Bài viết Ngộ độc Paracetamol – Nguyên nhân, chẩn đoán và cách điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Paracetamol (N-acetyl-para-aminophenol or APAP) là thành phần có mặt trong hàng trăm loại biệt dược, thuốc generic khác nhau bán trên thị trường mà không cần đơn của bác sỹ. Các sản phẩm chứa Paracetamol được bán ra không cần đơn thuốc. Các sản phẩm chứa Paracetamol bao gồm nhiều chế phẩm dành cho trẻ em và cả người lớn, dạng bào chế khác nhau có thể dưới dạng lỏng, viên, dạng nang và nhiều chế phẩm điều trị ho và cảm lạnh. Ngoài các thuốc không kê đơn, có một số chế phẩm kết hợp nhiều thành phần, trong đó có chứa Paracetamol cũng được lưu hành dạng thuốc kê đơn, do đó, ngộ độc và quá liều Paracetamol trở nên khá phổ biến.
Paracetamol chủ yếu được chuyển hóa trong gan theo con đường liên hợp với acid Glucoronic và Sulfat (85%). Một con đường khác là hình thành chất chuyển hóa trung gian N-acetyl benzoquinoneimin (NAPQI) dưới xúc tác của enzyme cytochrome P450 tại gan. Sau đó, Glutathione lưu trữ trong gan giải độc chất chuyển hóa này.
Khi bị ngộ độc Paracetamol cấp tính sẽ làm giảm lượng Glutathione lưu trừ trong gan. Kết quả là, NAPQI có thể tích tụ theo thời gian, gây hoại tử tế bào gan và có thể gây tổn thương các cơ quan khác như thận, tụy. Trên lý thuyết, bệnh gan do rượu hoặc suy dinh dưỡng có thể làm tăng nguy cơ ngộ độc gan. Tuy nhiên, ở bệnh nhân nghiện rượu sử dụng liều điều trị Paracetamol thì không có liên quan đến tổn thương gan.
Ngộ độc gan có thể xảy ra ở liều tổng ≥ 150 mg/kg trong vòng 24 giờ. Ví dụ với trẻ 10kg thì liều độc gan của Paracetamol là 1,500mg trong vòng 24h, nghĩa là trong vòng 24h sử dụng tổng liều lượng 1,500mg tương đương với 3 viên Paracetamol 500mg ở trẻ 10kg.
Paracetamol dạng truyền tĩnh mạch: Việc dùng Paracetamol đường tĩnh mạch trong bệnh viện, đối với bệnh nhân > 2 tuổi có liên quan đến nhiều báo cáo về việc sử dụng quá liều, bao gồm một vài chục trường hợp tử vong, một số ở trẻ em. Các trường hợp sai sót này chủ yếu gây ra do nhầm lẫn thuốc được định liều theo mg nhưng pha chế trong ml.
Ngộ độc mức độ nhẹ không gây triệu chứng, nếu có, các triệu chứng ngộ độc cấp tính acetaminophen thường nhẹ đến ≥ 48 giờ sau khi uống. 4 Triệu chứng xảy ra trong giai đoạn (xem bảng Các Giai đoạn Ngộ độc Acetaminophen Cấp tính), bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, và đau bụng hạ sườn phải. Suy thận và viêm tụy có thể xảy ra, đôi khi không có suy gan. Sau > 5 ngày, tổn thương độc gan được giải quyết hoặc tiến triển thành suy đa tạng, có thể gây tử vong.
Các Giai đoạn Ngộ độc Paracetamol Cấp tính
Chẩn đoán ngộ độc Paracetamol dựa vào:
Nguy cơ và mức độ nghiêm trọng của độc tính trên gan do uống Paracetamol cấp tính có thể dự đoán được bằng lượng uống vào hoặc, chính xác hơn, là nồng độ Paracetamol trong huyết thanh. Nếu biết thời gian uống giai đoạn cấp tính, thì này được sử dụng để ước tính khả năng nhiễm độc gan; nếu thời điểm nuốt phải không xác định được, không thể sử dụng nomogram. Đối với uống liều duy nhất quá liều cấp tính loại Paracetamol truyền thống hoặc loại Paracetamol giải phóng nhanh (được hấp thụ từ 7 đến 8 phút hoặc nhanh hơn), các mức đo được ≥ 4 giờ sau khi uống được dựng lên đồ thị. Nồng độ ≤ 150 mcg/mL (≤ 990 micromol/L) và không có các triệu chứng ngộ độc cho thấy khả năng gây độc gan là rất khó xảy ra. Nồng độ cao hơn cho biết có khả năng gây độc cho gan. Đối với uống liều duy nhất quá liều cấp tính loại Paracetamol giải phóng chậm (có 2 nồng độ đỉnh huyết thanh cách nhau khoảng 4 giờ), nồng độ Paracetamol được đo ≥ 4 giờ sau khi uống và 4 giờ sau đó; nếu một trong hai nồng độ nằm trên đường gây độc của đồ thị Rumack-Matthew, thì cần phải điều trị.
Nếu không thể xác nhận thời điểm chính xác của một lần uống, thì trường hợp xấu nhất được giả định là xác định nguy cơ. Đó là, thời gian uống vào sớm nhất có thể được ước tính và sau đó được vẽ trên biểu đồ Rumack-Matthew. Ví dụ: nếu một bệnh nhân nói rằng đã dùng quá liều trong khoảng từ 6 giờ đến 9 giờ tối, thì 6 giờ chiều được dùng làm thời gian uống thuốc (trường hợp xấu nhất). Tương tự, nếu một đứa trẻ sống trong một ngôi nhà không có sản phẩm Paracetamol nhưng trong 24 giờ trước đó đến thăm một người họ hàng có sản phẩm như vậy, thì nồng độ Paracetamol được rút ra khi trình bày sẽ được hiểu là mức 24 giờ. Trong thực tế, các ước tính trong trường hợp xấu nhất thường khó thực hiện.
Đồ thị Rumack-Matthew đối với uống một liều cấp tính Paracetamol .
