian sống thêm của bệnh nhân ung thư kéo dài hơn và nhiều loại ung thư có thể chữa khỏi do được phát hiện sớm và sử dụng hóa trị đa phương thức nên vai trò sinh ung thư do thuốc ngày càng được chú ý để có các biện pháp sàng lọc và phát hiện sớm các ung thư thứ hai nay.

3. Các tác nhân sinh học

Các tác nhân sinh học ung thư chủ yếu là virus và một số trường hợp có vai trò của ký sinh trùng và vi khuẩn.

3.1. Virus

Các oncogen đầu tiên được phát hiện ở virus. Sau đó người ta phát hiện virus tích hợp vào ADN của tế bào vật chủ bình thường và điều hòa sự tăng sinh tế bào mầm. Các virus sinh ung thư này gây nên ung thư bằng cách hoạt hóa gen bình thường đó bên trong tế bào chủ.

Có 4 loại virus sinh ung thư ở người đã được mô tả.

– Virus Epstein – Barr (EBV):

  • Loại virus này được Epstein và Barr phân lập đầu tiên ở bệnh nhân ung thư hàm dưới của trẻ em vùng Uganda, về sau người ta còn phân lập được loại virus này trong ung thư vòm mũi họng, bệnh gặp nhiều ở các nước ven Thái Bình Dương đặc biệt là Quảng Đông, Trung Quốc và một số nước Đông Á trong đó có Việt Nam.
  • Virus Epstein-Barr thuộc họ Herpes được cho có vai trò bệnh sinh của 4 loại UT:
    • U lymphô Burkitt.
    • Các u lymphô tế bào B ở những người suy giảm miễn dịch
    • Một số trường hợp bệnh Hodgkin
    • Ung thư biểu mô vòm họng.

– Ung thư gan và viêm gan siêu vi:

  • Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy viêm gan siêu vi B (HBV) có mối liên hệ với ung thư gan nguyên phát (HCC)

Có 80% trường hợp liên quan đến nhiễm virus viêm gan siêu vi B. virus này xâm nhập vào có thể gây viêm gan cấp, kể cả nhiều trường hợp thoáng qua. Tiếp theo là thời kỳ viêm gan mãn không có triệu chứng. Tổn thương này sẽ dẫn đến xơ gan toàn bộ và ung thư tế bào gan. Ngoài ra xơ gan đã làm cho tiên lượng của bệnh ung thư gan xấu đi rất nhiều.

  • Viêm gan siêu vi C (HCV)

Người ta đã ghi nhận rằng tần suất ung thư gan nguyên phát gia tăng gần đây trong một phần của người dân Nhật là do có sự nhiễm virus viêm gan C một cách thường xuyên. Viêm gan do virus viêm gan A không liên hệ với HCC.

– Virus gây u nhú

Thường truyền qua đường sinh dục. Loại này được coi là có liên quan đến các ung thư vùng âm hộ, âm đạo và cổ tử cung, các nghiên cứu đang còn tiếp tục.

– Virus gây bệnh bạch cầu tế bào (T)

Loại virus đảo ngược (Retrovirus) ở người được phát hiện vào năm 1980, loại này có liên quan đặc biệt với bệnh bạch cầu tế bào (T), chủ yếu gặp ở Nhật Bản và trong vùng Caribê.

3.2. Ký sinh trùng và vi trùng

Mối tương quan giữa ký sinh trùng và bệnh ung thư được biết nhiều nhất là tình trạng nhiễm Schistosoma với ung thư bàng quang và giữa nhiễm sán lá với ung thư ống mật. Người ta tìm thấy nhiều nhất ở Ai Cập, Irắc, Xuđăng và Zimbabuê.

