Bài viết Xử trí đau ngực cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Đau ngực thường làm bệnh nhân có cảm giác hoảng sợ và bắt buộc phải đi khám bệnh. Chẩn đoán đau ngực thường gặp khó khăn do đau ngực tiềm ẩn các bệnh lý nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời.
Nguyên nhân của đau ngực rất đa dạng
Có thể bao gồm các nguyên nhân đe dọa tính mạng như:
Tuy nhiên nhiều khi đau ngực lại bao gồm các nguyên nhân ít nguy hiểm đến tính mạng hơn như:
Nhồi máu cơ tim xuất hiện khi động mạch cung cấp máu cho tim (động mạch vành) bị tắc nghẽn. Bệnh nhân có thể có tiền sử đau ngực trước đó hoặc đã được chẩn đoán cơn đau thắt ngực trước đó.
– Đặc điểm đau ngực thường đau vùng trước tim bên trái, đau cảm giác nặng ngực hoặc bóp nghẹn, cơn đau điển hình có thể lan lên cổ, vai hoặc mặt trong cánh tay. Cơn đau thường kéo dài trên 20 phút. Cơn đau có thể xuất hiện tự nhiên hoặc sau khi gắng sức như đi lại, leo cầu thang, xúc động mạnh… nếu bệnh nhân đã có chẩn đoán từ trước bệnh nhân có thể đỡ đau sau khi ngậm một viên nitroglycerin, nếu ngậm nitroglycerin không đỡ bệnh nhân có thể đã bị nhồi máu cơ tim thực sự.
Động mạch chủ là động mạch chính xuất phát từ tim đưa máu đi khắp cơ thể, bóc tách động mạch chủ là khi lớp áo của động mạch chủ bị rách và lóc tách theo các động mạch dẫn đến thiếu máu các cơ quan hoặc vỡ khối phình động mạch chủ gây sốc mất máu.
– Đặc điểm của bóc tách động mạch chủ bệnh nhân thường đau ngực rất dữ đội, đau lan ra sau lưng, có thể có biểu hiện thiếu máu và nếu đo huyết áp có thể thấy chỉ số huyết áp của hai tay khác nhau.
Là tắc nghẽn một trong những mạch máu chính cung cấp máu cho phổi. Đây là nguyên nhân gây đau ngực có thể ảnh hưởng đến tính mạng.
– Các triệu chứng thường đa dạng có thể có đau ngực, khó thở nhiều, tụt huyết áp, ho ra máu. Cần nghĩ đến tắc mạch phổi khi các triệu chứng này có thể xảy ra đột ngột đạc biệt ở những bệnh nhân nằm lâu tại chỗ, bệnh nhân cơ bệnh ung thư hoặc bệnh nhân có sưng đau một chân kèm theo.
Thường được gọi là xẹp phổi, đây là tình trạng khí xuất hiện ở trong khoảng trống giữa thành ngực và nhu mô phổi. Bình thường, áp suất âm trong lồng ngực cho phép phổi nở ra. Khi bị tràn khí màng phổi nguyên phát, không khí đi vào trong lồng ngực dẫn đến mất cân bằng áp suất làm phổi không thể nở ra được và do đó sẽ làm mất đi sự cung cấp oxy bình thường trong cơ thể.
– Các triệu chứng có thể thấy bệnh nhân đột ngột đau nhói ở ngực như dao đâm, khó thở và có thể thấy lộng ngực căng hơn hoặc có tràn khí dưới da.
Đây là tình trạng có dịch màng ngoài tim (màng ngoài tim là một túi tạo quanh tim) làm ép vào tim làm tim không co bóp được. Bệnh nhân thường có cảm giác đau liên tục, cảm giác như bóp nghẹt ngực, có thể có trụy mạch, tím tái…
Là nhiễm trùng nhu mô phổi. Đau ngực xuất hiện do lớp biểu mô của phổi bị viêm. Các triệu chứng kinh điển bệnh nhân thường đau ngực kèm theo sốt, ho nhiều, ho khạc đờm kèm theo mủ hoặc đờm màu gỉ sắt.
Đau ngực do những bệnh của thực quản rất thường gặp và có thể gây hoang mang lo sợ vì nó giống như những cơn đau ngực của nhồi máu cơ tim.
– Trào ngược dạ dày thực quản (GERD), viêm thực quản xuất hiện khi acid trong dạ dày đi ngược lên thực quản đôi khi cũng gây ra những cơn đau ngực. Người bệnh thường đau ngực kèm giảm giác nóng rát sau xương ức, ợ hơi, ợ chua.
– Co thắt thực quản: được định nghĩa là một tình trạng co thắt quá mức một cách bất thường củ cơ trơn thực quản. Bệnh nhân thường đau ngực kèm theo cảm giác nuốt nghẹn, nuốt vướng như cảm giác hóc xương.
Đây là hiện tượng viêm của các sụn nằm giữa các xương sườn. Cơn đau thường ở vị trí giữa ngực, âm ỉ và nhói lên khi hít thở sâu, di chuyển và ấn sau vào lồng ngực.