Đồ thị bán Logarit của nồng độ Paracetamol trong huyết thương theo thời gian. Lưu ý để sử dụngđồ thị này:
Được chuyển thể từ Rumack BH, Matthew H: Ngộ độc Paracetamol và độc tính. Khoa nhi 55 (6): 871-876, 1975; sao chép được sự cho phép Khoa nhi.
Nếu ngộ độc đã xác nhận hoặc nghi ngờ mạnh mẽ hoặc nếu thời gian uống không rõ ràng hoặc không biết, cần làm thêm các xét nghiệm. Xét nghiệm chức năng gan được thực hiện, và trong trường hợp nghi ngờ ngộ độc nghiêm trọng, cần làm xét nghiệm PT. Aspartate aminotransferase (AST) và alanine aminotransferase (ALT) tương quan với giai đoạn ngộ độc (xem bảng Các Giai đoạn Ngộ độc Paracetamol Cấp tính). Mức AST > 1000 IU/L thường là do ngộ độc Paracetamol hơn là viêm gan mạn tính hoặc bệnh gan do rượu. Nếu ngộ độc nặng, bilirubin và INR có thể tăng.
Tăng nồng độ transaminase ở mức độ thấp (ví dụ, lên đến 2 hoặc 3 lần so với giới hạn trên của bình thường) có thể xảy ra ở người lớn dùng liều điều trị Paracetamol n trong vài ngày hoặc vài tuần. Sự tăng lên này là thoáng qua, thường tự hết hoặc giảm đi trong vòng vài ngày (ngay cả khi tiếp tục sử dụng Paracetamol ), thường không có triệu chứng lâm sàng, và không đáng kể.
Paracetamol /cysteine protein adducts là một chỉ số sinh học mới được phát triển và đưa ra thị trường như các chỉ số tổn thương độc gan do Paracetamol . Mặc dù các chỉ số thị sinh học có thể cho thấy có sự tiếp xúc với Paracetamol , nhưng không cho khẳng định được tổn thương độc gan do Paracetamol . Các chất chỉ điểm sinh học khác như microRNA, nhóm khả năng di động cao box-1 (HMGB-1) và keratin-18 đang được nghiên cứu nhưng không phải là công cụ chẩn đoán tiêu chuẩn.
Với điều trị thích hợp, hiếm khi gây tử vong.
Các chỉ số tiên lượng xấu trong 24 đến 48 giờ bao gồm tất cả những điều sau đây:
Ngộ độc cấp Paracetamol không dẫn đến xơ gan.
Có thể dùng than hoạt tính nếu Paracetamol có thể vẫn còn ở trong đường tiêu hoá.
N-Acetylcysteine là thuốc giải độc cho ngộ độc Paracetamol . Thuốc này là tiền chất của glutathione, làm giảm độc tính Paracetamol bằng cách tăng glutathione dự trữ ở gan và có thể thông qua các cơ chế khác. Nó giúp ngăn ngừa nhiễm độc gan bằng cách bất hoạt chất chuyển hóa Paracetamol độc hại NAPQI (N-acetyl-p-benzoquinone imine) trước khi nó có thể làm tổn thương tế bào gan. Tuy nhiên, nó không làm cứu được các tế bào gan đã bị tổn thương.
Đối với ngộ độc cấp, N-acetylcysteine được cho nếu có độc gan, dựa trên liều dùng Paracetamol hoặc nồng độ huyết thanh. Thuốc có hiệu quả nhất nếu được dùng trong vòng 8 giờ kể từ khi uống Paracetamol . Sau 24 giờ, lợi ích của thuốc giải độc là không rõ ràng, tuy nhiên vẫn nên dùng. Nếu không chắc chắn mức độ gây độc, -acetylcysteine nên được cho đến khi độc tính bị loại trừ.
N-Acetylcystein có hiệu quả tương đương giữa đường truyên tĩnh mạch và đường uống. Liệu pháp truyền tĩnh mach được dùng dưới dạng truyền liên tục. Liều nạp 150 mg/kg trong 200 mL dung dịch 5% D/W trong 15 phút tiếp theo là liều duy trì 50 mg/kg trong 500 mL dung dịch 5% D/W trong 4 giờ, sau đó 100 mg/kg trong 1000 mL dung dịch 5% D/W ưtrong 16 h. Đối với trẻ em, cần phải điều chỉnh liều lượng để giảm tổng thể lượng dịch đưa vào; nên tham khảo với trung tâm kiểm soát chất độc.
Liều uống của Nacetylcystein là 140 mg/kg. Liều này được theo sau bởi 17 liều bổ sung là 70 mg/kg mỗi 4 giờ. Acetylcysteine không dễ uống; nó được pha loãng với tỉ lệ 1: 4 trong nước giải khát có ga hoặc nước trái cây và có thể vẫn gây nôn. Nếu xảy ra tình trạng nôn, có thể sử dụng thuốc chống nôn; nếu nôn xảy ra trong vòng 1 giờ từ lúc uống, cần uống liều lặp lại. Tuy nhiên, nôn ói có thể kéo dài và có thể hạn chế sử dụng thuốc. Phản ứng dị ứng là bất thường nhưng đã xảy ra khi dùng đường uống và IV.
Điều trị suy gan là điều trị hỗ trợ. Bệnh nhân bị suy gan nặng có thể cần phải ghép gan.
Khi dùng quá liều lượng lớn Paracetamol , bệnh nhân uống > 50 gam Paracetamol có thể bị nhiễm toan chuyển hóa nghiêm trọng, hôn mê, hôn mê và tăng đường huyết trong vòng 4 giờ sau khi uống. Không rõ cơ chế chính xác. Các báo cáo trường hợp mô tả điều trị thành công với việc truyền N-acetylcysteine liên tục cho đến khi không phát hiện thấy Paracetamol trong huyết thanh. Điều trị thành công khi uống nhiều Paracetamol đã được báo cáo bằng thẩm tách máu ngắt quãng và thẩm tách máu tĩnh mạch liên tục. Nên tham khảo ý kiến của trung tâm kiểm soát chất độc hoặc bác sĩ chuyên khoa chất độc.
