Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Fri, 12 Jun 2020 16:12:44 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Zona thần kinh cần kiêng gì? https://benh.vn/zona-than-kinh-can-kieng-gi-59796/ https://benh.vn/zona-than-kinh-can-kieng-gi-59796/#respond Fri, 05 Apr 2019 03:55:20 +0000 https://benh.vn/?p=59796 Zona là một bệnh do vi rút gây ra, tấn công chủ yếu lên da và dây thần kinh ở vùng da đó. Một chế độ ăn hợp lý sẽ giúp căn bệnh này nhanh chóng thuyên giảm. Dưới đây là những thực phẩm khi bị zona thần kinh nên kiêng.

Bài viết Zona thần kinh cần kiêng gì? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Zona là một bệnh do vi rút gây ra, tấn công chủ yếu lên da và dây thần kinh ở vùng da đó. Một chế độ ăn hợp lý sẽ giúp căn bệnh này nhanh chóng thuyên giảm. Dưới đây là những thực phẩm khi bị zona thần kinh nên kiêng:

bệnh zona

Ngũ cốc tinh chế

Các tổn thương do bệnh zona gây ra có thể lâu phục hồi nếu bạn không kiêng ngũ cốc dạng tinh chế.

Thực phẩm giàu arginine

Lúa mạch làm tăng nguy cơ sảy thai

Chocolate, lúa mì, yến mạch, bánh mì trắng,… là những thực phẩm giàu Arginine. Người zona thần kinh cần tránh những thực phẩm trên bởi Arginine là axit amin có lợi cho sự phát triển của virus gây bệnh

Rượu bia

Hạn chế tối đa rượu bia nếu không muốn sức đề kháng suy giảm, tạo điều kiện cho virus gây bệnh lây lan nhanh hơn.

rượu bia

Thực phẩm khác

Một số loại thực phẩm ít vitamin và khoáng chất như đồ ngọt, đồ uống giàu carbohydrate, thức ăn chiên rán,… cũng nên hạn chế để việc điều trị mang lại kết quả tốt nhất.

 

 

Bài viết Zona thần kinh cần kiêng gì? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/zona-than-kinh-can-kieng-gi-59796/feed/ 0
Bệnh sử Zona và các chuẩn đoán https://benh.vn/benh-su-zona-va-cac-chuan-doan-1888/ https://benh.vn/benh-su-zona-va-cac-chuan-doan-1888/#respond Sat, 04 Aug 2018 04:03:36 +0000 http://benh2.vn/benh-su-zona-va-cac-chuan-doan-1888/ Virút Varicella Zoster gây ra hai thể bệnh riêng biệt. Nhiễm khuẩn tiên phát gây bệnh thủy đậu, một bệnh rất hay lây nhưng thường lành tính, xảy ra thành dịch ở những trẻ cảm thụ. Sự tái hoạt sau này của virút Varicella Zoster tiềm ẩn trong các hạch rễ lưng tạo nên một phát ban ngoài da khu trú gọi là zona (giời ăn).

Bài viết Bệnh sử Zona và các chuẩn đoán đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bệnh Zona            

Virút Varicella Zoster gây ra hai thể bệnh riêng biệt. Nhiễm khuẩn tiên phát gây bệnh thủy đậu, một bệnh rất hay lây nhưng thường lành tính, xảy ra thành dịch ở những trẻ cảm thụ. Sự tái hoạt sau này của virút Varicella Zoster tiềm ẩn trong các hạch rễ lưng tạo nên một phát ban ngoài da khu trú gọi là zona (giời ăn). Các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào chuyên biệt cho virút bị giảm sút, hoặc xảy ra tự nhiên như một hệ quả của tuổi tác, hoạt động do các bệnh ức chế miễn dịch hoặc do thuốc điều trị bệnh nội khoa, làm tăng nguy cơ bị zona.

Dịch tễ

Trên 90% người lớn ở Hoa Kỳ có chứng cứ huyết thanh của việc nhiễm virút Varicella Zoster và đều có nguy cơ bị zona (Choo PW, et al. 1995). Số mắc mới hàng năm của zona vào khoảng 1,5 – 3 trường hợp/1.000 người (Donahue JG, 1995; Ragozzino MW, et al. 1982). Tỷ lệ mắc mới 2 trường hợp/1.000 người đồng nghĩa với trên 500.000 trường hợp mới hàng năm tại nước Mỹ. Tuổi đời tăng là yếu tố nguy cơ chủ chốt của bệnh zona, số trường hợp mắc mới của zona ở những người trên 75 tuổi vượt quá con số 10 trường hợp/1.000 người-năm. Nguy cơ mắc zona trong suốt cuộc sống ước tính là 10 – 20% (Ragozzino MW, et al. 1982).

Yếu tố nguy cơ

Một yếu tố nguy cơ khác đã được xác định rõ của bệnh zona là tình trạng miễn dịch qua trung gian tế bào bị thay đổi. Những bệnh nhân (BN) có các bệnh lý về u tân sinh (đặc biệt các ung thư tăng sinh tố chức lymphô), những người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch (gồm cả corticosteroid), và những người nhận ghép cơ quan là những thành phần có nguy cơ tăng cao bị mắc zona. Tuy nhiên, việc tìm kiếm một bệnh lý ung thư tiềm ẩn ở những người bề ngoài có vẻ khỏe mạnh bị zona, là không hợp lý lắm (Ragozzino MW, et al. 1982).

Những người HIV (+) có tần số mắc bệnh cao hơn những người có huyết thanh (-). Một nghiên cứu dài hạn cho thấy những người HIV (+) có tỷ lệ mắc zona mới là 29,4/1000 người – năm. So với 2/1000 người – năm ở nhóm HIV (-) đối chứng (Buchbinder SP, et al. 1992). Vì zona có thể xảy ra ở những người đã bị nhiễm HIV không triệu chứng, xét nghiệm huyết thanh có thể thích hợp ở những BN không có nguy cơ rõ ràng nào mắc zona (ví dụ những người có vẻ khỏe mạnh dưới 50 tuổi).

Triệu chứng

Trong thời kỳ tiền triệu của zona, BN bị nhức đầu, sợ ánh sáng và khó ở, nhưng hiếm khi có sốt. Bệnh khởi đầu với các cảm giác da bất thường khu trú, bao quát từ ngứa hoặc đau nhói đến đau dữ dội, có trước các tổn thương da từ một đến năm ngày, cơn đau với các cường độ khác nhau xảy ra hầu như ở tất cả BN bị zona cấp. Một phát ban hồng ban dát sẩn tiến triển thành các cụm mụn nước trong 3 – 5 ngày sau và diễn tiến qua các giai đoạn hóa mũ, loét và đóng vảy. Lành tổn thương xảy ra trong khoảng thời gian từ 2 – 4 tuần, thường để lại sẹo và những thay đổi màu da vĩnh viễn.

Phát ban ngoài da thường chỉ ở một bên và không vượt quá đường giữa thân. Việc có tổn thương cùng lúc ở nhiều khoanh da (dermatome) không liền kế nhau hầu như không bao giờ xảy ra ở những BN có chức năng miễn dịch toàn vẹn, mặc dù trong 20% trường hợp tổn thương có nhiễm trùng lên các khoanh da kế cận. Sự hiện diện của một ít tổn thương da lân cận cũng không có gì là bất thường hoặc có tầm quan trọng về tiên lượng gì ở những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ.

Chẩn đoán

Biểu hiện da của zona đủ rõ để có chẩn đoán lâm sàng thường là chính xác. Tuy nhiên vị trí hoặc hình dạng của các tổn thương ngoài da có thể không điển hình (đặc biệt ở những BN có hệ miễn dịch bị suy giảm), khi đó cần có sự xác định của labô. Có thể nuôi cấy virút, nhưng virút Varicella Zoster yếu ớt và tương đối khó hồi phục từ các mẫu bệnh phẩm của những tổn thương ở da. Định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp nhạy cảm hơn nuôi cấy virút, chi phí thấp hơn và có thời gian trả lời kết quả xét nghiệm nhanh hơn (Dahl H, et al. 1997).