Helicobacter Pylori: là một vi trùng nhiễm chọn lọc vào niêm mạc dạ dày. Nó liên quan đến viêm dạ dày, loét dạ dày tá tràng và trong một số nghiên cứu có liên quan đến ung thư dạ dày. Bản chất của sự liên quan giữa nhiễm Helicobacter pylori và ung thư dạ dày đang được nghiên cứu tích cực, nhằm hạ thấp tỉ lệ nhiễm H.Pylori và do đó làm giảm tỷ lệ ung thư dạ dày.

Helicobacter pylori

Helicobacter pylori có liên quan đến ung thư dạ dày

Các nguyên nhân bên trong

1. Yếu tố di truyền

Từ khoảng 15 năm trở lại đây nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu sinh học phân tử người ta đã biết được sự liên hệ chặt chẽ giữa các biến đổi vật liệu di truyền và sự xuất hiện một số bệnh ung thư.

80 – 90% người sẽ bị ung thư do họ mang gen gây hại U wilms, ung thư nguyên bào võng mạc 2 mắt và những bệnh nhân đa polip có tính chất gia đình là thí dụ về các loại ung thư truyền theo tính trội theo mô hình của Mendel. Ung thư tuyến giáp thể tủy (loại ung thư tuyến giáp có tiết ra Thyrocalcitonine) cũng mang tính chất di truyền rõ rệt.

Những năm trở lại đây nhờ những nghiên cứu về gen, người ta đã phân lập được các gen sinh ung thư (oncogen) và tiền gen sinh ung thư (proto-oncogen). Dưới tác động của một vài tác nhân nào đó tiền gen sinh ung thư hoạt hóa và biến thành gen sinh ung thư. Từ đó gen sinh ung thư mã hóa để sản xuất các protein và men liên quan đến quá trình phân chia và biệt hóa tế bào theo xu hướng ác tính, ví dụ trong bệnh ung thư bạch cầu mạn thể tủy, 90% tế bào mầm tạo huyết có sự chuyển đoạn 9/22.

Một lọai gen quan trọng khác và các gen ức chế ung thư (Anti-oncogen). Khi cơ thể vắng mặt các gen này, nguy cơ mắc ung thư sẽ tăng cao. Một số gen ức chế sinh ung thư quan trọng là gen P53 của bệnh ung thư liên bào võng mạc mắt, gen WT1 trong bệnh u wilms, gen NF1 trong bệnh đa u xơ thần kinh của Recklinghausen.

2. Suy giảm miễn dịch và AIDS

Trên động vật thực nghiệm sự suy giảm miễn dịch làm gia tăng nguy cơ bị ung thư. Người bị suy giảm miễn dịch mang tính di truyền hay mắc phải thường dể bị ung thư và thời gian ủ bệnh ngắn hơn.

Ở những bệnh nhân ghép cơ quan, sự suy giảm miễn dịch do thuốc là rõ nhất. Theo dõi một thời gian dài 16.000 bệnh nhân ghép thận và được điều trị bằng các loại thuốc ức chế miễn dịch người ta thấy nguy cơ mắc bệnh u Lympho ác không Hodgkin tăng 32 lần, ung thư gan và đường mật trong gan tăng 30 lần, ung thư phổi tăng 2 lần, ung thư bàng quang tăng 5 lần, ung thư cổ tử cung gần 5 lần, các melanoma ác tính và ung thư tuyến giáp tăng lên 4 lần. Sự ức chế miễn dịch cũng còn làm tăng nguy cơ nhiễm siêu vi, cả hai loại virus gây ung thư và những loại bị nghi ngờ.

Người có HIV dương tính có nguy cơ cao mắc Sarcome Kaposi và u Lympho ác không Hodgkin. Sarcome Kaposi có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau khi bị nhiễm HIV, trái lại u Lympho ác không Hodgkin có khuynh hướng xuất hiện cơ địa suy giảm miễn dịch trầm trọng. Ở người bị nhiễm HIV, nguy cơ này gia tăng khoảng 6% mỗi năm trong vòng 9-10 năm.