Những điểm chính
Sử dụng quá mức mạn tính hoặc dùng quá liều lặp lại gây ra độc gan ở một số ít bệnh nhân. Thông thường, quá liều mạn tính không phải là do tự tổn thương, mà là kết quả của việc sử dụng liều cao không thích hợp để điều trị đau. Triệu chứng có thể vắng mặt hoặc có thể bao gồm bất kỳ các triệu chứng có thể xảy ra khi dùng thuốc quá liều.
Không thể sử dụng đồ thị Rumack-Matthew, nhưng có thể ước tính tình trạng gây độc gan đáng kể dựa trên AST, ALT và nồng độ Paracetamol huyết thanh.
Vai trò của N-acetylcystein trong điều trị bệnh ngộ độc Paracetamol mạn tính hoặc có biểu hiện độc gan cấp tính là không rõ ràng. Về mặt lý thuyết, thuốc giải độc có thể có một số lợi ích nếu được dùng > 24 giờ sau khi uống nếu Paracetamol còn sót lại (chưa được chuyển hóa). Phương pháp tiếp cận sau chưa được chứng minh có hiệu quả nhưng có thể được sử dụng:
Các yếu tố tiên lượng cũng tương tự như trường hợp ngộ độc cấp tính Paracetamol .
Theo msdmanuals.com
Bài viết Ngộ độc Paracetamol – Nguyên nhân, chẩn đoán và cách điều trị đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Dấu hiệu và xử trí ngộ độc thủy ngân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Vụ việc 3000m2 nhà kho công ty bóng đèn rạng động đã bị thiêu rụi hoàn toàn trong suốt 5 tiếng chiều tối ngày 28/08, cuốn phăng theo hàng nghìn chiếc bóng đèn COMPACT cùng với lượng lớn thuỷ ngân đã bị đốt cháy bốc hơi vào không khí, đất và nước.
Tùy thuộc vào dạng hợp chất chứa thủy ngân và đường tiếp xúc. Dạng thủy ngân trong sản xuất bóng đèn ở dạng hơi vô cơ.
Hơi Hg hấp thu nhanh qua đường hô hấp. Gần 80% hơi Hg hít vào được giữ lại ngay trong cơ thể vào phổi, đến não gây rối loạn thần kinh trung ương
Hg vô cơ khó xâm nhập vào cơ thể, ít ảnh hưởng hệ Thần kinh trung ương, ít ảnh hưởng tới bào thi, nhưng ăn phải 1 lượng lớn sẽ gây tổn thương thận
Do hít phải hơi Hg: kích ứng phổi, viêm nướu cấp, nếu là nồng độ cao gây viêm phổi nặng, phù phổi
Do muối Hg qua đường tiêu hóa (đặc biệt HgCl2)
RL tiêu hóa:
Thường xuất hiện vào ngày t3, sau khi các triệu chứng trên đã giảm
Tổn thương thận:
Nếu qua khỏi cũng khó phục hồi vì phủ tạng bị hủy hoại nặng do Hg đào thải chậm
Do hơi Hg:
Do muối Hg qua đường tiêu hóa:
Các trường hợp cấp tính cần đưa ngay bệnh nhân đến các trung tâm y tế để được xử lý
Ngộ độc hơi Hg qua đường hô hấp cấp tính
Ngộ độc muối Hg qua đường tiêu hóa cấp tính
Loại chất độc ra khỏi cơ thể:
Hy vọng với các kiến thức trên bạn có thể giúp bạn bảo vệ tốt hơn sức khỏe của mình
Bài viết Dấu hiệu và xử trí ngộ độc thủy ngân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cách xử lý khi trẻ bị ngộ độc rượu, dầu hỏa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Theo thông tin từ Bệnh viện Nhi trung ương, mỗi năm bệnh viện tiếp nhận khoảng 1.100-1.200 trẻ bị các loại tai nạn thương tích, đặc biệt trong mùa hè số trẻ bị tai nạn, kể cả uống nhầm hóa chất, tăng hơn so với bình thường.
Bé V, T uống nhầm dầu hỏa
Theo thông tin từ gia đình, bé V. sang nhà hàng xóm chơi, thấy một chai nước ngọt dưới gầm bàn, bé đã lấy uống khoảng nửa chai. Ngay sau đó gia đình phát hiện mặt bé đỏ, nôn, người co giật, hơi thở có nhiều mùi rượu nên đã đưa đến Bệnh viện Đa khoa huyện Hàm Yên cấp cứu, sau đó bé được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Tuyên Quang điều trị.
Tương tự, trường hợp bé T. Khi chơi trong nhà bé lấy dầu hỏa trong chai để dưới gầm bàn thờ rồi mở nắp uống. Sau khi uống bé ho nhiều, nhiều đờm dãi, da mặt tím tái, khó thở nên gia đình chuyển ngay bé đi cấp cứu.
Hiện cả hai bé đã được điều trị an thần, truyền dịch, dùng kháng sinh, chống viêm, làm các xét nghiệm cần thiết.
Bác sĩ khuyến cáo gia đình không nên tận dụng các loại vỏ chai đựng nước đã dùng hết để đựng rượu, dầu đốt đèn hay hóa chất. Nếu gia đình có chai lọ chứa các dung dịch dạng này cần để ở ngoài tầm tay trẻ em để tránh các trường hợp trẻ uống nhầm loại nước này gây ngộ độc.
Khi phát hiện trẻ uống nhầm rượu, dầu hỏa hoặc các hóa chất khác, gia đình cần nhanh chóng đưa ngay tới cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu, giải độc. Khi đi mang theo chai trẻ uống nhầm để các bác sĩ xác định được loại độc nào để có hướng xử lý kịp thời và chính xác.
Gây nôn khi trẻ uống nhầm rượu, ngược lại trẻ uống nhầm dầu hỏa không được gây nôn
Các bác sĩ cũng cảnh báo trẻ uống nhầm rượu có thể suy hô hấp, rối loạn nhịp tim và thần kinh, uống nhiều có nguy cơ tử vong. Nếu trẻ uống nhầm rượu, gia đình nên gây nôn (ói) cho trẻ ngay.