Giống như nuôi cấy virút, định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể phân biệt giữa nhiễm virút Herpes Simplex và nhiễm virút Varicella Zoster. Kỹ thuật phản ứng khuyếch đại chuỗi gien bằng enzym polymerase có ích trong việc tìm DNA của virút Varicella Zoster trong dịch và các mô (Gilden DH, et al. 2000).

Đau dây thần kinh sau herpes

Đau dây thần kinh sau herpes (được định nghĩa là đau tồn tại trên 30 ngày sau khi nổi phát ban hoặc sau khi liền sẹo) là biến chứng đáng sợ nhất đối với những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ. Cả tỷ lệ khởi phát lẫn thời gian tồn tại của đau dây thần kinh sau zona, có liên quan trực tiếp với tuổi của BN (Choo PW và CS 1997). Tỷ lệ khởi phát được báo cáo của đau dây thần kinh sau zona bao quát từ 8 – 70% và tăng khi tuổi đời càng cao.

Trong một nghiên cứu (Choo PW, Galil K, et al. 1997), tỷ lệ lưu hành của đau dây thần kinh sau zona là 8% sau 30 ngày và là 4,5% sau 60 ngày. Khi so sánh với những BN trẻ hơn, những người ở lứa tuổi ≥ 50 có tỷ lệ lưu hành cao gấp 15 và 25 lần, theo thứ tự ở các thời điểm 30 và 60 ngày. Mỗi mức tăng một nam tuổi đi kèm với gia tăng tỷ lệ lưu hành của đau dây thần kinh sau zona là 9 và 12% lần lượt ở các thời điểm 30 và 60 ngày.

Bên trong vùng khoanh da (dermatome) bị tổn thương ngoài đau dây thần kinh ra, BN còn có nhiều bất thường về cảm giác, như dị giác (allodynia) một thể tăng cảm giác (hyperesthesia) trong đó một kích thích không đau (như chạm nhẹ) được nhận biết như đau. Đau có thể tồn tại hàng tháng và đôi khi hàng năm.

Biến chứng

Biến chứng của zona ở những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ gồm viêm não, viêm tủy, liệt dây thần kinh sọ não, dây thần kinh ngoại biên và một hội chứng liệt nhẹ nửa người phía đối diện muộn (Gilden DH, et al. 2000).

Ở kỷ nguyên trước khi có các thuốc kháng rivút, sự lan tỏa ngoài da của virút Varicella Zoster được biết là từ 6 – 26% ở những BN bị suy giảm miễn dịch (Gnann JW, Whitley RJ. 1991). Ở đa số BN, bệnh lan tỏa chỉ giới hạn ở da, tuy nhiên từ 10 – 50% BN cũng có chứng cứ của tổn thương nội tạng (như viêm phổi, viêm não, hoặc viêm gan). Ngay khi dùng liệu pháp acyclovir truyền tĩnh mạch, tử suất của BN zona có lan tỏa nội tạng là 5 – 15%, với phần lớn tử vong do viêm phổi (Gnann JW, Whiltey RJ. 1991).

Hoại tử võng mạc cấp tính do virút Varicella Zoster thỉnh thoảng gặp ở những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ, dù rằng các báo cáo gần đây hơn đều tập trung vào các bệnh mắt ở những BN nhiễm HIV (Ormerod LD, et al. 1998).

Những thay đổi về thị giác bắt đầu nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi zona đã khỏi. Bệnh zona trước đó có thể gây tổn thương bất kỳ vùng khoanh da nào (không nhất thiết là dây thần kinh tam thoa), ngụ ý nhiễm trùng võng mạc có lẽ mắc phải qua đường máu. Soi đáy mắt cho thấy những tổn thương dạng hạt, hơi vàng, không xuất huyết. Ở những BN nhiễm HIV, các tổn thương nhanh chóng lan rộng và kết tập lại, ít có đáp ứng với trị liệu kháng virút và hầu như chắc chắn gây mù cho mắt bị bệnh. Viêm võng mạc ở những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ ít nặng hơn và thường có thể chặn đứng được bằng trị liệu kháng virút.

Chiến lược xử trí và chứng cứ đi kèm

Điều trị zona dễ đẩy nhanh việc liền sẹo, hạn chế độ nặng và thời gian kéo dài đau cấp tính và mạn tính, và giảm biến chứng. Ở những BN bị tổn hại miễn dịch, thêm một mục tiêu điều trị nữa là giảm nguy cơ lan tỏa virút Varicella Zoster

Theo Thời Sự Y Dược Học (Phần I)

Bài viết Bệnh sử Zona và các chuẩn đoán đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-su-zona-va-cac-chuan-doan-1888/feed/ 0
Các bệnh da do nguyên nhân virus – ai cũng từng mắc https://benh.vn/cac-benh-da-do-nguyen-nhan-virus-4772/ https://benh.vn/cac-benh-da-do-nguyen-nhan-virus-4772/#respond Sat, 28 Jul 2018 05:10:15 +0000 http://benh2.vn/cac-benh-da-do-nguyen-nhan-virus-4772/ Bệnh hạt cơm là những tổ chức tăng sinh thường gặp và lành tính, lây và tự nhiễm do một virus xuyên lọc gây nên. Thường nổi thành nhiều cái, rải rác ở lưng bàn tay, các ngón tay dưới rãnh móng, ở lòng bàn chân.

Bài viết Các bệnh da do nguyên nhân virus – ai cũng từng mắc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Viêm da do virus là bệnh lý rất phổ biến mà hầu như ai cũng đã từng mắc nhưng không để ý nguyên nhân gây bệnh là gì. Say đâu benh.vn sẽ điểm qua các loại bệnh viêm da, mụn rộp do virus thường gặp nhất và cách điều trị.

Bệnh Herpes (bệnh Ecpet – Mụn rộp)

Herpes (Ecpet) là một bệnh phát ban mụn nước, hay tái phát, thường xuất hiện ở vùng niêm mạc gây nên bởi virus Herpes simplex virus (HSV).

Bệnh Herpes rất hay thường gặp và có thể nổi ở bất cứ vùng da và niêm mạc nào. Tuy nhiên, hay gặp nhất là Herpes quanh môi, lỗ mũi má, vùng sinh dục, mông. Vùng mụn rộp sinh dục chủ yếu do HSV 2 gây ra, còn mụn rộng quanh miệng do HSV 1.

choc-mep-do-virus

Biểu hiện mắc bệnh Herpes

Trước khi nổi tổn thương thường có cảm giác khó chịu ngứa rát tại chỗ. Bắt đầu bằng một vết đỏ nề, sau đó nhanh chóng xuất hiện các mụn nước thành cụm như “bó hoa” từ 3-10 cái tròn hoặc hình cầu, đều nhau, nhỏ 2-4 ly đường kính, ở giữa mụn nước có vết lõm. Dịch ban đầu trong sau thành đục. Các mụn nước liên kết thành nước có viền đa cung rất điển hình. Có những vết Herpes khổng lồ phỏng nước to như trong bệnh Duhring. Sau vài ngày, mụn nước vỡ, khô tại chỗ đóng vẩy tiết vàng hoặc hơi nâu gắn chặt, khi trong để lại một vết đỏ, sau đó trở lại bình thường không thành sẹo. Từ khi bắt đầu đến khi lặn, tất cả khoảng 8-15 ngày thôi.

Thường chỉ có một đám. Nhưng cũng có khi nhiều đám rải rác ở mặt, vùng sinh dục. Bệnh nổi từng đợt có khi thành chu kỳ. Thường là không sốt, không đau, nhưng một số trường hợp có thể kèm sốt và triệu chứng toàn thân nhất là Herpeshọng hầu, những triệu chứng toàn thân có khi là do bệnh nhiễm khuẩn (cầu khuẩn phổi, màng não, xoắn khuẩn) đã khởi động Herpes.