3. Rối loại nội tiết

Người ta nhận thấy rõ ràng sự liên quan khá đặc hiệu của một số loại ung thư với tình trạng rối loạn nội tiết nhưng cho đến nay chưa có bằng chứng khẳng định rối loạn nội tiết gây ra ung thư. Một số nhóm nội tiết làm tăng nguy cơ ung thư sau khi sử dụng chúng. Thuốc Diethylstilbestrol (DES) đã được từng sử dụng rộng rãi vào đầu thai kỳ để làm giảm buồn nôn và phòng ngừa sẩy thai có thể gây ung thư âm đạo ở con gái của bệnh nhân được điều trị và làm tăng nguy cơ ung thư tinh hoàn của các con trai của họ.

Điều trị thay thế estrogen để làm giảm các triệu chứng mãn kinh, để giảm nguy cơ bệnh tim do mạch vành bằng cách làm tăng Lipoprotein cholesterol tỉ trọng cao và để bảo tồn nồng độ muối khoáng trong xương ngừa chứng loãng xương. Liệu pháp này làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Tình trạng giảm nội tiết sinh dục nam sinh nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và loại ung thư này đáp ứng khá tốt khi điều trị nội tiết. Sự sử dụng thuốc ngừa thai uống có gây ung thư vú hay không vẫn còn đang được bàn cãi, mặc dù có vẻ nguy cơ ung thư vú tăng cao ở phụ nữ sớm sử dụng thuốc ngừa thai đường uống. Trái lại Tamoxifen là thuốc tổng hợp kháng estrogen ảnh hưởng đến các thụ thể estradiol làm giảm nguy cơ tái phát và di căn ung thư vú. Sử dụng tamoxifen để dự phòng ung thư vú đang được thực hiện ở Âu-Mỹ và đang có nhiều khả quan.

Kết luận

Mục tiêu quan trọng của việc nghiên cứu nguyên nhân của ung thư là cung cấp thông tin nhằm hướng đến việc dự phòng ung thư. Xác định được vai trò của một số yếu tố sinh ung thư thường gặp như thuốc lá, các phụ gia trong thực phẩm, các virus sinh ung thư là rất quan trọng, từ đó đề ra các phương pháp phòng bệnh tích cực như phong trào phòng chống hút thuốc lá, các chương trình tiêm chủng mở rộng phòng viêm gan B, nhằm hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh.

Benh.vn

Bài viết Các nguyên nhân gây ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-nguyen-nhan-gay-ung-thu-2438/feed/ 0
Phát hiện mới: 40% Bệnh nhân ung thư liên quan đến thừa cân, béo phì https://benh.vn/phat-hien-moi-40-benh-nhan-ung-thu-lien-quan-den-thua-can-beo-phi-10077/ https://benh.vn/phat-hien-moi-40-benh-nhan-ung-thu-lien-quan-den-thua-can-beo-phi-10077/#respond Tue, 04 Sep 2018 07:28:25 +0000 http://benh2.vn/phat-hien-moi-40-benh-nhan-ung-thu-lien-quan-den-thua-can-beo-phi-10077/ Đa số những người thừa cân, béo phì thờ ơ với thân hình quá khổ của mình. Tuy nhiên, không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ, béo phì còn là nguyên nhân chính gây ra 40% các loại bệnh ung thư, bao gồm 13 bệnh ung thư nguy hiểm.

Bài viết Phát hiện mới: 40% Bệnh nhân ung thư liên quan đến thừa cân, béo phì đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Đa số những người thừa cân, béo phì thờ ơ với thân hình quá khổ của mình. Tuy nhiên, không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ, béo phì còn là nguyên nhân chính gây ra 40% các loại bệnh ung thư, bao gồm 13 bệnh ung thư nguy hiểm.