Đây là thể tái phát của bệnh thủy đậu, những mụn nước thường xuất hiện ở một bên cơ thể. Đau rất dữ dội, thường giới hạn ở những vùng có mụn nước. Cơn đau có thể xuất hiện trước mụn nước vài ngày.
Người bệnh thường có cảm giác đau lan từ trước ngực ra sau lưng theo một cung xương sườn, đau tăng khi hít sâu hoặc vận động tại bên viêm nhưng đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường.
Khi bị đau ngực tốt nhất nên đến cơ sở y tế để khám và loại trừ các nguyên nhân đau ngực nguy hiểm.
Các xét nghiệm thầy thuốc có thể chỉ định gồm: chụp tim phổi, ghi điện tim đồ, xét nghiệm các men tim loại trừ nhổi máu cơ tim, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực khi nghi ngờ bệnh lý nhu mô phổi, siêu âm tim…
Tùy thuộc vào nguyên nhân mà thầy thuốc sẽ có các xử trí phù hợp.
Thầy thuốc sẽ dùng các thuốc chống đông để tái tưới máu vùng mạch máu bị tắc nghẽn như aspirin, clopidogrel, heparin…
Nong mạch vành là phương pháp làm thông động mạch hiệu quả nếu bệnh nhân đến sớm tốt nhất trước 6 giờ.
Cần phải phẫu thuật nối chủ vành nếu điều trị bằng thuốc thất bại, bao gồm nong mạch vành.
Nitroglycerin được sử dụng rộng rãi nhất có tác dụng làm giãn mạch vành, thường được ngậm dưới lưỡi.
Điều trị chủ yếu là giảm đau, kiểm soát huyết áp bằng thuốc, bệnh nhân có thể phải phẫu thuật thay động mạch chủ nếu phình tách gần tim hoặc đặt giá đỡ động mạch chủ.
Điều trị bao gồm tăng cung cấp oxy, cho thuốc kháng đông như heparin, thuốc làm tan máu động được sử dụng trong một số trường hợp.
Nếu triệu chứng khó thở hoặc vùng tràn khí lớn, bệnh nhân sẽ được đặt dẫn lưu chất khí hoặc đặt một ống luồng vào lồng ngực để hút khí.
Người bệnh cần được chọc hút dịch và dẫn lưu dịch màng tim cấp cứu.
Viêm phổi được điều trị với kháng sinh và thốc giảm đau khi bệnh nhân bị nhạy cảm ở thành ngực.
Thường được điều trị với kháng viêm không steroid như inbuprofen.
Người bệnh thường được dùng các thuốc giảm bài tiết dịch vị dạ dày và các thuốc bao bộc niêm mạc dạ dày thực quản.
Bài viết Xử trí đau ngực cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Phòng bệnh và sơ cứu ngộ độc khí carbon Monocyd đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Theo một nghiên cứu của Mỹ năm 2012, các tai nạn liên quan đến ngộ độc khí CO từ năm 1991-2009 cho thấy có 1888 trường hợp bị nhiễm khí CO, tử vong 75 ca. Hấu hết tử vong (94%) là xảy ra tại nhà và nguyên nhân hàng đầu là do dùng máy phát điện trong nhà tới 83%, do dùng than củi để sưởi vào mùa đông.
Khí carbon monocyd (CO) là một chất khí không màu, không mùi và không gây kích thích, có khả năng khuếch tán mạnh. Do vậy, khi bị ngộ độc thường khó phát hiện, đến khi người bệnh nhận biết được mình bị nhiễm độc thì họ không còn khả năng gọi cấp cứu nữa. Là chất gây ngạt toàn thân do nó tranh chấp với oxy gây giảm oxy máu ở tất cả các cơ quan của cơ thể, những cơ quan nào sử dụng nhiều oxy nhất sẽ bị tổn thương năng nhất đặc biệt là các cơ quan quan trọng là não và tim.
Khí CO được tạo ra từ các sản phẩm cháy không hoàn toàn của các chất có chứa carbon. Nguyên nhân gây nhiễm độc khí carbon monocyd thường gặp là dùng các loại than để đun nấu, sưởi ấm, chạy máy phát điện, khói từ các vụ cháy nhà, khói xả từ động cơ ô tô, xe máy, ở nơi thông khí kém (phòng kín, khu vực ít lưu thông khí), sử dụng lò nướng bằng khí đốt để sưởi…
Mùa thường gặp bị ngộ độc loại khí này là mùa đông.
Nếu phát hiện và điều trị muộn gây tử vong, hoặc để lại di chứng thần kinh-tâm thần nặng nề khi xuất viện chiếm tới 4-40%. Phụ nữ mang thai, thai nhi, người cao tuổi, người có bệnh lý mạch vành, mạch máu não nguy cơ bị ngộ độc nặng hơn.