Herpes là bệnh lành tính nhưng khó chịu vì tính cách hay tái phát theo chu kỳ, có khi theo chu kỳ kinh.

Có thể lây nhau qua giao hợp, vì vậy được xếp vào nhóm bệnh lây qua đường tình dục (LQĐTD).

Herpes tái phát gặp ở một số bệnh nhân có yếu tố tâm thần, chấn thương, rối loạn tiêu hóa.

Trong hội chứng AIDS, Herpes có bệnh cảnh lâm sàng trầm trọng: loét trợt rộng vùng hậu môn, sinh dục, niêm mạc miệng, có thể tổn thương não, màng não, 40% gây tử vong.

Nguyên nhân bệnh Herpes

Bệnh Herpes gây ra bởi Herpes simplex virus (HSV). Có 2 týp:

  • Tổn thương ở vùng miệng môi thông thường do virus týp 1 (HSV-1)
  • Ở vùng sinh dục thì do týp 2 (HSV-2) gây nên.

Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt bệnh Herpes

Cần dựa vào lâm sàng hoặc có thể nuôi cấy virus. Những tổn thương mụn nước ở vùng môi miệng và sinh dục hay tái phát thường gợi ý đến chẩn đoán do HSV. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp tái phát và nhiều trường hợp nhiễm trùng ở giai đoạn đầu của niêm mạc miệng, cần phải chẩn đoán phân biệt với các bệnh áp tơ, Pemphigus vulgaris. Ở vùng sinh dục, cần phân biệt với bệnh giang mai, hạ cam mềm…

Điều trị bệnh Herpes

Điều quan trọng cần cho bệnh nhân biết là khi đang có tổn thương thì lây nhiễm rất cao.

  • Tại chỗ: Xoa bột trơ, chấm cồn iod; thuốc màu. Đối với các đám tái phát: chấm dung dịch cồn tannin 10%, X. quang trị liệu. Không nên dùng corticoid tại chỗ cũng như toàn thân. Mỡ acyclovir bôi 4 lần/ngày trong vòng 10 ngày
  • Toàn thân: acyclovir 200mg uống 5 lần/ngày; kết hợp với kháng sinh nếu có bội nhiễm. Trẻ em thì acyclovir 15-30 mg/kg/ngày.

Vì acyclovir đào thải qua thận nên ở những người suy thận phải điều chỉnh liều cho phù hợp.

Bệnh Zona (Giời leo)

Bệnh Zona gây nên do một loại virus hướng thần kinh và hướng da (varicella-zoster virus). Loại virus này đã được các nhà khoa học phân lập trên nuôi cấy tế bào và có đặc điểm gần giống virus thủy đậu. Mặc dù về mặt sinh vật rất khác với virus Herpes, nhưng virus zona lại gây tổn thương rất giống Herpes, chỉ khác là vị trí bị Zona ở một bên và theo đường dây thần kinh rõ rệt.

benh-zona-la-benh-ngoai-da-do-virus-gay-ra

Triệu chứng bệnh Zona

Trước khi nổi tổn thương, thường có cảm giác báo hiệu: rát, dấm dứt, đau ở vùng sẽ nổi tổn thương, kèm theo triệu chứng toàn thân ít hoặc nhiều.

Tổn thương bắt đầu bằng các màng đỏ, hơi gò cao hơn mặt da thường hình bầu dục, lần lượt nổi dọc dây thần kinh, rải rác hoặc cụm lại thành dải, thành vệt. Sau vài giờ trên mảng đỏ xuất hiện những mụn trong sau đục, một số mụn nước liên kết lại thành phỏng nước: sau 4-5 ngày, mụn nước xẹp, khô để lại những vảy tiết nhỏ màu vàng sẫm. Mảng đỏ ở dưới nhạt xẹp dần, thành màu sẫm. Những mụn phỏng nước khi vỡ để lộ các điểm loét khá sâu, lâu lành, để lại sẹo trắng có viền sẫm màu, không bao giờ mất. Có trường hợp có xuất huyết dưới da xung quanh các mụn nước: zona xuất huyết người suy kiệt, nhiễm độc, người già, các điểm loét trợt thành mảng mục.

Trước hoặc cùng với tổn thương da, thường nổi hạch sớm, đau ở vùng tương ứng. Hạch là dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán. Rối loạn cảm giác rất thường gặp. Biểu hiện thành: đau dây thần kinh từng cơn lan tỏa, hoặc thành “điểm đau nhói” dai dẳng, cảm giác rát, nóng, khu trú ở vùng đau. Ở người già, đau thường dữ dội và khá dai dẳng. Tại vùng tổn thương, cảm giác da có thể biến đổi: xen kẽ mất cảm giác và tăng cảm.

Dấu hiệu toàn thân có thể là: sốt, đau mình, kém ăn, lưỡi bự, rối loạn tiêu hóa, liệt ruột, biểu hiện phổi, tim, thận.

Thể bệnh tùy theo vị trí: vị trí tổn thương là yếu tố tốt nhất để chẩn đoán, thường là ½ người dừng đột ngột ở đường giữa, dọc theo những phân bố thần kinh (cá biệt mới có những mụn nước lạc long).

  • Zona mắt gây tổn thương ở trán, mi trên góc trong mắt, đặc biệt nghiêm trọng có thể gây biến chứng mặt từ viêm màng tiếp hợp gây chảy nước mắt đến viêm giác mạc, viêm mống mắt, dẫn đến loét giác mạc rối loạn đồng tử, teo gai… Zona này rất đau có thể để lại đau quanh hốc mắt dai dẳng.
  • Zona hạch gối có tổn thương ở vành tai, kèm theo rối loạn cảm giác 2/3 trước lưỡi, rối loạn nghe, đôi khi liệt mặt một bên.
  • Zona đầu, tổn thương nhiều dây thần kinh sọ não, hạch não tủy, có khi tổn thương cả não.

Tiến triển: thường lành tính, ngắn hạn, khỏi sau 2-4 tuần, nhưng có khi nặng (zona mắt, zona đầu, zona hoại thư). Có khi kéo dài nhiều đợt liên tiếp, và nhất là gây đau dai dẳng ở người già.

Khác với Herpes, zona thường gây miễn dịch (cá biệt mới gặp tái phát).

Nguyên nhân bệnh Zona

Do một loại virus hướng thần kinh và hướng da (varicella-zoster virus).

Chẩn đoán bệnh Zona

Cần chẩn đoán phân biệt với ecpet (không có vị trí một bên, ít khi có hạch, ít đau, dễ tái phát); viêm da tiếp xúc dị ứng; bệnh pemphigoid bọng nước, bệnh pemphigus… Trong những trường hợp này cần phải làm sinh thiết da và phản ứng miễn dịch huỳnh quang để chẩn đoán.

Đối với zona rải rác toàn thân (rất hiếm) cần phân biệt với thủy đậu.

Điều trị bệnh Zona

Tuyệt đối không bôi mỡ cocticoid lên tổn thương zona.

  • Đối với zona không đau chỉ cần thuốc tại chỗ (bột trơ, hồ nước).
  • Đối với zona mắt, nhỏ thuốc sát trùng mắt, băng kín mắt.
  • Đối với zona đau: các thuốc giảm đau.

Thuốc điều trị: Acyclovir 800mg/viên uống 5 lần mỗi ngày trong 7-10 ngày. Kết hợp:

  • Lyrica 75mg/viên, uống 150-300mg mỗi ngày.
  • Histamin.
  • Kháng sinh.
  • Chiếu UV, laser He – Ne…

Bệnh hạt cơm (Verrues)

Gọi là bệnh hạt cơm vì bệnh gây ra tình trạng sần sùi trên da tương tự như hạt cơm. Không phải ai cũng biết bệnh này thực chất do virus gây ra.