Thừa cân, béo phì là yếu tố nguy cơ gây ung thư (ảnh minh họa)

Thực trạng

Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện có khoảng 1,9 tỉ người trưởng thành trên toàn cầu đang bị béo phì hoặc thừa cân. Cứ 10 người trưởng thành thì có 4 trường hợp thừa cân, và trong 10 người trưởng thành thì có hơn 1 người béo phì.

Tại Việt Nam, nghiên cứu tại Đại học Washington cho thấy tỷ lệ béo phì ở người lớn khá thấp (khoảng 648.000 người Việt Nam tuổi trên 20 bị béo phì) nhưng tỷ lệ trẻ em độ tuổi 2-19 bị thừa cân và béo phì là gần 7%.

Theo số liệu điều tra năm 2015, tỷ lệ thừa cân, béo phì trẻ em ở khu vực thành thị là 21,1% và ở nông thôn là 7,6%. Nguyên nhân thừa cân béo phì trẻ em đều liên quan đến vấn đề chế độ mất cân đối (ăn nhiều chất béo) và ít hoạt động thể lực.

Béo phì liên quan đến ung thư

Béo phì làm gia tăng nguy cơ bệnh tim, tiểu đường, thận… và là nguy cơ gây ra các bệnh ung thư. Báo cáo mới nhất của Trung tâm Kiếm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Mỹ (CDC) cho thấy, 40% các ca bệnh ung thư có liên quan đến thừa cân, béo phì.

Theo đó, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích số liệu từ báo cáo từ Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ năm 2014 đánh giá tỷ lệ mắc, và các số liệu từ năm 2005 đến 2014 để phân tích các xu hướng bệnh. Nhìn chung, tỷ lệ mắc ung thư mới đã giảm từ những năm 1990 nhưng tình trạng thừa cân, béo phì gia tăng có thể làm chậm lại quá trình này.

Các chuyên gia đã phát hiện ra rằng, trong số gần 1,6 triệu ca bệnh ung thư được chẩn đoán vào năm 2014, có khoảng 630 nghìn ca có liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì. Cứ 3 ca lại có 2 ca mắc ung thư trong độ tuổi từ 50-74. Điều đó có nghĩa là cứ 10 người bị ung thư thì có 4 ca được chẩn đoán liên quan đến thừa cân, béo phì.

13 loại bệnh ung thư liên quan đến thừa cân, béo phì

Cơ quan nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) cho biết, có 13 loại bệnh ung thư có liên quan đến thừa cân, béo phì gồm: ung thư thực quản, ung thư tuyến tiền liệt, nội mạch tử cung, túi mật, dạ dày, thận, gan, buồng trứng, tuyến tụy, tuyến giáp cũng như ung thư biểu mô màng não (loại ung thư màng bao quanh não và tủy sống), đa u tủy – một loại ung thư tế bào máu.

13 loại ung thư có liên quan đến thừa cân và béo phì

55% bệnh nhân ung thư là nữ giới và 24% bệnh nhân ung thư là nam giới có liên quan đến tình trạng thừa cân và béo phì. Một số ít các bệnh ung thư liên quan đến thừa cân xảy ra ở phụ nữ, bao gồm ung thư buồng trứng hoặc niêm mạc nội mạc tử cung. Nguy cơ ung thư vú xảy ra ở những phụ nữ cũng liên quan đến tình trạng thừa cân.

Ung thư liên quan đến thừa cân và béo phì, trừ ung thư đại trực tràng tăng 7% trong giai đoạn 2005-2014. Ung thư liên quan đến thừa cân, béo phì bao gồm ung thư đại trực tràng, tăng ở người dưới 75 tuổi. Ngoài ra, tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư tuyến giáp, gan, dạ dày, tuyến tụy và thận ngày càng gia tăng từng năm.