Tuy nhiên, trẻ uống nhầm dầu hỏa có thể gây suy hô hấp, khó thở nặng, gia đình cần bình tĩnh đưa trẻ đến bệnh viện, không tự ý gây nôn cho trẻ do khi gây nôn, hóa chất có thể tràn vào khí quản làm trẻ viêm phổi, tổn thương phế nang với tình trạng nặng hơn thông thường.
Bài viết Cách xử lý khi trẻ bị ngộ độc rượu, dầu hỏa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Phòng bệnh và sơ cứu ngộ độc khí carbon Monocyd đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Theo một nghiên cứu của Mỹ năm 2012, các tai nạn liên quan đến ngộ độc khí CO từ năm 1991-2009 cho thấy có 1888 trường hợp bị nhiễm khí CO, tử vong 75 ca. Hấu hết tử vong (94%) là xảy ra tại nhà và nguyên nhân hàng đầu là do dùng máy phát điện trong nhà tới 83%, do dùng than củi để sưởi vào mùa đông.
Khí carbon monocyd (CO) là một chất khí không màu, không mùi và không gây kích thích, có khả năng khuếch tán mạnh. Do vậy, khi bị ngộ độc thường khó phát hiện, đến khi người bệnh nhận biết được mình bị nhiễm độc thì họ không còn khả năng gọi cấp cứu nữa. Là chất gây ngạt toàn thân do nó tranh chấp với oxy gây giảm oxy máu ở tất cả các cơ quan của cơ thể, những cơ quan nào sử dụng nhiều oxy nhất sẽ bị tổn thương năng nhất đặc biệt là các cơ quan quan trọng là não và tim.
Khí CO được tạo ra từ các sản phẩm cháy không hoàn toàn của các chất có chứa carbon. Nguyên nhân gây nhiễm độc khí carbon monocyd thường gặp là dùng các loại than để đun nấu, sưởi ấm, chạy máy phát điện, khói từ các vụ cháy nhà, khói xả từ động cơ ô tô, xe máy, ở nơi thông khí kém (phòng kín, khu vực ít lưu thông khí), sử dụng lò nướng bằng khí đốt để sưởi…
Mùa thường gặp bị ngộ độc loại khí này là mùa đông.
Nếu phát hiện và điều trị muộn gây tử vong, hoặc để lại di chứng thần kinh-tâm thần nặng nề khi xuất viện chiếm tới 4-40%. Phụ nữ mang thai, thai nhi, người cao tuổi, người có bệnh lý mạch vành, mạch máu não nguy cơ bị ngộ độc nặng hơn.
Chúng ta nghĩ đến bị ngộ độc khí CO khi có:
Người bệnh có tiếp xúc với nguồn phơi nhiễm: đã nêu trên phổ biến là đốt than, củi, chạy động cơ trong phòng kín…Chú ý hỏi trong nhà có nuôi chó, mèo không. Nếu chó, mèo chết chứng tỏ là bị ngộ độc khí CO nặng.
Toàn thân: Người bệnh bị ngất, tím ở môi và các đầu ngón tay, ngón chân.
Thần kinh: Co giật, bất tỉnh co cứng tay chân hoặc có những động tác bất thường.
Tim mạch: có thể tụt huyết áp, nhịp tim không đều chiếm 5-6 %. Đau ngực rất thường gặp chiếm tới 1/3 bệnh nhân bị ngộ độc CO vừa và nặng. Có thể gặp tổn thương cơ tim cấp, thiếu máu cơ tim, thay đổi T, ST, loạn nhịp tim.
Hô hấp: khó thở, trào bọt hồng.
Tổn thương cơ: biểu hiện tay chân sưng đau, nước tiểu sẫm màu, đỏ và ít dần.
Nhẹ: Đau đầu, buồn nôn, chóng mặt, nôn
Vừa: Đau ngực, khó tập chung, nhìn mờ, khó thở khi gắng sức nhẹ, mạch nhanh, thở nhanh, hoại tử cơ, thất điều.
Nặng: Đau ngực, hồi hộp, mất định hướng, co giật, hôn mê, rối loạn nhịp tim, tụt huyết áp, thiếu máu cơ tim, phỏng da.
Để chẩn đoán bạn có bị ngộ độc khí CO không thì cần có sự hợp tác tốt của bạn và gia đình bạn để trả lời những thông tin mà bác sĩ yêu cầu.
Chú ý tìm những dấu hiệu nặng như thấy người bệnh bất tỉnh, tím, đái ỉa không tự chủ. Cần đưa nhanh nạn nhân đến cơ sở y tế càng nhanh càng tốt.
Cần tìm những nguyên nhân có thể gây ra ngộ độc khí CO. Trước tiên bạn hoặc người nhà, người thân cần kiểm tra xem trong nhà nạn nhân hiện đang còn các nguồn sản sinh ra khí CO, đặc biệt là đang dùng các loại than để sưởi như than củi, than tổ ong, than đá, máy phát điện để ở tầng hầm…
Tại cơ sở y tế: đo nồng độ carboxyhemoglobin (COHb) giúp cho chẩn đoán. Chẩn đoán xác định khi nồng đọ COHb> 15%, nhưng nồng độ COHb < 15% không loại trừ được ngộ độc vì nếu phát hiện muộn nồng độ carboxyhemoglobin sẽ bị giảm đi.
Ngoài ra, còn làm thêm các xét nghiệm về công thức máu, urê, đường máu, điện giải đồ, creatinin, AST, ALT, khí máu động mạch, chụp Xquang tim phổi, chụp CT sọ não hoặc cộng hưởng từ sọ não với những người bệnh có rối loạn ý thức.
Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào có tiếp xúc với nguồn khí độc và có các biểu hiện của ngộ độc khí carbon monocyd.
Khi ngộ độc khí CO cần điều trị tại chỗ và điều trị tại viện như sau.
Người phát hiện ra nạn nhân cần khẩn trương làm những việc sau theo trình tự:
Liệu pháp oxy Cung cấp oxy liều cao càng sớm càng tốt.