Triệu chứng bệnh hạt cơm

Là những tổ chức tăng sinh thường gặp và lành tính, lây và tự nhiễm do một virus xuyên lọc gây nên. Thường nổi thành nhiều cái, rải rác ở lưng bàn tay, các ngón tay dưới rãnh móng, ở lòng bàn chân.

Ở bàn tay và các ngón: hạt cơm thành u tròn gờ cao hơn mặt da xám hoặc vàng đục, khô cứng dày sừng. Trên mặt có gai, ráp, mấp mô, xung quanh không có quầng viêm (khác với lao da xùi lúc ban đầu). Hạt cơm không đau, trừ khi ở quanh các móng. Nhiều hạt cơm có thể cụm thành đám, có khi nổi thành dãy (lây nhiễm do gãi). Hạt cơm dưới móng đội móng lên, gây đau nhất là khi chạm phải.

Hạt cơm lòng bàn chân: đi lại và ấn vào rất đau..

Mầm bệnh: Hạt cơm: sùi mào gà do một loại virus gây nên (virus tăng gai ở người HPV) virus này hay phát triển trên một số thể địa đặc biệt.

Điều trị bệnh hạt cơm

Dùng các phương pháp hủy hoại tổ chức sùi như: chấm acid trichloracetic 33%, áp tuyết carbon, đốt điện, đắp tinh thể thuốc tím, chấm azốt lỏng, podophylin 3%.

Thuốc chung: tiêm máu tự thân, vitamin, interferon (dùng cho các hạt cơm bầy, rải rác).

Điểm đặc biệt trong điều trị hạt cơm là có thể dùng tâm lý liệu pháp mặc dù bệnh do virus.

benh-hat-com-la-benh-da-do-virus-gay-ra

Hình ảnh minh họa

Bệnh sùi mào gà vùng sinh dục – hậu môn

Bệnh Sùi mào gà là những u biểu mô lành tính do virus còn gọi là “u sùi hoa liễu” (condylome acuminé) lây và tự nhiễm, dễ tái phát.

Triệu chứng lâm sàng bệnh sùi mào gà

Thường gặp ở cả nam và nữ tuổi 20 – 45, nhưng có thể gặp cả ở trẻ sơ sinh mà mẹ cũng bị sùi mào gà (hoa liễu).

Vị trí phát sinh bệnh sùi mào gà

  • Hay phát triển ở da, niêm mạc vùng sinh dục và hậu môn.
  • Ở nam: rãnh quy đầu, bao hành, miệng sáo. Đôi khi lan lên mu, nếp bẹn, thân quy đầu.
  • Ở nữ: môi nhỏ, phần trước của âm đạo, vùng sinh môi.
  • Ở cả 2 giới: có thể gặp ở quanh hậu môn, có khi lan cả vào trong hậu môn.
  • Cần khám kỹ tất cả những vị trí đó, để điều trị ngay, cả những u rất nhỏ nguồn gốc tái phát.

Hình thái sùi mào gà

Ban đầu chỉ là những u nhỏ, trắng nhạt, hồng hoặc màu da thường mặt không đều có răng cưa, hình sợi chỉ hoặc có chân, dần dần u to và nhiều lên thành những đám gồ ghề như bắp cải hoa, có chân, bề mặt nham nhở thành rãnh. Thượng bì không bị loét, nhưng luôn lép nhép rỉ nước, tổn thương mềm, nền không cộm, không đau.

Bài viết Các bệnh da do nguyên nhân virus – ai cũng từng mắc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-benh-da-do-nguyen-nhan-virus-4772/feed/ 0
Bệnh Zona và các liệu pháp kháng virút https://benh.vn/benh-zona-va-cac-lieu-phap-khang-virut-1889/ https://benh.vn/benh-zona-va-cac-lieu-phap-khang-virut-1889/#respond Sat, 12 May 2018 04:03:37 +0000 http://benh2.vn/benh-zona-va-cac-lieu-phap-khang-virut-1889/ Liệu pháp kháng virút đường uống khuyến nghị cho zona ở người lớn có chức năng miễn dịch bình thường với chức năng thận bình thường

Bài viết Bệnh Zona và các liệu pháp kháng virút đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Liệu pháp kháng virút

Tại Hoa Kỳ có ba dược chất được chấp thuận sử dụng trong điều trị zona là acyclovir, valacyclovir, famciclovir.

Liệu pháp kháng virút đường uống khuyến nghị cho zona ở người lớn có chức năng miễn dịch bình thường với chức năng thận bình thường

Acyclovir 800mg mỗi 4 giờ (5 lần mỗi ngày) trong 7 – 10 ngày.

Famciclovir 500mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày.

Valacyclovir 1000mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày.

Acyclovir

Trong những nghiên cứu có đối chứng giả dược, acyclovir (800mg ngày 5 lần) rút ngắn thời gian bài xuất virút, làm ngưng sự hình thành tổn thương mới nhanh chóng hơn, đẩy nhanh tốc độ liền sẹo, và giảm độ nặng của cơn đau cấp (Huff JC, et al. 1998: Morton P, Thomson AN, 1989; McKendrich MW, 1986; Tyring S, et al. 1995).

Một tổng phân tích cho thấy acyclovir tốt hơn có ý nghĩa so với giả dược trong việc giảm thời gian kéo dài của “cơn đau có liên hệ đến zona”, được định nghĩa là sự kéo dài liên tục của đau tính từ lúc khởi bệnh đến lúc lành bệnh hẳn (Wood MJ, et al. 1996). Trong số những BN mà tuổi đời thấp nhất là 50, thời gian trung bình để khỏi cơn đau là 41 ngày so với 101 ngày ở nhóm giả dược; và tỷ lệ đau tồn tại đến 6 tháng là 15% so với 35% ở nhóm giả dược (Wood MJ, et al. 1996).

Valacyclovir

Valacyclovir, một tiền chất của acyclovir, sản sinh nồng độ acyclovir huyết thanh cao cấp gấp 3 – 5 lần nồng độ đạt được nếu dùng acyclovir đường uống. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những BN tuổi trên 50, valacyclovir (1000mg mỗi 8 giờ) và acyclovir cùng mang lại một tiến độ lành da tương đương nhau (Beutner KR, et al. 1995).

Valacyclovir rút ngắn một cách có ý nghĩa thời gian trung bình khỏi hẳn cơn đau có liên hệ đến zona (38 ngày so với 51 ngày, P = 0,001). Tỷ lệ BN còn đau vào thời điểm 6 tháng là 25,7% ở nhóm acyclovir là 19,3% ở nhóm valacyclovir (P = 0,02). Kéo dài trị liệu valacyclovir từ 7 ngày lên 14 ngày không mang lại thêm lợi ích gì.

Famciclovir

Famciclovir (500mg mỗi 8 giờ), một tiền chất của penciclovir, có kết quả tốt hơn so với giả dược trong việc làm giảm thời gian bài xuất virút, hạn chế thời gian hình thành tổn thương mới và đẩy nhanh việc lành sẹo trong một nghiên cứu có đối chứng giả dược (Tyring S và CS 1995). Trong một phân tích ở nhóm phụ của các BN tuổi trên 50 và vẫn tồn tại đau sau khi đã lành da, thời gian kéo dài của đau thần kinh sau zona trung bình là 163 ngày ở nhóm giả dược và 63 ngày ở nhóm famciclovir (P = 0,004) (Tyring S và CS 1995).

Valacyclovir và famciclovir được đem so sánh trong điều trị zona ở những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ và được chứng minh tương đương về mặt trị liệu, xét cả về tiến độ lành da lẫn khỏi đau (Tyring SK, et al. 2000). Valacyclovir và famciclovir được ưa chuộng hơn acyclovir trong điều trị zona vì có bilan dược động học tốt hơn và chế độ dùng thuốc đơn giản hơn.