Một nghiên cứu đầu năm nay ở Anh cũng cho biết, tình trạng béo phì được chứng minh có liên quan đến 11 loại ung thư như ung thư thực quản, tủy xương, tuyến tụy và thận, hay trực tràng và kể cả ung thư vú, buồng trứng ở phụ nữ…

Lời kết

Thừa cân, béo phì không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ là còn là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm, đặc biệt là ung thư. Các nhà nghiên cứu tin rằng, cơ thể tích tụ quá nhiều chất béo có thể thúc đẩy cơ chế gây viêm trong cơ thể, từ đó tăng nguy cơ phát triển ung thư.

Qua đó các nhà khoa học khuyến cáo người dân nên duy trì trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn và lối sống lành mạnh. Tiến sĩ Graham Colditz, chủ tịch IARC chia sẻ chỉ cần giảm 5% trọng lượng cơ thể là bạn đã tránh xa nguy cơ đối mặt với căn bệnh tử thần này.

Benh.vn (Theo soha.vn)

Bài viết Phát hiện mới: 40% Bệnh nhân ung thư liên quan đến thừa cân, béo phì đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phat-hien-moi-40-benh-nhan-ung-thu-lien-quan-den-thua-can-beo-phi-10077/feed/ 0
Hầu hết các bệnh ung thư là do ‘kém may mắn’? https://benh.vn/hau-het-cac-benh-ung-thu-la-do-kem-may-man-6275/ https://benh.vn/hau-het-cac-benh-ung-thu-la-do-kem-may-man-6275/#respond Tue, 14 Aug 2018 05:42:53 +0000 http://benh2.vn/hau-het-cac-benh-ung-thu-la-do-kem-may-man-6275/ Mới đây, theo một nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Ung thư Anh, có đến 65% bệnh nhân mắc ung thư là do “kém may mắn” chứ hoàn toàn không phải do các yếu tố như gen di truyền hay môi trường, lối sống… mà chúng ta vẫn nghĩ.

Bài viết Hầu hết các bệnh ung thư là do ‘kém may mắn’? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Mới đây, theo một nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Ung thư Anh, có đến 65% bệnh nhân mắc ung thư là do “kém may mắn” chứ hoàn toàn không phải do các yếu tố như gen di truyền hay môi trường, lối sống… mà chúng ta vẫn nghĩ.

Cụ thể, nghiên cứu được đăng trên tạp chí Science đã chỉ ra, khoảng 65% các ca mắc ung thư được phân tích đều do sự phân chia ngẫu nhiên của các tế bào trong cơ thể, giống như trò chơi xúc xắc – quyết định xem AND của một người có thể dẫn đến ung thư hay không.

 

Khả năng mắc ung thư cũng giống như trò chơi xúc xắc vậy.

Nghiên cứu cho thấy, 2/3 các căn bệnh ung thư chỉ là do “kém may mắn”. Thế nhưng, 1/3 còn lại bị chi phối bởi những hoạt động của chúng ta như lạm dụng đồ uống có cồn, phơi nắng quá nhiều hoặc không kiểm soát cân nặng… tất cả đều giống như trò chơi đỏ – đen mà tài sản đặt cược lại chính là cả tính mạng của bản thân mình. Chỉ riêng hút thuốc lá cũng đã là nguyên nhân dẫn đến 1/5 các ca mắc ung thư trên thế giới.

Trung tâm này cũng cho rằng, mắc bệnh do đột biến ngẫu nhiên không đồng nghĩa với việc gắn liền với lối sống buông thả. Việc hướng đến và duy trì một lối sống lành mạnh cũng là phương pháp hữu hiệu, đóng vai trò quan trọng giúp giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh nguy hiểm nhất đối với con người này.

 

Mắc ung thư có thật sự là do “kém may mắn”?

Tuy nhiên, những kết luận trên là vội vàng và không hoàn toàn chính xác. Qua tìm hiểu, trang tin The Guardian đã nhanh chóng chỉ ra những điểm sai lầm trong việc quy chụp nguyên nhân ung thư như trên.