Chúng ta nghĩ đến bị ngộ độc khí CO khi có:
Người bệnh có tiếp xúc với nguồn phơi nhiễm: đã nêu trên phổ biến là đốt than, củi, chạy động cơ trong phòng kín…Chú ý hỏi trong nhà có nuôi chó, mèo không. Nếu chó, mèo chết chứng tỏ là bị ngộ độc khí CO nặng.
Toàn thân: Người bệnh bị ngất, tím ở môi và các đầu ngón tay, ngón chân.
Thần kinh: Co giật, bất tỉnh co cứng tay chân hoặc có những động tác bất thường.
Tim mạch: có thể tụt huyết áp, nhịp tim không đều chiếm 5-6 %. Đau ngực rất thường gặp chiếm tới 1/3 bệnh nhân bị ngộ độc CO vừa và nặng. Có thể gặp tổn thương cơ tim cấp, thiếu máu cơ tim, thay đổi T, ST, loạn nhịp tim.
Hô hấp: khó thở, trào bọt hồng.
Tổn thương cơ: biểu hiện tay chân sưng đau, nước tiểu sẫm màu, đỏ và ít dần.
Nhẹ: Đau đầu, buồn nôn, chóng mặt, nôn
Vừa: Đau ngực, khó tập chung, nhìn mờ, khó thở khi gắng sức nhẹ, mạch nhanh, thở nhanh, hoại tử cơ, thất điều.
Nặng: Đau ngực, hồi hộp, mất định hướng, co giật, hôn mê, rối loạn nhịp tim, tụt huyết áp, thiếu máu cơ tim, phỏng da.
Để chẩn đoán bạn có bị ngộ độc khí CO không thì cần có sự hợp tác tốt của bạn và gia đình bạn để trả lời những thông tin mà bác sĩ yêu cầu.
Chú ý tìm những dấu hiệu nặng như thấy người bệnh bất tỉnh, tím, đái ỉa không tự chủ. Cần đưa nhanh nạn nhân đến cơ sở y tế càng nhanh càng tốt.
Cần tìm những nguyên nhân có thể gây ra ngộ độc khí CO. Trước tiên bạn hoặc người nhà, người thân cần kiểm tra xem trong nhà nạn nhân hiện đang còn các nguồn sản sinh ra khí CO, đặc biệt là đang dùng các loại than để sưởi như than củi, than tổ ong, than đá, máy phát điện để ở tầng hầm…
Tại cơ sở y tế: đo nồng độ carboxyhemoglobin (COHb) giúp cho chẩn đoán. Chẩn đoán xác định khi nồng đọ COHb> 15%, nhưng nồng độ COHb < 15% không loại trừ được ngộ độc vì nếu phát hiện muộn nồng độ carboxyhemoglobin sẽ bị giảm đi.
Ngoài ra, còn làm thêm các xét nghiệm về công thức máu, urê, đường máu, điện giải đồ, creatinin, AST, ALT, khí máu động mạch, chụp Xquang tim phổi, chụp CT sọ não hoặc cộng hưởng từ sọ não với những người bệnh có rối loạn ý thức.
Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào có tiếp xúc với nguồn khí độc và có các biểu hiện của ngộ độc khí carbon monocyd.
Khi ngộ độc khí CO cần điều trị tại chỗ và điều trị tại viện như sau.
Người phát hiện ra nạn nhân cần khẩn trương làm những việc sau theo trình tự:
Liệu pháp oxy Cung cấp oxy liều cao càng sớm càng tốt.
Tuyên truyền, giáo dục cho người dân
Bài viết Phòng bệnh và sơ cứu ngộ độc khí carbon Monocyd đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Kỹ năng sơ cứu vết thương mạch máu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Vết thương mạch máu thường do tai nạn giao thông hay sinh hoạt: gãy xương chọc đứt mạch máu, chấn thương rách mạch máu; do bị đánh như: dao chém, lê hay kiếm đâm, do bom, mìn, đạn sát thương… Vết thương mạch máu lớn, nếu không cấp cứu kịp thời, nạn nhân có thể bị tử vong.
Vết thương mạch máu lớn thường gây thiếu máu cấp tính. Do mất máu nhanh và nhiều dễ dẫn tới sốc do mất máu.
Biểu hiện của sốc mất máu là: nạn nhân hốt hoảng, vật vã, lo âu, vã mồ hôi, mạch nhanh, nhỏ, huyết áp tụt và kẹt. Với vết thương hở có máu chảy ra ngoài, máu có thể chảy vọt thành tia hoặc chảy rỉ đều dễ nhận biết.
Nếu vết thương đã được garô hoặc băng, khi tháo ra, thấy máu chảy dữ dội cũng dễ chẩn đoán, nếu không thấy chảy máu thì phải cảnh giác, kiểm tra mạch đập để xác định có tổn thương mạch máu hay không.
Vết thương không chảy máu ra ngoài có thể gặp hai trường hợp: một là vết thương mạch máu đã ngừng chảy máu; hai là tụ máu dưới da.