Tuyên truyền, giáo dục cho người dân
Bài viết Phòng bệnh và sơ cứu ngộ độc khí carbon Monocyd đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cấp cứu khi bị hạ thân nhiệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Thân nhiệt quá thấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới não khiến người bệnh khó có thể suy nghĩ và di chuyển. Điều này khiến bệnh giảm thân nhiệt trở nên nguy hiểm bởi người bệnh sẽ có thể không biết được điều gì đang diễn ra xung quanh và không thể làm bất cứ việc gì…
Quần áo ẩm ướt, để đầu trần và mặc không đủ ấm khi trời lạnh, hoặc bị ngã vào nước lạnh có thể làm tăng khả năng bị hạ thân nhiệt.
Hạ thân nhiệt được định nghĩa là nhiệt độ bên trong cơ thể <95oF (35 độ C).
Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm:
Các triệu chứng thường diễn biến chậm. Người bị hạ thân nhiệt thường bị mất dần ý thức và năng lực thể chất, và do đó có thể không ý thức được sự cần thiết phải điều trị cấp cứu.
Người già, trẻ em và người rất gầy là những người rất dễ có nguy cơ. Những người khác có nguy cơ cao bị hạ thân nhiệt hơn so với bình thường bao gồm những người bị suy giảm sức phán đoán do bệnh tâm thần hoặc bệnh Alzheimer và những người bị say (rượu, ma túy), người vô gia cư hoặc bị mắc kẹt trong thời tiết lạnh do xe cộ bị hỏng. Một số tình trạng khác khiến người ta dễ bị hạ thân nhiệt là suy dinh dưỡng, bệnh tim mạch và thiểu năng tuyến giáp.
Gọi cấp cứu. Trong khi chờ người giúp đỡ, cần theo dõi hơi thở của người bệnh.
Nếu hơi thở ngừng hay có vẻ chậm hoặc nông trầm trọng, bắt đầu hà hơi thổi ngạt ngay.
Chuyển người bệnh đến nơi ấm. Nếu không thể vào trong nhà, hãy bảo vệ người bệnh khỏi gió, che kín đầu bệnh nhân, và cách ly cơ thể bệnh nhân khỏi đất lạnh.
Thân nhiệt trên 33 độ C: dùng các biện pháp ủ ấm thông thường là đủ.
Từ 28-33 độ C: chỉ định phương pháp ủ ấm dựa vào nhiệt độ cơ thể, tuổi, thời gian bị nhiễm lạnh.
Dưới 28 độ C: tuần hoàn ngoài cơ thể, thay thế thận hoặc lọc màng bụng.
Hai biến chứng thường gặp trong quá trình làm tăng thân nhiệt:
Nhịp chậm và suy tim trái cấp không hồi phục dẫn đến ngừng tim ở thì vô tâm thu khi nâng thân nhiệt đến 32-34 độ C.
Rung thất khi nâng nhiệt độ từ 28-34 độ C gây ra ngừng tim khi nhiệt độ cơ tim còn quá thấp.
Ngoài các biện pháp làm tăng thân nhiệt, việc tìm ra nguyên nhân và điều trị nguyên nhân cũng như điều trị triệu chứng (trong điều kiện có thể) sẽ góp phần quan trọng giảm thiểu các biến chứng xấu có thể xảy ra.
Bài viết Cấp cứu khi bị hạ thân nhiệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Nhiễm độc do ong đốt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bệnh nhân bị ong đốt nhiều nốt nếu đến viện chậm trễ, không được xử trí đúng và kịp thời dễ bị nhiễm độc nặng nề, hậu quả kéo dài lên các cơ quan, đặc biệt là thận, thậm chí tử vong.
Trên thực tế khi đi trong vườn, trong rừng, chúng ta có thể gặp nhiều loại ong khác nhau và có những mức độ nguy hiểm khác nhau.
Nguyên dân do ong đốt chủ yếu là do vô tình nhưng cũng có thể là tai nạn do nghề nghiệp. Các biểu hiện nhiễm độc do ong đốt có thể thay đổi theo từng loại ong.
Tùy thuộc từng loại ong, có biểu hiện nhiễm độc do ong đốt khác nhau.
Nhiễm độc do Ong mật đốt
Nhiễm độc do Ong vò vẽ, ong bắp cày đốt
Để xác định ong đốt hay không, loại ong gì và mức độ nhiễm độc, bác sĩ sẽ dựa vào các thông tin sau:
Để điều trị ong đốt hiệu quả, cần nắm được cách sơ cứu thích hợp sau đó đưa tới cơ sở y tế thực hiện việc chăm sóc.
Nhanh chóng đưa nạn nhân ra khỏi khu vực có ong.
Dùng kẹp nhổ tóc để nhổ, hoặc dùng cạnh sắc của miếng bìa, thẻ tín dụng, thẻ điện thoại, … để gạt và lấy ngòi ong ra (nếu là ong mật, bệnh nhân biểu hiện nhẹ và số lượng vết đốt ít).
Cho bệnh nhân uống nhiều nước: tốt nhất dùng nước ORESOL, hoặc nước khoáng, nước quả.
Đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất để khám.
Gọi cấp cứu và đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất ngay nếu:
Bệnh nhân khó thở: hà hơi thổi ngạt hoặc hô hấp nhân tạo bằng phương tiện hiện có.
Không tự dùng thuốc (dù là thuốc y học cổ truyền hay thuốc tân dược), không bôi vôi vì tốn thời gian, không tốt nếu vết cắn nhiều, vết đốt ở mặt, cổ, miệng.
Các bác sĩ sẽ quyết định phương pháp điều trị tùy theo tình trạng của bạn, số lượng nốt đốt nhiều hay ít, bạn đến viện sớm hay muộn:
Bạn cần làm gì:
Thực hiện theo các hướng dẫn của y bác sĩ, đặc biệt:
Bài viết Nhiễm độc do ong đốt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Ngộ độc thuốc và những điều cần lưu ý đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Ngộ độc thuốc là một khái niệm rộng bao gồm:
Một số quan niệm sai phổ biến là các thuốc y học cổ truyển là “thảo dược” từ “ tự nhiên”, “lành tính”, “không độc hoặc ít độc”. Thực tế các thuốc y học cổ truyền có rất nhiều thành phần phức tạp chưa biết đến, việc đánh giá, quản lý và sử dụng còn rất lỏng lẻo và nhiều bất cập.