Được biết, tên thật của nghiên cứu trên là “Variation in cancer risk among tissues can be explained by the number of stem cell divisions” (tạm dịch: Tỉ lệ nguy cơ mắc ung thư ở các mô có thể được lý giải bởi số lượng tế bào phân chia). Theo đó, sau khi nghiên cứu trên 31 dạng ung thư, các chuyên gia đã tìm thấy mối liên hệ giữa tỉ lệ mắc bệnh lý này với lượng tế bào phân chia trong cơ thể. Hiểu một cách đơn giản, tế bào phân chia càng nhiều thì khả năng xảy ra đột biến càng cao và từ đó dễ dẫn tới biến đổi ADN và gây ung thư.

Điều đó hoàn toàn khác với việc quy kết phân chia tế bào ngẫu nhiên là nguyên nhân gây nên ung thư. Thực tế, sự phân chia này chỉ là một nhân tố góp phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh mà thôi.

Ngay trong nghiên cứu này, người đọc cũng có thể tìm thấy những thí nghiệm nhằm kiểm tra tác động của thuốc lá tới nguy cơ ung thư, chứng tỏ rằng chính các nhà khoa học cũng không có ý khẳng định tuyệt đối như nhiều website đưa tin về sự “kém may mắn” này. Những gì họ nghiên cứu chỉ nhằm đóng góp lý luận để phục vụ quá trình tìm kiếm biện pháp chữa trị ung thư trong tương lai mà thôi.

An Nguyên – Benh.vn (Tổng hợp)

Bài viết Hầu hết các bệnh ung thư là do ‘kém may mắn’? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/hau-het-cac-benh-ung-thu-la-do-kem-may-man-6275/feed/ 0
Góc nhìn mới về nguyên nhân gây ung thư của các nhà khoa học https://benh.vn/goc-nhin-moi-ve-nguyen-nhan-gay-ung-thu-cua-cac-nha-khoa-hoc-9279/ https://benh.vn/goc-nhin-moi-ve-nguyen-nhan-gay-ung-thu-cua-cac-nha-khoa-hoc-9279/#respond Fri, 27 Jul 2018 07:04:37 +0000 http://benh2.vn/goc-nhin-moi-ve-nguyen-nhan-gay-ung-thu-cua-cac-nha-khoa-hoc-9279/ Theo thống kê, mỗi năm có gần 8 triệu người trên thế giới chết vì ung thư với hơn 200 dạng ung thư khác nhau. Nguyên nhân gây ung thư do nhiều yếu tố cấu thành, tuy nhiên mới đây các nhà khoa học Mỹ đã có thêm "góc nhìn" về các nguyên nhân gây ung thư thông thường đó là sao chép mã di truyền gene (ADN).

Bài viết Góc nhìn mới về nguyên nhân gây ung thư của các nhà khoa học đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo thống kê, mỗi năm có gần 8 triệu người trên thế giới chết vì ung thư với hơn 200 dạng ung thư khác nhau. Nguyên nhân gây ung thư do nhiều yếu tố cấu thành, tuy nhiên mới đây các nhà khoa học Mỹ đã có thêm “góc nhìn” về các nguyên nhân gây ung thư thông thường đó là sao chép mã di truyền gene (ADN).

Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ cho thấy thêm một “góc nhìn” mới rằng ngay cả những người có lối sống khoa học vẫn bị mắc ung thư do lỗi sao chép mã di truyền gene (ADN).

Bệnh nhân ung thư (ảnh minh họa).

Theo nghiên cứu mới được công bố của Trung tâm Ung bướu Kimmel Johns Hopkins, 2/3 các trường hợp mắc các bệnh ung thư “quái ác” do lỗi trong quá trình mã hóa gene (ADN) khi phân tách tế bào.