Cả ba loại thuốc đều an toàn một cách lạ thường và được dung nạp tốt. Không có chống chỉ định nào đối với việc sử dụng các thuốc này, mặc dù cần phải điều chỉnh liều dùng ở những BN bị suy thận. Hiện chưa có thuốc nào trong số các thuốc trên được cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận cho sử dụng ở phụ nữ có thai. Các thuốc kháng virút dùng bôi ngoài không có vai trò gì trong xử trí của bệnh zona.

Zona mắt

Những BN bị zona của nhánh I thần kinh sinh ba điển hình có các triệu chứng đau nửa bên mặt, và các tổn thương ở trán, vùng quanh nhãn cầu và mũi. Nếu không trị liệu kháng virút, khoảng chừng 50% những BN này sẽ có các biến chứng về mắt (như bệnh lý giác mạc, viêm thượng củng mạc, viêm mống mắt hoặc viêm giác mạc nhu mô), một số trong các biến chứng này có tiềm năng gây mù (Cobo M, et al. 1987).

Liệu pháp kháng virút đường uống làm giảm các biến chứng mắt muộn từ khoảng 50% xuống còn từ 20 – 30%. Những BN bị zona mắt nên được một bác sĩ nhãn khoa có kinh nghiệm về xử trí các bệnh lý giác mạc thăm khám và đánh giá (Liesegang TJ. 1999).

Zona ở những BN có huyết thanh HIV dương tính

Bệnh zona ở những BN HIV (+) cũng tương tự như bệnh zona ở những người có chức năng miễn dịch đầy đủ, dù rằng vài điểm khác biệt như tái phát thường xuyên và các tổn thương không điển hình đã được mô tả kỹ lưỡng (Glesby MJ, et al. 1995). Acyclovir đường uống có hiệu quả trong điều trị zona ở BN nhiễm HIV (Ganann JW, et al. 1998). Valacyclovir và famciclovir chưa được đánh giá một cách có hệ thống, mặc dù kinh nghiệm truyền khẩu ám chỉ chúng có hiệu lực.

Vì nguy cơ tái phát ở những BN này, bệnh do virút Varicella Zoster nên được điều trị cho đến khi các tổn thương lành lặn hẳn. Vài trường hợp bệnh hiếm gặp do các virút Varicella Zoster kháng acyclovir gây ra đã được báo cáo ở những BN AIDS giai đoạn muộn, buộc phải điều trị với các thuốc thay thế khác (như foscarnet) (Safrin S, et al. 1991). Sau khi điều chỉnh theo tuổi, tỷ lệ của đau dây thần kinh sau zona ở những BN HIV (+) không khác biệt đáng kể so với tỷ lệ ở khối dân số có chức năng miễn dịch đầy đủ (Glesby MJ, et al. 1995; Gnann JW, 1998)

Theo Thời Sự Y Dược Học (Phần II)

Bài viết Bệnh Zona và các liệu pháp kháng virút đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-zona-va-cac-lieu-phap-khang-virut-1889/feed/ 0
Bệnh Zona và hướng dẫn cách điều trị hiệu quả https://benh.vn/benh-zona-va-cach-dieu-tri-1890/ https://benh.vn/benh-zona-va-cach-dieu-tri-1890/#respond Wed, 04 Apr 2018 04:03:38 +0000 http://benh2.vn/benh-zona-va-cach-dieu-tri-1890/ Bệnh zona là một tình trạng nổi mụn gây đau nhức ở da do virut varicella-zoster gây ra. Ngày nay, việc chẩn đoán zona trên lâm sàng không còn gặp nhiều khó khăn.

Bài viết Bệnh Zona và hướng dẫn cách điều trị hiệu quả đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>

bệnh Zona

Corticosteroid

Có hai nghiên cứu lâm sàng quy mô lớn, có đối chứng lượng giá vai trò của corticosteroid trong kết hợp với acyclovir. Trong cả hai nghiên cứu (Harrison RA, et al. 1999: Wood MJ, et al. 1994), những BN dùng corticosteroid có sự tăng vừa phải nhưng có ý nghĩa thống kê tiến độ lành da và giảm nhẹ được cơn đau cấp tính. Liệu pháp kết hợp mang lại một chất lượng cuộc sống được cải thiện, thể hiện qua việc giảm sử dụng thuốc giảm đau, thời gian có giấc ngủ không đứt quãng dài hơn và thời gian trở lại sinh hoạt thường lệ sớm hơn.

Tuy nhiên không có nghiên cứu nào chứng minh được bất kỳ tác dụng nào của corticosteroid trên tỷ lệ mắc bệnh hoặc thời gian kéo dài của đau dây thần kinh sau zona. Liệu pháp corticosteroid không nên sử dụng ở những BN có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi độc tính do corticosteroid (ví dụ những BN tiểu đường hoặc viêm dạ dày). Liệu pháp kết hợp valacyclovir hoặc famciclovir với cortico-steroid được cho là có hiệu quả tương đương, nhưng chưa được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng. Không có khuyến nghị sử dụng corticosteroid trong zona mà không có liệu pháp kháng virút song hành.

Điều trị triệu chứng

BN nên giữ các tổn thương da được sạch và khô nhằm giảm nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn. Đắp một miếng băng vô khuẩn, không bít hơi, không dính, lên khoanh cảm giác da (dermatome) bị tổn thương sẽ bảo vệ các tổn thương khỏi tiếp xúc với y phục. Đau thần kinh có thể rất nặng và có thể bị đánh giá thấp. Thuốc chẹn giao cảm có thể làm dịu tạm thời nhanh chóng cơn đau nặng (Wu CL, Marsh A. 2000).

Đối với cơn đau dai dẳng, các opioid (thuốc giảm đau trung ương dạng thuốc phiện) tác dụng dài, giải phóng có kiểm soát (uống hoặc dán lên da) được ưa chuộng hơn. Vài mô hình dùng để giải thích cơ chế bệnh sinh của đau thần kinh hậu zona ám chỉ rằng việc sớm giảm nhẹ cơn đau cấp tính có thể ngăn chặn sự khởi động cơ chế trung ương của đau  kinh diễn, bằng cách đó giảm nguy cơ đau thần kinh hậu zona (Gnann JW, Whitley RJ. 1991).

Đau thần kinh hậu zona

Việc điều trị đau thần kinh hậu zona phức tạp, đòi hỏi một tiếp cận nhiều mặt.

Chọn lựa điều trị chứng đau hậu zona

Thuốc Liều khởi đầu Bàn luận Những tác dụng ngoài ý có thể có
Opioids (các dẫn xuất của thuốc phiện) Oxycodone 5mg uống mỗi 6 giờ* Liều toàn bộ 80mg mỗi ngày (hoặc cao hơn) cho những BN có cơn đau dữ dội. Có khả năng cần đến Gây ngủ, buồn nôn, choáng váng, bón, quen thuốc, lạm dụng thuốc
Chống trầm cảm ba vòng Nortryptylin hoặc desipramin 10 – 25mg uống lúc đi ngủ* Liều toàn bộ lên đến 75 – 150mg mỗi ngày, amitriptyline cũng có hiệu quả nhưng có thể kém dung nạp ở người già; ít có kinh nghiệm với các chất ức chế tái thu hồi serotonin chọn lọc Gây ngủ, lú lẫn, các tác dụng kháng Cholinergic (khô miệng, mờ mắt, bón, bí tiểu)
Gabapentin 300mg uống mỗi ngày Tăng liều dần khi cần trong khoảng thời gian 4 tuần lễ, đến một liều toàn bộ hàng ngày là 3600mg (chia làm 3 lần) Buồn ngủ, choáng váng, thất điều, rung giật (nhãn cầu)
Capsaicin

(dạng kem 0,025 – 0,075)