Biểu hiện của ngộ độc thuốc rất đa dạng, có thể từ nhẹ (như buồn ngủ, hơi mệt, …) đến nặng, (như khó thở, tụt huyết áp, loạn nhịp tim…. thậm chí có thể tử vong)
Xuất hiện các dấu hiệu bất thường sau khi hoặc khi đang dùng thuốc. Các biểu hiện này có thể là các biểu hiện mới xuất hiện, không phải các biểu hiện bệnh bạn đang bị hoặc có thể bạn chỉ thấy bệnh nặng hơn.
Bạn cần nghĩ tới ngộ độc thuốc khi thấy có các yếu tố sau:
Để chẩn đoán ngộ độc thuốc thì cần lưu ý ở cả phía bệnh nhân, người nhà và thầy thuốc khi thăm khám bệnh.
Mang theo hoặc cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến việc dùng thuốc của bệnh nhân dẫn tới ngộ độc: đơn thuốc, lọ thuốc, vỉ thuốc (kể cả đã bóc hết thuốc), viên thuốc các thông tin về bệnh phải dùng thuốc.
Các thông tin về việc dùng thuốc của người bệnh rất quan trọng, giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác nhanh chóng và giảm các xét nghiệm không cần thiết.
Các bác sĩ dựa trên các thông tin hỏi bệnh, khám, các thông tin về việc dùng thuốc, kết hợp với các kết quả xét nghiệm (gồm các xét nghiệm thông thường và xét nghiệm xác định thuốc đã gây ra ngộ độc) và theo dõi sẽ cho ra hướng chẩn đoán ngộ độc thuốc.
Điều trị ngộ độc thuốc cần lưu ý sơ cứu tại chỗ và xử lý đúng quy trình để giải độc tại các cơ sở y tế.
Tùy theo từng trường hợp bạn sẽ cần áp dụng các biện pháp khác nhau. Xin xem cụ thể ở bài giới thiệu về ngộ độc.
Gọi điện tới trung tâm chống độc, thông báo cho bác sĩ đã kê đơn và dược sĩ liên quan. Trường hợp nặng, gọi cấp cứu, nhân viên y tế hoặc người hỗ trợ gần nhất hoặc mang theo bệnh nhân tới cơ sở y tế.
Bác sĩ sẽ quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết tùy theo từng loại ngộ độc và tình trạng người bệnh:
Tìm hiểu và tuân thủ các dùng thuốc an toàn
Sau khi đã dùng thuốc theo đơn tại nhà, bạn cần khám lại theo hướng dẫn của bác sĩ để có thể điều chỉnh về đơn thuốc sao cho hiệu quả và an toàn. Trong khi đang dùng thuốc, nếu có bất cứu diễn biến bất thường nào bạn cũng cần thông báo lại cho bác sĩ hoặc dược sĩ hoặc tới khám lại. Nếu cần cấp cứu bạn cần đến cơ sở y tế gần nhất.
Bệnh nhân ngộ độc thuốc do tự sát, bị bệnh tâm thần hoặc có biểu hiện nghi ngờ bệnh tâm thần (ví dụ: mất ngủ kéo dài, thường xuyên buồn chán không rõ lý do) cần được khám chuyên khoa tâm thần. Những người bị bệnh tâm thần rõ, vẫn có ý tưởng tự sát tiếp, đã tự tử nhiều lần cần được chuyển sang chuyên khoa tâm thần điều trị với sự đi cùng và giám sát của nhân viên y tế trong khi vận chuyển.
1. Trước khi dùng thuốc hoặc dùng thêm một thuốc mới, bạn cần cung cấp các thông tin sau cho bác sĩ, dược sĩ:
2. Cần chủ động hỏi bác sĩ, dược sĩ
3. Tìm hiểu các thông tin về thuốc:
4. Đánh giá việc dùng thuốc của bạn:
Cán bộ Y-Dược giúp bạn đánh giá việc dùng thuốc và có nên thay đổi việc dùng thuốc hay không. Đặc biệt, người bác sĩ trực tiếp khám và chữa bệnh cho bạn là người giúp bạn có quyết định chính xác nhất.
5. Đọc kỹ nhãn mác trước khi sử dụng
Đọc nhãn mác mỗi khi bạn mua thuốc, kể cả thuốc không mua theo đơn.
Đọc kỹ nhãn mác mỗi lần trước khi dùng thuốc, đảm bảo đúng tất cả 5 điều sau:
6. Khi đang dùng thuốc, không tự ngừng thuốc hoặc thay đổi việc dùng thuốc, khác với những gì đã được hướng dẫn.
7. Thông báo ngay khi cần thiết khi thấy dấu hiệu bất thường:
Nếu bạn thấy nghi ngờ có tác dụng có hại, có diễn biến bất thường hoặc cần biết thêm thông tin gì liên quan đến việc dùng thuốc, hãy thông báo và hỏi bác sĩ, dược sĩ, trung tâm chống độc hoặc tới cơ sở y tế gần nhất.
Bệnh viện Bạch Mai
Bài viết Ngộ độc thuốc và những điều cần lưu ý đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cấp cứu đau bụng cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bụng của chúng ta có rất nhiều cơ quan bên trong tùy theo vị trí nằm trong ổ bụng. Mỗi cơ quan này nếu gặp vấn đề sẽ biểu hiện ra bằng đau bụng và sẽ có những tính chất diễn biến bệnh khác nhau.
Một số cơ quan ngoài ổ bụng như cơ, tim, màng phổi, bệnh lý động mạch chủ… đôi khi cũng biểu hiện bằng đau bụng do kích thích lan từ ngoài vào.
Đôi khi các rối loạn bệnh lý toàn thân như ngộ độc, đái tháo đường biến chứng… cũng biểu hiện bằng đau bụng tuy không phải là triệu chứng chính.