Để đưa ra được kết luận này, các nhà khoa học đã nghiên cứu những biến dị khiến tế bào bất thường lớn lên ở 32 dạng ung thư khác nhau. Sử dụng thuật toán học, các nhà khoa học đã nghiên cứu, thu thập trình tự sắp xếp những sao chép gen. Kết quả cho thấy phải có từ 2 hay nhiều hơn gen bị đột biến (bị sao chép lỗi), mới dẫn tới bệnh ung thư.

95% lỗi do sao chép ở một số gen ADN quan trọng là nguyên nhân gây ung thư

Với những bệnh ung thư quái ác như ung thư não, ung thư xương, ung thư tiền liệt tuyến thì 95% trường hợp là lỗi do sao chép ở một số gien ADN quan trọng gây ra. Các nhà khoa học giải thích, không gì có thể ngăn cản được những sai lầm ngẫu nhiên trong mã hóa di truyền khi các tế bào phân chia và sao chép. Những sai lầm được nhân bản đôi khi thường vô hại, nhưng nếu nó xảy ra ở những mã di truyền quan trọng thì những biến dị đó lại là tiềm ẩn của đột biến ung thư.

Tiến sĩ Critina Tomasetti, đồng trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, có tới 66% đột biến ung thư là do lỗi sao chép, 29% là do lối sống và chỉ 5% là do di truyền gen lỗi: “Có thể nói là sự may rủi trong quá trình phân tích mã di truyền gen ở mỗi người. Chúng ta đều biết rằng vẫn cần phải tránh các yếu tố môi trường nguy cơ gây ung thư như hút thuốc lá. Song không phải ai cũng biết rằng mỗi lần tế bào phân chia thành 2 tế bào mới có thể mắc phải nhiều sai lầm. Nó giống như việc đánh máy vậy. Bạn có thể giảm các lỗi đánh máy nếu bạn tập trung hoăc bàn phím không bị thiếu phím nào. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có lỗi xảy ra vì không ai có thể gõ hoàn hảo”.

Được biết, kết quả đạt được của nhóm nghiên cứu nhằm tìm lời giải đáp cho hàng triệu trường hợp mắc bệnh ung thư dù người bệnh có một lối sống lành mạnh hoặc tuân thủ mọi biện pháp phòng chống ung thư mà giới khoa học khuyến cáo. Ngoài ra, nhóm mong muốn nâng cao nhận thức đối với các dạng biến dị gây ung thư để phát triển các phương pháp phát hiện sớm đối với căn bệnh chết người này.

Mặc dù đã có kết luận khoa học trên nhưng các nhà khoa học viện Ung thư Kimmel Johns Hopkins vẫn khuyến cáo người dân cần  áp dụng các biện pháp phòng ngừa ung thư, duy trì lối sống lành mạnh, đặc biệt là luôn “lắng nghe cơ thể” để phát hiện bệnh kịp thời bởi cơ hội chữa trị thành công có thể lên tới 98% nếu được phát hiện sớm.

Benh.vn (Theo VOV-Trung tâm Tin)

Bài viết Góc nhìn mới về nguyên nhân gây ung thư của các nhà khoa học đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/goc-nhin-moi-ve-nguyen-nhan-gay-ung-thu-cua-cac-nha-khoa-hoc-9279/feed/ 0
Mỡ bụng chứa protein làm tăng nguy cơ ung thư https://benh.vn/mo-bung-chua-protein-lam-tang-nguy-co-ung-thu-9950/ https://benh.vn/mo-bung-chua-protein-lam-tang-nguy-co-ung-thu-9950/#respond Tue, 17 Apr 2018 07:26:02 +0000 http://benh2.vn/mo-bung-chua-protein-lam-tang-nguy-co-ung-thu-9950/ Nghiên cứu đã chỉ ra, lớp mỡ bụng dưới của phần bụng có thể sản sinh ra nhiều loại protein làm tăng nguy cơ ung thư so với mỡ ở dưới các vùng da khác trên cơ thể.