Thoa tại chỗ 3 – 4 lần mỗi ngày Chỉ thoa lên vùng da nguyên vẹn, đã lành; bắt đầu với chế phẩm nồng độ thấp, nếu dung nạp được tăng dần đến chế phẩm có nồng độ cao; có thể cần nhiều ngày đến nhiều tuần lễ để đạt đến kết quả tối đa; có thể mua không cần đơn thuốc Kích thích da tại chỗ và cảm giác rát bỏng làm hạn chế việc sử dụng ở nhiều BN
Lidocain (băng dán 5%) Dán lên vùng bị đau; có thể dùng cùng lúc 3 băng dán trong một thời gian tối đa là 12g Chỉ nên dán lên vùng da đã lành nguyên vẹn; có thể cắt băng dán cho hợp với kích cỡ vùng da, giảm đau nhanh Kích thích da tại chỗ; độc tính toàn thân do việc hấp thu qua da của lidocain nhưng rất hiếm gặp

Các thuốc khác cũng có thể sử dụng được

Các thử nghiệm lâm sàng chứng tỏ rằng opioid; chất chống trầm cảm 3 vòng và gabapentin làm giảm được độ nặng hoặc thời gian kéo dài của đau dây thần kinh hậu zona, dù dùng một mình hoặc kết hợp với nhau. Các tác dụng ngoại ý của những thuốc này có thể hiệp lực, đặc biệt ở những BN già nua. Dùng băng dán lidocain hoặc kem capsaicin tại chỗ có thể mang lại sự dễ chịu cho một số BN (Bernstein JE, et al. 1989: Galer BS, et al. 1999). Trong một nghiên cứu trên các BN đau dây thần kinh hậu zona không khỏi, tiêm vào khoang dưới màng nhện của tủy sống myehyl prednisolon acetat một tuần một lần trong 4 tuần làm giảm đau đáng kể (Kotani N, et al. 2000). Cần có thêm dữ liệu để chứng thực những kết quả bước đầu đầy hứa hẹn này.

Những lĩnh vực chưa xác định

Có phải mỗi BN zona cần trị liệu kháng virút?

Những BN có nguy cơ cao nhất bị biến chứng là những người già, những người bị zona mắt và những BN bị tổn hại miễn dịch. Tuổi càng lớn, vùng da tổn thương có diện tích càng rộng, và lúc đến khám đau càng dữ dội, tất cả là những chỉ tố tiên đoán của đau dai dẳng (Harrison RA et al. 1999: Whitley RJ, et al. 1999). Những BN đáp ứng những tiêu chí này nên được hướng thẳng vào điều trị. Tất cả những BN zona mắt nên được trị liệu kháng virút nhằm mục đích dự phòng biến chứng mắt. Vài BS vẫn còn xem liệu pháp kháng virút là không bắt buộc ở những BN trẻ hơn bị zona không biến chứng, mặc dù liệu pháp có lợi ích và nguy cơ tai biến rất thấp.

Liệu pháp kháng virút có thể thành công ở những BN đến khám sau 72 giờ?

Những nghiên cứu về thuốc kháng virút đều sử dụng các thiết kế tương tự nhau. Các BN được chọn vào nghiên cứu trong vòng 72 giờ sau khởi phát các tổn thương. Trên thực tế, các BN thường đến khám trên 3 ngày sau khi nổi các tổn thương da, nhưng ít có dữ liệu hướng dẫn trị liệu trong tình huống này. Liệu pháp kháng virút được khởi đầu càng sớm, cơ may có đáp ứng lâm sàng càng cao, nhưng một số BN vẫn có lợi ngay cả khi điều trị được bắt đầu sau 3 ngày (Wood MJ, et al. 1998; Decroix J, et al, 2000). Sự hiện diện của các mụn rộp nổi tương ứng với việc virút còn đang sao chép và đây có thể là một dấu ấn nhận biết BN có lẽ vẫn được lợi nếu được trị liệu kháng virút.

Có thể dự phòng chứng đau dây thần kinh sau zona?

Mặc dầu nhiều nghiên cứu cho thấy liệu pháp kháng virút làm giảm thời gian đau, những thuốc kháng virút không ngăn ngừa được chứng đau hậu zona (McKendrick MW, et al. 1989; Jackson JL, et al. 1997; Alper BS, Lewis PR. 2000). Đau dây thần kinh sau zona vẫn có thể xảy ra trên nhóm phụ bệnh nhân được điều trị kháng virút. Trên giả thuyết, kết hợp thuốc kháng virút với giảm đau, chống trầm cảm cấu trúc ba vòng hoặc thuốc chống động kinh ngay lúc khởi phát zona có thể làm giảm chứng đau dây thần kinh sau zona (Dworkin RH, Portenoy RK. 1996; Bowsher D. 1997). Những bước tiếp cận này chưa được chứng minh hiệu quả nhưng cần được khảo sát thêm.

Có thể dự phòng zona?

Vắcxin chủng OKA của virút Varicella Zoster hiện được Hiệp hội tư vấn về Thực hành tiêm chủng khuyến nghị cho vào diện tiêm chủng phổ quát ở trẻ em. Loại vắcxin này làm tăng đáp ứng tế bào lymphô T độc đặc hiệu cho virút Varicella Zoster ở những người già huyết thanh dương tính. Liệu việc tăng cường miễn dịch do vắcxin đem lại có làm giảm tỷ lệ mắc hoặc giảm độ nặng của zona ở những người lớn tuổi hay không đang được khảo sát trong một thử nghiệm lâm sàng (Oxman MN. 1995).

Hướng dẫn xử trí

Hiện không có một hướng dẫn xử trí chính thức nào được ban hành bởi các hội chuyên nghiệp tại Hoa Kỳ.

Kết luận và khuyến nghị

Zona có thể xảy ra ở bất kỳ người nào đã từng bị thủy đậu nhưng thường gặp hơn khi tuổi đời càng tăng và ở những BN bị tổn hại miễn dịch. Chẩn đoán thường được xác lập trên lâm sàng, nhưng một xét nghiệm định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể có ích trong những trường hợp không điển hình. Acyclovir, valacyclovir và famciclovir được chấp thuận trong điều trị zona. Những thuốc này dung nạp tốt và tương tự nhau nếu xét riêng về hiệu lực lẫn tính an toàn.

Tuy nhiên, do có các đặc điểm dược động học được cải thiện và chế độ liều dùng đơn giản hơn, valacyclovir và famciclovir là những thuốc được ưa chuộng hơn cho điều trị zona. Những BN lớn tuổi, đặc biệt là những người trên 60 tuổi đau dữ dội lúc đến khám, là những người có nguy cơ cao bị bệnh nặng hơn và có biến chứng, nên được điều trị kháng virút, giống như BN được mô tả trong trường hợp minh họa. Bắt buộc sử dụng liệu pháp kháng virút ở những BN zona mắt, chủ yếu để dự phòng các biến chứng ở mắt có tiềm năng gây mù.

Nhằm làm giảm thời gian kéo dài và độ nặng của các triệu chứng cấp tính, có thể xét đến một liệu pháp bổ sung với corticosteroid ở những BN lớn tuổi nếu không có chống chỉ định nào. Tiềm năng bị đau nghiêm trọng ở những BN zona không nên đánh giá thấp và thường sẽ phải cần đến các loại thuốc giảm đau mạnh. Không một đơn trị liệu nào được chứng tỏ có hiệu quả trong điều trị đau dây thần kinh sau zona. Thường là phải cần đến một liệu pháp kết hợp và hội chẩn với một chuyên viên về điều trị đau.