Tóm lại: đa số các nguyên nhân đau bụng đều do bệnh lý của các cơ quan trong ổ bụng gây ra mà chúng ta sẽ nói tới từng trường hợp cụ thể sau:
Khi bạn đau bụng thì vị trí đau có thể gợi ý nguyên nhân đau bụng:
– Đau hạ sườn phải (A): áp xe gan, giun chui ống mật, viêm túi mật cấp…
– Đau thượng vị (B): viêm dạ dày, viêm tụy, nhồi máu cơ tim, thoát vị, giun chui ống mật…
– Hạ sườn trái (C): viêm đại tràng, viêm thận, sỏi thận.
– Đau hạ vị (H): viêm bàng quang, sỏi bàng quang, viêm tử cung phần phụ, chửa ngoài tử cung…
– Đau quanh rốn (E): viêm dạ dày ruột, đau bụng giun, ngộ độc thức ăn…
– Đau hố chậu phải (G): viêm ruột thừa, viêm manh tràng, sỏi niệu quản….
– Đau hố chậu trái (I): sỏi niệu quản, viêm túi thừa, xoắn đại tràng…
– Đau hai bên mạng sườn (D và F): sỏi niệu quản
Các loại đau không có vị trí vụ thể như đau quặn bụng có thể do co thắt từ ruột, viêm nhiễm trong ổ bụng.
– Ăn uống không vệ sinh, đồ ăn cũ bị ô nhiễm.
– Nghiện rượu bia, tăng mỡ máu có thể nguy cơ gây viêm tụy.
– Uống ít nước tăng nguy cơ gây bệnh sỏi thận.
– Tiền sử phẫu thuật bụng từ trước có thể gây tắc ruột do dính.
Mọi trường hợp đau bụng cấp cần phải đến bệnh viện để kiểm tra đặc biệt là nguyên nhân nguy hiểm. Rất khó để phân biệt các cơn đau bụng thông thường với các cơn đau bụng nguy hiểm nếu các bạn không khám bác sĩ. Nên nhịn ăn và tránh tự ý sử dụng các thuốc giảm đau nếu chưa hỏi ý kiến bác sĩ. Nếu bạn thấy rất mệt, suy sụp kèm theo đau bụng hoặc các cơn đau bụng liên tục kéo dài không dứt nên tới bệnh viện ngay. Việc chậm trễ sẽ gây nguy hiểm tới tính mạng.
Các thông tin bác sĩ cần có từ bạn như đau ở vị trí nào, thời gian được bao lâu, cơn đau liên tục hay ngắt quãng, có sốt không, có bí đại tiểu tiện không và các tiền sử bệnh lý khác mà bạn có.
Tại bệnh viện, bác sĩ có thể phải cho bạn làm nhiều các xét nghiệm máu và thăm dò chức năng như siêu âm, chụp cắt lớp ổ bụng, chụp Xquang… để tìm ra nguyên nhân đau bụng.
Cẩm nang TT BV Bạch Mai
Bài viết Cấp cứu đau bụng cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Chẩn đoán và xử trí cấp cứu hạ đường huyết đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Thực hiện các biện pháp cấp cứu ban đầu đúng khi có biểu hiện nghi ngờ hạ đường máu trong đời sống hàng ngày. Bổ sung glucose là biện pháp điều trị cấp cứu cơ bản trong tất cả các giai đoạn hạ đường máu.
Hạ đường máu thường gặp trong các trường hợp sau:
Tuy nhiên, cũng có nhiều yếu tố khác có thể gây hạ đường máu ở cả người bệnh ĐTĐ và không ĐTĐ như nhiễm khuẩn, rối loạn nội tiết, thuốc/rượu, các khối u, hoặc suy dinh dưỡng…
Rượu (alcohol): Uống quá nhiều rượu, đặc biệt là không bổ sung calo đầy đủ, có thể gây hạ đường máu nặng. Lạm dụng rượu mạn tính làm giảm tổng hợp glucose và làm suy yếu khả năng hình thành và dự trữ glycogen (chuỗi glucose) tại gan.
– Triệu chứng hạ đường máu ở người bệnh có và không có ĐTĐ thường không đặc hiệu. Hạ đường máu gây ra các triệu chứng kích thích thần kinh (tự động) và thiếu glucose não.
– Các triệu chứng kích thích thần kinh bao gồm run rẩy, hồi hộp, lo âu, nhịp tim và HA tăng nhưng không nhiều (qua trung gian catecholamine, adrenergic) và vã mồ hôi, da tái nhợt, cảm giác đói, và rối loạn cảm giác (qua trung gian acetylcholine, cholinergic). Các biểu hiện này, thường xuất hiện sớm và phổ biến, gây ra bởi tác động của thần kinh giao cảm là một hệ thần kinh tự động trong cơ thể.
– Các triệu chứng do thiếu glucose não bao gồm tổn thương nhận thức, thay đổi hành vi, các bất thường vận động tâm thần và khi nồng độ glucose máu thấp hơn có thể có co giật và hôn mê. Đôi khi, các khuyết thiếu thần kinh thoáng qua có thể xuất hiện. Các tổn thương thần kinh vĩnh viễn rất hiếm nhưng có thể có và thường gặp hơn ở người bệnh ĐTĐ có hạ đường máu nặng kéo dài. Mặc dù hạ đường máu kéo dài quá lâu có thể gây chết não ở người bệnh ĐTĐ, nhưng phần lớn các giai đoạn hạ đường máu sẽ phục hồi sau khi nồng độ glucose máu tăng lên về giá trị bình thường và giai đoạn tử vong, nhưng hiếm gặp, thường được cho là hậu quả của rối loạn nhịp tâm thất.
– Ở người bệnh không ĐTĐ, sự xuất hiện các triệu chứng thiếu glucose não cung cấp bằng chứng rối loạn hạ đường máu nền có tính chất thuyết phục về mặt lâm sàng hơn vì các triệu chứng kích thích thần kinh nói chung không đặc hiệu. Tuy nhiên, việc người bệnh ĐTĐ tự nhận thấy được các triệu chứng kích thích thần kinh có thể gợi ý họ tới hạ đường máu và do đó họ có thể tự điều trị được.