Vết thương mạch máu nhờ sơ cứu đã cầm được máu: nhìn chỉ như vết thương phần mềm, rất dễ bị bỏ qua. Vì vậy, bạn cần tìm dấu hiệu thiếu máu ngoại biên như: chi bị thương lạnh, nhợt, không có mạch hoặc mạch đập yếu hơn bên lành, vận động giảm hoặc mất.
Đôi khi vết thương mạch máu có thể tự cầm do: đầu mạch máu bị đứt co rút vào trong các tổ chức phần mềm, lớp nội mạc lộn vào trong lòng mạch, tạo điều kiện hình thành cục máu đông bịt đầu mạch máu lại. Hoặc do yếu tố thần kinh phản xạ, các mạch máu ngoại biên co thắt lại, mạch máu trung tâm giãn nở ra làm cho huyết áp giảm xuống, tạo điều kiện cho cục máu đông hình thành và máu ngừng chảy.
Có khi do chảy máu quá nhiều làm cho huyết áp tụt cũng làm cho máu ngừng chảy, nhưng nếu không cầm máu ngay thì khi hồi sức, huyết áp lên máu lại tiếp tục chảy. Có trường hợp do khối máu tụ chèn ép các mạch máu làm cho máu ngừng chảy.
Khối máu tụ lan rộng: đập theo nhịp tim, để lâu bệnh nhân có dấu hiệu thiếu máu.
Khối máu tụ khu trú: trường hợp điển hình nếu bị thương ở cẳng chân là bắp chân căng vì khối máu được các cân bao bọc chi hạn chế nên không to lên được nhưng rất căng, làm ngăn cản máu động mạch đến và máu tĩnh mạch về nên chi vùng ngoại vi lạnh, tím, không có mạch, rất đau, gọi là “garô bên trong”. Trường hợp này nếu không xử lý kịp thời sẽ gây hoại thư.
Khối máu tụ thường có biến chứng: bị nhiễm khuẩn, nung mủ gây ra triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau rất dễ nhầm với một áp-xe nóng; bọc máu tụ bị vỡ ra ngoài gây chảy máu dữ dội, đe doạ tính mạng của nạn nhân.
Vết thương mạch máu có thể gây biến chứng nguy hiểm như: tử vong do thiếu máu cấp tính, nhiễm độc, hoại thư, co rút cơ, di chứng phồng động mạch và thông động – tĩnh mạch.
Khi gặp nạn nhân bị vết thương mạch máu, bạn cần nhanh chóng sơ cứu để cứu sống nạn nhân bằng cách: đặt garô, băng ép, ép mạch máu.
– Đặt garô là phương pháp cầm máu tốt nhưng đòi hỏi thực hiện đúng các quy tắc sau: Đặt chỗ dễ nhìn thấy nhất, gần vết thương nhất, ưu tiên chuyển nạn nhân đến bệnh viện trước kèm theo phiếu ghi giờ đặt garô.
Trong quá trình đặt garô, cứ một giờ nới lỏng garô trong vài phút cho máu chảy xuống nuôi dưỡng phần dưới chỗ bị thương, sau đó lại tiếp tục siết garô khi máu bắt đầu chảy trở lại. Khi tháo garô để điều trị thực thụ phải chuẩn bị sẵn phương tiện để cầm máu và hồi sức.
Chỉ đặt garô trong các trường hợp sau đây: chi bị dập nát không còn khả năng bảo tồn; đặt garô ở nơi xảy ra tai nạn, nhưng gần một bệnh viện, thời gian vận chuyển bệnh nhân đến bệnh viện dưới một giờ; đặt tạm thời trong một thời gian ngắn để chuẩn bị mổ.
– Băng ép cầm máu: Dùng một cuộn băng hay một chiếc khăn gấp nhỏ lại thành một cục đặt lên vết thương và băng ép lên trên để cầm máu, dùng băng cuộn băng chặt quanh chi cho đến khi không thấy máu thấm băng.
Băng ép cầm máu tốt nhất là dùng loại băng chun. Phương pháp này đơn giản dễ thực hiện, có tác dụng cầm máu tốt lại không gây hậu quả xấu đối với vùng bị tổn thương.
– Dùng ngón tay ép lên mạch máu: Bạn dùng ngón tay ép lên đường đi của mạch máu phía trên (gần tim hơn vết thương) vào nền xương. Vị trí thường được dùng để ấn mạch: ở chi trên là sau xương đòn, nếu chảy máu của động mạch dưới đòn ở vùng vai, cánh tay.
Tại hõm nạch, nếu chảy máu của động mạch nách và động mạch cánh tay, ở vùng cánh tay. Tại bờ trong cơ nhị đầu, ở nếp gấp khuỷu, nếu chảy máu của động mạch quay và động mạch trụ, ở vùng cẳng tay.
Chi dưới: điểm giữa nếp bẹn, nếu chảy máu của động mạch đùi do vết thương ở dưới đùi. Tại hõm khoeo, nếu chảy máu của động mạch vùng cẳng chân… Ngoài ra, bạn có thể gấp khuỷu tay hay đầu gối tối đa và ép vào thân để cầm máu, biện pháp này áp dụng khi chưa có điều kiện băng ép hoặc đặt garô. Dùng kẹp cầm máu kẹp các mạch máu. Sơ bộ chống choáng: bằng cách ủ ấm cho nạn nhân, cho nạn nhân uống thuốc trợ tim, giảm đau.