Theo Thời Sự Y Dược Học (Phần III)

Bài viết Bệnh Zona và hướng dẫn cách điều trị hiệu quả đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/benh-zona-va-cach-dieu-tri-1890/feed/ 0
Các giai đoạn của bệnh zona và cách điều trị https://benh.vn/cac-giai-doan-cua-benh-zona-va-cach-dieu-tri-1891/ https://benh.vn/cac-giai-doan-cua-benh-zona-va-cach-dieu-tri-1891/#respond Sun, 04 Mar 2018 04:03:39 +0000 http://benh2.vn/cac-giai-doan-cua-benh-zona-va-cach-dieu-tri-1891/ Các giai đoạn của bệnh zona biểu hiện và cách điều trị

Bài viết Các giai đoạn của bệnh zona và cách điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>

Các giai đoạn của bệnh zona biểu hiện và cách điều trị

Các giai đoạn của bệnh zona và cách điều trị

Bệnh zona có ba giai đoạn:

Giai đoạn đầu của bệnh zona được gọi là Giai đoạn Prodromal.

Đây là giai đoạn trước khi phát ban. Khi bệnh zona mới xuất hiện thông thường người bệnh sẽ có cảm giác ngứa ran, đau, hoặc nóng ran ở một vùng cụ thể trên cơ thể.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn phát triển:

Giai đoạn này trên một vùng cơ thể bắt đầu phát ban, mụn nước bắt đầu xuất hiện. Các vùng hay bị zona tấn công phổ biến nhất là các thân và mặt. Ban đầu, các chất lỏng bên trong có màu trong nhưng dần hình thành mủ và đục. Tại giai đoạn này của bệnh zona, cơn đau bắt đầu tăng dần và nó làm người bệnh có cảm giác đau nhức. Các vết thương cuối cùng sẽ đóng vẩy và các vùng phát ban có thể chữa lành trong khoảng 2-4 tuần … đôi khi lâu hơn.

Một trong những giai đoạn tiếp theo  của bệnh zona là đau dây thần kinh sau Herpetic .

Ở giai đoạn này, bệnh trở nên nghiêm trọng, đặc trưng là nhưng cơn đau cùng cực, nóng rát, đâm xuyên, dai dẳng.

Giai đoạn lây nhiễm nhất là giai đoạn phát triển của bệnh, đặc biệt là những người đang có một hệ thống miễn dịch suy yếu. Một khi các mụn nước bắt đầu bị phá vỡ, sự nhiễm trùng gia tăng và làm tăng khả năng lây nhiễm. Ngoài ra, bệnh zona có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho mắt và có thể làm tổn thương vĩnh viễn.

Sau đây là một số phương pháp điều trị:

Đầu tiên, virus bệnh zona là do virus varicella-zoster herpes (còn gọi đơn giản là zoster). Virut này cùng loại virus gây ra thủy đậu (mà hầu hết mọi người đều mắc khi còn bé). Virus này không bao giờ hoàn toàn biến mất, nó chỉ ở trạng thái ngủ (không hoạt động) bên trong cơ thể của bạn.

Khi xảy ra bệnh zona, virus này sẽ hoạt động trở lại và nó có thể bùng phát thành nhưng mảng mụn nước gây ra đau đớn cực kỳ cho người bệnh. Tóm lại Bệnh zona là gì, về cơ bản là bệnh viêm dây thần kinh và vùng da xung quanh nó.

Hầu hết các trường hợp bệnh zona sẽ kéo dài khoảng 2-4 tuần. Mặc dù, nó có thể được điều trị nhưng vẫn có cơ hội quay trở lại.

Một số trường hợp bác sĩ sẽ kê toa cho thuốc cụ thể như:

Thuốc giảm đau:

Efferalgan codein (paracetamol + codein). Thuốc là loại thuốc sủi bọt, có tác dụng giảm đau mạnh. Các trường hợp bệnh nhân dị ứng với thành phần của thuốc, hoặc bệnh nhân suy gan – thận không được dùng. Ngoài ra có thể dùng thuốc giảm đau chống viêm không corticoid như aspirin. Lưu ý, uống sau ăn no. Chống chỉ định trong trường hợp loét dạ dày – tá tràng, dị ứng với thành phần của thuốc.

Corticoid (prednisolon):

Liều 1mg/kg/ngày x 3 ngày đầu, sau đó giảm dần (giảm 10mg mỗi 3 ngày) rồi cắt, thường uống trong vòng 15 ngày. Chống chỉ định trong trường hợp có mẫn cảm với thuốc. Thận trọng cho người bệnh loãng xương, loét dạ dày – tá tràng, tiểu đường, tăng huyết áp, suy tim, trẻ em đang lớn. Tác dụng không mong muốn: mất ngủ, thần kinh dễ bị kích động, đục thể thủy tinh, glôcôm, phù, tăng huyết áp, loét dạ dày – tá tràng, loét thực quản, viêm tuỵ…

Thuốc kháng virut (acyclovir, famyclovir…):

Viên nén 200mg, 400mg, 800mg. Liều 800mg x 5 lần/ngày, mỗi lần cách nhau 4 giờ. Thời gian điều trị từ 5-7 ngày. Thuốc được dùng ngay khi mới mắc bệnh hoặc khi có mụn nước xuất hiện. Thuốc có tác dụng làm giảm cường độ và thời gian đau sau zona, càng điều trị sớm hiệu quả càng cao. Chống chỉ định trong trường hợp có mẫn cảm với thuốc. Tác dụng không mong muốn: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, nhức đầu. Thận trọng trong trường hợp có thai và cho con bú.

Thuốc bôi tại chỗ:

Trong thời gian mụn nước xuất hiện, vệ sinh sạch sẽ và dùng Acyclovir (tên thương mại thường thấy là Zovirax) để bôi. Thuốc này có thể giúp bệnh nhân giảm ngứa

 Trường hợp đau sau khi Zona đã bị đẩy lùi

Amitriptyline: viên nén 25mg, liều từ 25-75mg/ngày chia 2 lần. Lúc đầu dùng liều thấp sau tăng dần. Thuốc có tác dụng tốt trong trường hợp đau rát bỏng, đau như xé. Tác dụng phụ: hạ huyết áp tư thế, ngủ gà, lú lẫn, khô miệng, run, táo bón, bí đái, tăng cân. Chống chỉ định: glôcôm góc đóng, u tuyến tiền liệt, loạn nhịp tim, rối loạn dẫn truyền, động kinh, có thai.

Trong trường hợp đau từng cơn, đau như dao đâm, đau nhói hoặc co cơ hay máy cơ… có thể dùng các thuốc sau với liều thấp sau đó tăng dần tới liều tác dụng.

Carbamazepin (tegretol): viên nén 200mg, liều lượng từ 400 – 1200mg/ngày. Tác dụng không mong muốn: chóng mặt, buồn nôn lúc bắt đầu điều trị (hạn chế bằng cách tăng liều dần); hội chứng tiền đình tiểu não hoặc lú lẫn do quá liều; giảm nhẹ bạch cầu trung tính; rối loạn dẫn truyền tim; phản ứng đặc ứng (nhiễm độc da, viêm gan, thiểu sản tuỷ xương). Chống chỉ định: Block nhĩ – thất (nhịp tim chậm).

Clonazepam (rivotril): viên nén 2mg, liều từ 1 – 4mg/ngày. Tác dụng không mong muốn: ngủ gà, giảm trí nhớ (người già). Chống chỉ định trong trường hợp mẫn cảm với thuốc.

Gabapentin (neurontin): viên nén 300mg, liều từ 900mg-2.000mg/ngày. Tác dụng không mong muốn: ngủ gà, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, đi loạng choạng, run. Chống chỉ định trong trường hợp có thai hoặc cho con bú, dị ứng với các thành phần của thuốc.