– Các triệu chứng mà người bệnh có xu hướng xuất hiện dai dẳng từ giai đoạn này tới giai đoạn kia. Các triệu chứng có thể không được phát hiện bởi người bệnh, thậm chí khi chúng biểu hiện rõ cho ngưới khác thấy. Hơn nữa, rất nhiều người bệnh không thể nhớ và mô tả được các giai đoạn một cách chi tiết, do đó các thông tin cần thiết nên được khai thác từ gia đình hoặc bạn bè của người bệnh bất cứ khi nào có thể.
– Tại bệnh viện hoặc cơ sở y tế: Nồng độ glucose máu thấp < 2,8 mmol/L (50 mg/dL), khi nồng độ glucose máu thấp < 1,7 mmol/L (30 mg/dL) thì được gọi là hạ đường máu nặng. Xét nghiệm đường máu mao mạch là một biện pháp sàng lọc nhanh để xác đinh nồng độ glucose máu. Tại nhà bệnh nhân có thể dùng các máy thử đường máu tại nhà mà hàng ngày bệnh nhân vẫn dùng để theo dõi kiểm tra.
– Xét nghiệm tìm kiếm các nguyên nhân gây hạ đường máu như nhiễm trùng/nhiễm khuẩn, nhồi máu cơ tim, TBMN, rối loạn chức năng/suy thận, uống rượu, có thai, dung thuốc (đặc biệt là các thuốc kích thích), các chấn thương kín, suy nhược (có thể làm ăn uống kém hoặc quá liều insulin/thuốc uống hạ đường máu).
Người bệnh ĐTĐ được điều trị bằng insulin hoặc các thuốc kích thích bài tiết insulin, các tác động bảo vệ nhằm dự phòng hạ đường máu sẽ bắt đầu khi cơ chế tự theo dõi phát hiện nồng độ glucose máu < 3,9 mmol/L (70 mg/dL). Do đó khả năng có hạ đường máu là rất cao ở những người bệnh này. Vì vậy những người mới uống thuốc hạ đường máu cần lưu ý.
Phải có đủ ba tiêu chuẩn chẩn đoán hạ đường máu đã được chứng minh trong nghiên cứu Whipple:
Thực hiện các biện pháp cấp cứu ban đầu theo các bước ABC
Truyền glucose tĩnh mạch (tại cơ sở y tế)
Ăn uống đường miệng
Glucagon
Chú ý thời gian tác dụng của insulin hoặc các thuốc uống hạ đường máu mà người bệnh đã sử dụng. Cần nhập viện theo dõi để điều chỉnh liều thuốc nếu như hạ đường máu nặng hoặc tái đi tái lại.
Tại bệnh viện: kiểm tra đường máu mao mạch mỗi giờ cho tới khi nồng độ glucose máu ổn định. Nói chung người bệnh cần được theo dõi qua thời gian tác dụng đỉnh của insulin, cụ thể như khoảng từ 30 phút tới 1-2 giờ đối với insulin lispro hoặc insulin aspart, 2 – 4 giờ đối với regular insulin, hoặc 6 – 8 giờ đối với NPH. Insulin glargine không có hoạt động đỉnh và nói chung bản thân nó không gây hạ đường máu. Những người bệnh dùng insulin tác dụng chậm có thời gian tác dụng đỉnh như lente hoặc ultralente, hoặc người bệnh uống thuốc sulfonylurea thì cần phải được theo dõi chặt chẽ hơn.
Theo Cẩm nang truyền thông y học
Bài viết Chẩn đoán và xử trí cấp cứu hạ đường huyết đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cấp cứu đột quỵ não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Có hai loại đột quỵ não: chảy náu não và tắc mạch máu não.
Đột quỵ não hiện nay là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 3 sau các bệnh lý tim mạch và ung thư, nhưng là nguyên nhân gây tàn phế đứng hàng thứ nhất.
Tìm kiếm các dấu hiệu, triệu chứng mà bạn nghi ngờ một ai đó có thể bị đột quỵ não, đồng thời phải ghi nhận thời điểm người bệnh xuất hiện các dấu hiệu đó, vì nó rất quan trọng đối với việc điều trị của thầy thuốc.
Bất thường về đi lại: thậm chí chỉ là mất khả năng phối hợp động tác, mất thăng bằng, chóng mặt.
Bất thường về lời nói và hiểu lời nói
Tê bì hoặc liệt một nửa bên mặt, tay, chân.
Bất thường về nhìn ở một hoặc cả hai bên mắt
Đau đầu: đau đầu đột ngột, dữ dội, có thể kèm theo nôn mửa, chóng mặt, thay đổi về nhận thức.
Khi người bệnh có bất kỳ một trong các dấu hiệu nêu trên, cần phải vào ngay bệnh viện để được xử trí cấp cứu kịp thời.
Các nguyên nhân gây dột quỵ thiếu máu não: (đây là loại đột quỵ não chiếm tỷ lệ đến 85%)
– Do các cục huyết khối hình thành ở các mạch máu cung cấp máu cho não làm hẹp lòng mạch, dẫn đến giảm lượng máu lên não.
– Do các cục huyết khối từ xa bắn lên não gây tắc mạch não, mà thường gặp nhất là do huyết khối từ tim.
Các nguyên nhân gây đột quỵ chảy máu não: do vỡ các mạch máu não xảy ra ở những người tăng huyết áp không được điều trị, do vỡ các túi phình của mạch máu não hoặc do vỡ các bất thường của dị dạng động – tĩnh mạch não.
Các yếu tố nguy cơ của đột quỵ não: có nhiều yếu tố nguy cơ có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ não.
Các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được:
Các yếu tố nguy cơ khác:
Có nhiều cách để làm giảm nguy cơ tái phát của đột quỵ. Trong đó quan trọng nhất là kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ và thay đổi chế độ sóng. Các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của đột quỵ não là tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái tháo đường và hút thuốc lá. Thay đổi chế độ sống bao gồm giảm chế độ ăn nhiều chất béo và muối, hạn chế uống rượu…
Theo Cẩm nang truyền thông BV Bạch Mai
Bài viết Cấp cứu đột quỵ não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>