Điều trị ở bệnh viện gồm: Hồi sức tích cực, trường hợp mất máu nhanh và nhiều phải vừa truyền máu vừa mổ để cầm máu. Dùng kháng sinh chống nhiễm khuẩn và tiêm phòng uốn ván.
Tại chỗ: mở rộng vết thương để tìm đầu mạch máu bị đứt thắt lại, cắt lọc sạch những tổ chức dập nát ở phần mềm, lấy dị vật, máu tụ, loại bỏ các ngóc ngách của vết thương.
Áp dụng một trong những cách cầm máu vĩnh viễn như: thắt các đầu mạch máu bị đứt ở ngay vết thương; thắt mạch máu ở xa vết thương; ghép mạch máu; cắt cụt chi.
Ths. Trần Quốc An
Bài viết Kỹ năng sơ cứu vết thương mạch máu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cấp cứu khi bị hạ thân nhiệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Thân nhiệt quá thấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới não khiến người bệnh khó có thể suy nghĩ và di chuyển. Điều này khiến bệnh giảm thân nhiệt trở nên nguy hiểm bởi người bệnh sẽ có thể không biết được điều gì đang diễn ra xung quanh và không thể làm bất cứ việc gì…
Quần áo ẩm ướt, để đầu trần và mặc không đủ ấm khi trời lạnh, hoặc bị ngã vào nước lạnh có thể làm tăng khả năng bị hạ thân nhiệt.
Hạ thân nhiệt được định nghĩa là nhiệt độ bên trong cơ thể <95oF (35 độ C).
Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm:
Các triệu chứng thường diễn biến chậm. Người bị hạ thân nhiệt thường bị mất dần ý thức và năng lực thể chất, và do đó có thể không ý thức được sự cần thiết phải điều trị cấp cứu.
Người già, trẻ em và người rất gầy là những người rất dễ có nguy cơ. Những người khác có nguy cơ cao bị hạ thân nhiệt hơn so với bình thường bao gồm những người bị suy giảm sức phán đoán do bệnh tâm thần hoặc bệnh Alzheimer và những người bị say (rượu, ma túy), người vô gia cư hoặc bị mắc kẹt trong thời tiết lạnh do xe cộ bị hỏng. Một số tình trạng khác khiến người ta dễ bị hạ thân nhiệt là suy dinh dưỡng, bệnh tim mạch và thiểu năng tuyến giáp.
Gọi cấp cứu. Trong khi chờ người giúp đỡ, cần theo dõi hơi thở của người bệnh.
Nếu hơi thở ngừng hay có vẻ chậm hoặc nông trầm trọng, bắt đầu hà hơi thổi ngạt ngay.
Chuyển người bệnh đến nơi ấm. Nếu không thể vào trong nhà, hãy bảo vệ người bệnh khỏi gió, che kín đầu bệnh nhân, và cách ly cơ thể bệnh nhân khỏi đất lạnh.
Thân nhiệt trên 33 độ C: dùng các biện pháp ủ ấm thông thường là đủ.
Từ 28-33 độ C: chỉ định phương pháp ủ ấm dựa vào nhiệt độ cơ thể, tuổi, thời gian bị nhiễm lạnh.
Dưới 28 độ C: tuần hoàn ngoài cơ thể, thay thế thận hoặc lọc màng bụng.
Hai biến chứng thường gặp trong quá trình làm tăng thân nhiệt:
Nhịp chậm và suy tim trái cấp không hồi phục dẫn đến ngừng tim ở thì vô tâm thu khi nâng thân nhiệt đến 32-34 độ C.
Rung thất khi nâng nhiệt độ từ 28-34 độ C gây ra ngừng tim khi nhiệt độ cơ tim còn quá thấp.
Ngoài các biện pháp làm tăng thân nhiệt, việc tìm ra nguyên nhân và điều trị nguyên nhân cũng như điều trị triệu chứng (trong điều kiện có thể) sẽ góp phần quan trọng giảm thiểu các biến chứng xấu có thể xảy ra.
Bài viết Cấp cứu khi bị hạ thân nhiệt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Nhiễm độc do ong đốt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bệnh nhân bị ong đốt nhiều nốt nếu đến viện chậm trễ, không được xử trí đúng và kịp thời dễ bị nhiễm độc nặng nề, hậu quả kéo dài lên các cơ quan, đặc biệt là thận, thậm chí tử vong.
Trên thực tế khi đi trong vườn, trong rừng, chúng ta có thể gặp nhiều loại ong khác nhau và có những mức độ nguy hiểm khác nhau.
Nguyên dân do ong đốt chủ yếu là do vô tình nhưng cũng có thể là tai nạn do nghề nghiệp. Các biểu hiện nhiễm độc do ong đốt có thể thay đổi theo từng loại ong.