Bệnh nhân có thể dùng một số thuốc bôi tại chỗ: voltarel gel, aspirin gel… trong vòng 4 tuần. Ngoài ra, bệnh nhân cần được dùng thêm một số loại vitamin nhóm B, C, E… và có thể châm cứu phối hợp

Bài viết Các giai đoạn của bệnh zona và cách điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/cac-giai-doan-cua-benh-zona-va-cach-dieu-tri-1891/feed/ 0
Zona và cách phòng bệnh https://benh.vn/zona-va-cach-phong-benh-1887/ https://benh.vn/zona-va-cach-phong-benh-1887/#respond Sun, 04 Mar 2018 04:03:35 +0000 http://benh2.vn/zona-va-cach-phong-benh-1887/ Bệnh zona về cơ bản là bệnh do một loài Herpes virus có tên là Varicella Zoster virus (VZV) gây ra. Virus này thường gây bệnh thủy đậu (bệnh trái rạ = varicella) ở trẻ em, nhưng sau đó virus có thể nằm ngủ yên trong hạch rễ thần kinh lưng nhiều chục năm, để rồi khi có cơ hội sẽ tái xuất hiện và gây ra bệnh zona (dời leo) thường xảy ra ở người lớn tuổi.

Bài viết Zona và cách phòng bệnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>

Zona và cách phòng bệnh

Zona là gì?

Bệnh zona về cơ bản là bệnh do một loài Herpes virus có tên là Varicella Zoster virus (VZV) gây ra. Virus này thường gây bệnh thủy đậu (bệnh trái rạ = varicella) ở trẻ em, nhưng sau đó virus có thể nằm ngủ yên trong hạch rễ thần kinh lưng nhiều chục năm, để rồi khi có cơ hội sẽ tái xuất hiện và gây ra bệnh zona (dời leo) thường xảy ra ở người lớn tuổi.

Sở dĩ gọi là bệnh dời leo vì triệu chứng bệnh khi phát ra bằng những mụn đỏ, sau đó mưng mủ, xếp thành một vạt dài, thường khu trú ở vùng hông, lưng, cổ, đùi hoặc cánh tay,… nên có thể nhầm với chứng dị ứng do dịch tiết.

Đây là bệnh viêm dây thần kinh với vùng phát ban thường dát, sẩn, tiến triển thành các cụm mụn nước trong 3 – 5 ngày sau và diễn tiến qua các giai đoạn hóa mũ, loét và đóng vảy. Lành tổn thương xảy ra trong khoảng thời gian từ 2 – 4 tuần, thường để lại sẹo và những thay đổi màu da vĩnh viễn. Người bệnh có thể cực kỳ đau đớn khó chịu và có cảm giác đâm xuyên liên tục.

Triệu chứng

Các triệu chứng phổ biến nhất của bệnh zona là đau dây thần kinh và phát ban mụn nước, một số triệu chứng khác của Zona là: mệt mỏi, đau đầu, sốt, mất trí nhớ, đau bụng, ăn không ngon v.v

Bệnh Zona có thể gây một số tổn thương ở nhiều vùng khác nhau đặc biệt là vùng mắt có thể dẫn đến mù mắt nếu tổn thương vào dây thần kinh thị giác; liệt mặt, mất vị giác do tổn thương vào dây thần kinh số VII (dây thần kinh mặt); viêm não khi có tổn thương não; bệnh có thể gây nguy hiểm cho thai nhi nếu phụ nữ đang mang thai mắc bệnh. Dịch ở mụn nước ngoài da có chứa mầm bệnh do đó nên tránh tiếp xúc trực tiếp (tiếp xúc thân thể) để tránh lây nhiễm và phòng bội nhiễm

Thời điểm nào bệnh zona hay xuất hiện

– Bệnh zona thường tấn công khi hệ thống miễn dịch bị suy yếu hoặc bị tổn hại.

– Khi bạn gặp rất nhiều căng thẳng hoặc có biến cố trong cuộc sống của bạn

– Bạn mắc một số bệnh khác làm suy yếu khả năng miễn dịch của bạn chẳng hạn như HIV hoặc lupus.

Một số cách đơn giản để đẩy lùi bệnh zona

– Cách đầu tiên giúp bạn thoát khỏi bệnh zona là nâng cao khả năng miễn dịch, và làm cho cơ thể bạn trở nên khỏe mạnh.

– Nếu bạn đang phải đối mặt với căng thẳng thì hay cố gắng dành nhiều thời gian để thư giãn và cân bằng lại cuộc sống. Có thể tham gia các hoạt động về thể chất và thiền để sức khỏe tốt hơn, tinh thần thoải mái hơn.

– Phải xây dựng một chế độ ăn uống tốt, ăn nhiều rau xanh và trái cây như kiwi, dưa hấu, rau bina, rau diếp, cà chua, dưa leo là nhưng loại rau quả tốt cho việc cung cấp vitamin

– Uống nhiều nước là rất quan trọng để cơ thể thải rachất độc thông qua hệ thống tiết niệu của bạn. Tránh dùng nước máy, vì nó chứa đầy chất clo và các hóa chất khác. Nên dùng nước sạch vì nó đảm bảo sự cân bằng pH âm. Nước chanh cũng rất tốt cho cơ thể.

– Uống thêm các thực phẩm bổ sung và vitamin như dùng vitamin C liều cao để nâng cao khả năng miễn dịch cho cơ thể một cách nhanh nhất vì thực phẩm qua quá trình xơ chế và nấu chín không còn đủ lượng vitamin cần thiết trong giai đoạn này

Benh.vn

Bài viết Zona và cách phòng bệnh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/zona-va-cach-phong-benh-1887/feed/ 0
Một số cách đơn giảm để hỗ trợ điều trị bệnh Zona https://benh.vn/mot-so-cach-don-giam-de-ho-tro-dieu-tri-benh-zona-1892/ https://benh.vn/mot-so-cach-don-giam-de-ho-tro-dieu-tri-benh-zona-1892/#respond Sun, 04 Feb 2018 04:03:41 +0000 http://benh2.vn/mot-so-cach-don-giam-de-ho-tro-dieu-tri-benh-zona-1892/ Một số cách đơn giản để hỗ trợ điều trị bệnh Zona.

Bài viết Một số cách đơn giảm để hỗ trợ điều trị bệnh Zona đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Một số cách đơn giản để hỗ trợ điều trị bệnh Zona:

1. Sử dụng vải ướp lạnh hoặc túi đá

Bạn có thể sử dụng một túi nước đá hoặc một miếng vải ướt chườm lên vùng tê đau ít nhất 20 phút nó sẽ giúp bạn cảm thấy dễ chịu hơn.

2. Lotion Calamine

Bạn cũng có thể sử dụng kem dưỡng da để giảm ngứa calamin hoặc thậm chí Vitamin E dầu hoặc Aloe Vera Gel.

3. Chè xanh

Một phương pháp hiệu quả là sử dụng chè xanh lau sạch  khu vực bị nhiễm bệnh ít nhất 3-4 lần/ ngày . Lợi ích của chè xanh là giúp ngăn chặn sự sinh sản của virus và sẽ giúp vết thưởng đóng vẩy nhanh chóng.

4. Lá bạc hà

Lá bạc hà có thể hoạt động như một chất làm mát cho làn da và sẽ giúp giảm đau  nhanh chóng. Bạn lấy 3 hoặc 4 lá bạc hà giã ra, áp nó vào vùng phát ban và mụn nước. Đây là biện pháp rất hiệu quả.

5. Chế độ ăn

Một trong những phương pháp điều trị bệnh zona tốt nhất mà thường bị bỏ qua là  chế độ ăn uống thích hợp.

6. Nước lọc

Uống nhiều nước để cơ thể giải độc

7. Vitamin C liều cao

Uống vitamin C liều cao để tăng khả năng miễn dịch

8. Kinh nghiệm dân gian

Khi bệnh mới phát có thể dùng hạt đậu xanh nguyên vỏ, nhai nát thành bột nhão, phun lên chỗ bị zona; để tự nhiên cho bột khô và kết dính thành một lớp dày che chở vùng da bị tổn thương, đồng thời hạn chế sự lan rộng của bệnh

Bài viết Một số cách đơn giảm để hỗ trợ điều trị bệnh Zona đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/mot-so-cach-don-giam-de-ho-tro-dieu-tri-benh-zona-1892/feed/ 0