Bài viết Mỡ bụng chứa protein làm tăng nguy cơ ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nghiên cứu đã chỉ ra, lớp mỡ bụng dưới của phần bụng có thể sản sinh ra nhiều loại protein làm tăng nguy cơ ung thư so với mỡ ở dưới các vùng da khác trên cơ thể. Nghiên cứu tại Đại học bang Michigan, Hoa Kỳ được cho là đã góp phần giải thích nghi vấn trên. Một loại protein đặc biệt ở trong phần mỡ của cơ thể có khả năng biến đổi tế bào bình thường thành tế bào ung thư.

Mối liên hệ giữa “chỉ số vòng 2” và nguy cơ ung thư

Theo ước tính khoảng hơn một phần ba dân số trên thế giới đang mắc bệnh béo phì. Các chuyên gia cho rằng béo phì có mối liên kết với một số bệnh ung thư như ung thư vú, ruột kết, tuyến tiền liệt, tử cung, và thận.

PGS. Jamie Bernard, Khoa Dược học và Độc học, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: “Mặc dù hiện nay có nhiều phương pháp điều trị ung thư tân tiến giúp cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân, tuy nhiên số trường hợp mắc phải bệnh ung thư ngày càng tăng. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân gây nên ung thư để có các biện pháp phòng ngừa như điều chỉnh chế độ ăn uống hoặc nhờ sự can thiệp của các liệu pháp điều trị để giảm số trường hợp ung thư”.

Theo quan điểm của bà Bernard, thừa cân không phải là nguyên nhân duy nhất để xác định nguy cơ ung thư. “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc sử dụng chỉ số cơ thể (BMI) không phải là chỉ thị (indicator) tốt nhất. Thay vào đó, nồng độ một loại protein gọi là Fibroblast growth factor-2 (FGF2) có thể được xem là chỉ thị tốt nhất trong việc xem xét nguy cơ tế bào biến đổi thành ung thư”.

Mỡ bụng được chia thành hai lớp. Lớp trên cùng gọi là lớp mỡ dưới da (subcutaneous fat). Lớp phía dưới gọi là lớp mỡ phủ tạng (visceral fat). Lớp mỡ này được cho là nguy hiểm hơn so với lớp mỡ dưới da.

Thí nghiệm trên chuột

PGS Bernard và cộng sự đã sử dụng chuột để tiến hành thí nghiệm, áp dụng chế độ ăn nhiều chất béo. Sau đó, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng lớp mỡ phủ tạng sản sinh ra một lượng lớn FGF2 so với lớp mỡ dưới da. FGF2 kích thích một số tế bào nhạy cảm với protein này trong cơ thể và biến chúng thành các khối u.

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu lấy mô mỡ phủ tạng từ nữ giới phẫu thuật cắt bỏ tử cung và cấy vào trong chuột. Kết quả cho thấy mô mỡ này sản sinh ra lượng lớn protein FGF2 và biến đổi nhiều tế bào bình thường thành tế bào ung thư.

Qua đó, bà Bernard kết luận “Mỡ trong cá thể chuột và người có khả năng biến đổi tế bào bình thường thành các tế bào ung thư ác tính”. Ngoài ra, mỡ còn sản sinh ra vài hợp chất khác bao gồm hóc-môn estrogen có khả năng ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư. Nhưng nhiều giả thuyết cho rằng hóc-môn này chỉ có mối liên hệ với ung thư nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến ung thư. Có khả năng yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Được biết, nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Oncogene và tài trợ bởi Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ. Qua đó mở ra tia hy vọng cho sự phát triển các hợp chất chống ung thư mới, ngăn chặn ảnh hưởng của protein FGF2.

Cẩm nang y học Benh.vn (Theo Sciencedaily & Soha.vn)

 

Bài viết Mỡ bụng chứa protein làm tăng nguy cơ ung thư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/mo-bung-chua-protein-lam-tang-nguy-co-ung-thu-9950/feed/ 0