Tùy thuộc từng loại ong, có biểu hiện nhiễm độc do ong đốt khác nhau.
Nhiễm độc do Ong mật đốt
Nhiễm độc do Ong vò vẽ, ong bắp cày đốt
Để xác định ong đốt hay không, loại ong gì và mức độ nhiễm độc, bác sĩ sẽ dựa vào các thông tin sau:
Để điều trị ong đốt hiệu quả, cần nắm được cách sơ cứu thích hợp sau đó đưa tới cơ sở y tế thực hiện việc chăm sóc.
Nhanh chóng đưa nạn nhân ra khỏi khu vực có ong.
Dùng kẹp nhổ tóc để nhổ, hoặc dùng cạnh sắc của miếng bìa, thẻ tín dụng, thẻ điện thoại, … để gạt và lấy ngòi ong ra (nếu là ong mật, bệnh nhân biểu hiện nhẹ và số lượng vết đốt ít).
Cho bệnh nhân uống nhiều nước: tốt nhất dùng nước ORESOL, hoặc nước khoáng, nước quả.
Đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất để khám.
Gọi cấp cứu và đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất ngay nếu:
Bệnh nhân khó thở: hà hơi thổi ngạt hoặc hô hấp nhân tạo bằng phương tiện hiện có.
Không tự dùng thuốc (dù là thuốc y học cổ truyền hay thuốc tân dược), không bôi vôi vì tốn thời gian, không tốt nếu vết cắn nhiều, vết đốt ở mặt, cổ, miệng.
Các bác sĩ sẽ quyết định phương pháp điều trị tùy theo tình trạng của bạn, số lượng nốt đốt nhiều hay ít, bạn đến viện sớm hay muộn:
Bạn cần làm gì:
Thực hiện theo các hướng dẫn của y bác sĩ, đặc biệt:
Bài viết Nhiễm độc do ong đốt đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Chẩn đoán và xử trí cấp cứu hạ đường huyết đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Thực hiện các biện pháp cấp cứu ban đầu đúng khi có biểu hiện nghi ngờ hạ đường máu trong đời sống hàng ngày. Bổ sung glucose là biện pháp điều trị cấp cứu cơ bản trong tất cả các giai đoạn hạ đường máu.
Hạ đường máu thường gặp trong các trường hợp sau:
Tuy nhiên, cũng có nhiều yếu tố khác có thể gây hạ đường máu ở cả người bệnh ĐTĐ và không ĐTĐ như nhiễm khuẩn, rối loạn nội tiết, thuốc/rượu, các khối u, hoặc suy dinh dưỡng…
Rượu (alcohol): Uống quá nhiều rượu, đặc biệt là không bổ sung calo đầy đủ, có thể gây hạ đường máu nặng. Lạm dụng rượu mạn tính làm giảm tổng hợp glucose và làm suy yếu khả năng hình thành và dự trữ glycogen (chuỗi glucose) tại gan.
– Triệu chứng hạ đường máu ở người bệnh có và không có ĐTĐ thường không đặc hiệu. Hạ đường máu gây ra các triệu chứng kích thích thần kinh (tự động) và thiếu glucose não.
– Các triệu chứng kích thích thần kinh bao gồm run rẩy, hồi hộp, lo âu, nhịp tim và HA tăng nhưng không nhiều (qua trung gian catecholamine, adrenergic) và vã mồ hôi, da tái nhợt, cảm giác đói, và rối loạn cảm giác (qua trung gian acetylcholine, cholinergic). Các biểu hiện này, thường xuất hiện sớm và phổ biến, gây ra bởi tác động của thần kinh giao cảm là một hệ thần kinh tự động trong cơ thể.
– Các triệu chứng do thiếu glucose não bao gồm tổn thương nhận thức, thay đổi hành vi, các bất thường vận động tâm thần và khi nồng độ glucose máu thấp hơn có thể có co giật và hôn mê. Đôi khi, các khuyết thiếu thần kinh thoáng qua có thể xuất hiện. Các tổn thương thần kinh vĩnh viễn rất hiếm nhưng có thể có và thường gặp hơn ở người bệnh ĐTĐ có hạ đường máu nặng kéo dài. Mặc dù hạ đường máu kéo dài quá lâu có thể gây chết não ở người bệnh ĐTĐ, nhưng phần lớn các giai đoạn hạ đường máu sẽ phục hồi sau khi nồng độ glucose máu tăng lên về giá trị bình thường và giai đoạn tử vong, nhưng hiếm gặp, thường được cho là hậu quả của rối loạn nhịp tâm thất.
– Ở người bệnh không ĐTĐ, sự xuất hiện các triệu chứng thiếu glucose não cung cấp bằng chứng rối loạn hạ đường máu nền có tính chất thuyết phục về mặt lâm sàng hơn vì các triệu chứng kích thích thần kinh nói chung không đặc hiệu. Tuy nhiên, việc người bệnh ĐTĐ tự nhận thấy được các triệu chứng kích thích thần kinh có thể gợi ý họ tới hạ đường máu và do đó họ có thể tự điều trị được.
– Các triệu chứng mà người bệnh có xu hướng xuất hiện dai dẳng từ giai đoạn này tới giai đoạn kia. Các triệu chứng có thể không được phát hiện bởi người bệnh, thậm chí khi chúng biểu hiện rõ cho ngưới khác thấy. Hơn nữa, rất nhiều người bệnh không thể nhớ và mô tả được các giai đoạn một cách chi tiết, do đó các thông tin cần thiết nên được khai thác từ gia đình hoặc bạn bè của người bệnh bất cứ khi nào có thể.
– Tại bệnh viện hoặc cơ sở y tế: Nồng độ glucose máu thấp < 2,8 mmol/L (50 mg/dL), khi nồng độ glucose máu thấp < 1,7 mmol/L (30 mg/dL) thì được gọi là hạ đường máu nặng. Xét nghiệm đường máu mao mạch là một biện pháp sàng lọc nhanh để xác đinh nồng độ glucose máu. Tại nhà bệnh nhân có thể dùng các máy thử đường máu tại nhà mà hàng ngày bệnh nhân vẫn dùng để theo dõi kiểm tra.
– Xét nghiệm tìm kiếm các nguyên nhân gây hạ đường máu như nhiễm trùng/nhiễm khuẩn, nhồi máu cơ tim, TBMN, rối loạn chức năng/suy thận, uống rượu, có thai, dung thuốc (đặc biệt là các thuốc kích thích), các chấn thương kín, suy nhược (có thể làm ăn uống kém hoặc quá liều insulin/thuốc uống hạ đường máu).
Người bệnh ĐTĐ được điều trị bằng insulin hoặc các thuốc kích thích bài tiết insulin, các tác động bảo vệ nhằm dự phòng hạ đường máu sẽ bắt đầu khi cơ chế tự theo dõi phát hiện nồng độ glucose máu < 3,9 mmol/L (70 mg/dL). Do đó khả năng có hạ đường máu là rất cao ở những người bệnh này. Vì vậy những người mới uống thuốc hạ đường máu cần lưu ý.
Phải có đủ ba tiêu chuẩn chẩn đoán hạ đường máu đã được chứng minh trong nghiên cứu Whipple:
Thực hiện các biện pháp cấp cứu ban đầu theo các bước ABC
Truyền glucose tĩnh mạch (tại cơ sở y tế)
Ăn uống đường miệng
Glucagon
Chú ý thời gian tác dụng của insulin hoặc các thuốc uống hạ đường máu mà người bệnh đã sử dụng. Cần nhập viện theo dõi để điều chỉnh liều thuốc nếu như hạ đường máu nặng hoặc tái đi tái lại.
Tại bệnh viện: kiểm tra đường máu mao mạch mỗi giờ cho tới khi nồng độ glucose máu ổn định. Nói chung người bệnh cần được theo dõi qua thời gian tác dụng đỉnh của insulin, cụ thể như khoảng từ 30 phút tới 1-2 giờ đối với insulin lispro hoặc insulin aspart, 2 – 4 giờ đối với regular insulin, hoặc 6 – 8 giờ đối với NPH. Insulin glargine không có hoạt động đỉnh và nói chung bản thân nó không gây hạ đường máu. Những người bệnh dùng insulin tác dụng chậm có thời gian tác dụng đỉnh như lente hoặc ultralente, hoặc người bệnh uống thuốc sulfonylurea thì cần phải được theo dõi chặt chẽ hơn.
Theo Cẩm nang truyền thông y học
Bài viết Chẩn đoán và xử trí cấp cứu hạ đường huyết đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cấp cứu đột quỵ não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Có hai loại đột quỵ não: chảy náu não và tắc mạch máu não.
Đột quỵ não hiện nay là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 3 sau các bệnh lý tim mạch và ung thư, nhưng là nguyên nhân gây tàn phế đứng hàng thứ nhất.
Tìm kiếm các dấu hiệu, triệu chứng mà bạn nghi ngờ một ai đó có thể bị đột quỵ não, đồng thời phải ghi nhận thời điểm người bệnh xuất hiện các dấu hiệu đó, vì nó rất quan trọng đối với việc điều trị của thầy thuốc.
Bất thường về đi lại: thậm chí chỉ là mất khả năng phối hợp động tác, mất thăng bằng, chóng mặt.
Bất thường về lời nói và hiểu lời nói
Tê bì hoặc liệt một nửa bên mặt, tay, chân.
Bất thường về nhìn ở một hoặc cả hai bên mắt
Đau đầu: đau đầu đột ngột, dữ dội, có thể kèm theo nôn mửa, chóng mặt, thay đổi về nhận thức.
Khi người bệnh có bất kỳ một trong các dấu hiệu nêu trên, cần phải vào ngay bệnh viện để được xử trí cấp cứu kịp thời.
Các nguyên nhân gây dột quỵ thiếu máu não: (đây là loại đột quỵ não chiếm tỷ lệ đến 85%)
– Do các cục huyết khối hình thành ở các mạch máu cung cấp máu cho não làm hẹp lòng mạch, dẫn đến giảm lượng máu lên não.
– Do các cục huyết khối từ xa bắn lên não gây tắc mạch não, mà thường gặp nhất là do huyết khối từ tim.
Các nguyên nhân gây đột quỵ chảy máu não: do vỡ các mạch máu não xảy ra ở những người tăng huyết áp không được điều trị, do vỡ các túi phình của mạch máu não hoặc do vỡ các bất thường của dị dạng động – tĩnh mạch não.
Các yếu tố nguy cơ của đột quỵ não: có nhiều yếu tố nguy cơ có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ não.
Các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được:
Các yếu tố nguy cơ khác:
Có nhiều cách để làm giảm nguy cơ tái phát của đột quỵ. Trong đó quan trọng nhất là kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ và thay đổi chế độ sóng. Các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của đột quỵ não là tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái tháo đường và hút thuốc lá. Thay đổi chế độ sống bao gồm giảm chế độ ăn nhiều chất béo và muối, hạn chế uống rượu…
Theo Cẩm nang truyền thông BV Bạch Mai
Bài viết Cấp cứu đột quỵ não đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cấp cứu điện giật – Những điều cần làm ngay đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Tổn thương do điện xảy ra theo 3 cơ chế: (1) tác động trực tiếp của dòng điện lên mô cơ thể; (2) chuyển đổi năng lượng điện thành năng lượng nhiệt gây bỏng sâu và bỏng bề mặt; (3) tổn thương cơ học do sét đánh, do co cơ, hoặc các chấn thương sau ngã do điện giật. Khi tiếp xúc, dòng điện một chiều (DC) sẽ đẩy hoặc quăng nạn nhân ra khỏi nguồn điện, do đó nạn nhân có thời gian tiếp xúc dòng điện ngắn hơn nhưng khả năng gây chấn thương phối hợp cao hơn. Ngược lại, dòng điện xoay chiều (AC) có xu hướng dính chặt lấy nạn nhân (thường là bàn tay) và kéo nạn nhân lại gần nguồn điện hơn, do đó kéo dài thời gian tiếp xúc gây tổn thương mô nặng hơn.
Để cấp cứu đúng cách khi bị điện giật, cần nhận biết được dấu hiệu điện giật, phân loại các tổn thương và sơ cứu phù hợp.
Theo lâm sàng, có bốn loại tổn thương do điện:
1) Kiểu tổn thương kinh điển: xuất hiện khi cơ thể là một phần của mạch điện và thường có vết thương vào và vết thương ra. Các vết thương này không giúp dự đoán đường đi của dòng diện và các biểu hiện tổn thương da có thể gây đánh giá thấp mức độ thổn thương do nhiệt bên trong.
2) Bỏng tia hay bỏng hồ quang (flash or arc burns): xảy ra khi hồ quang dòng diện đánh lên da nhưng không vào cơ thể.
3) Bỏng lửa: do ngọn lửa từ nguồn điện bén vào quần áo.
4) Tổn thương do sét (lightning injuries): gây ra do tiếp xúc với dòng điện một chiều (DC) từ tia sét.
– Tim: hay gặp các rối loạn nhịp tim, hầu hết các trường hợp là nhẹ và xảy ra trong vòng vài giờ đầu tiên nhập viện. Ngừng tim đột ngột (thường do dòng điện một chiều hoặc sét đánh) hoặc rung thất (thường do dòng điện xoay chiều) trước khi nhập viện. Rung thất là rối loạn nhịp tim gây tử vong thường gặp nhất, xảy ra trong khoảng 60% bệnh nhân có đường đi củ dòng điện từ tay này sang tay khác. Rối loạn nhịp nhĩ, block tim độ 1 và 2 và block nhánh cũng đã được ghi nhận.
– Thận: Tiêu cơ vân do hoại tử mô và có thể nặng hơn nếu có tổn thương thận cấp do lắng đọng sắc tố của tế bào cơ trong ống thận. Giảm thể tích máu do thoát dịch ra ngoài lòng mạch có thể gây tăng ure máu trước thận và hoại tử ống thận cấp.
– Thần kinh: tổn thương cả hai hệ thống thần kinh trung ương và thần kinh ngoại biên: có thể xuất hiện sau tổn thương do điện. Các biểu hiện bao gồm mất ý thức, yếu hoặc liệt chi, suy giảm hô hấp, rối loạn chức năng thần kinh tự động và rối loạn trí nhớ. Rối loạn cảm giác và vận động do tổn thương thần kinh ngoại biên khá phổ biến.
– Da: Bỏng da có thể xảy ra sau điện giật. Bỏng thường thấy nhất ở các vị trí tiếp xúc với điện và các vị trí tiếp xúc với mặt đất tại thời điểm tổn thương. Không được dựa vào tổn thương bên ngoài để xác định mức độ tổn thương bên trong, đặc biệt với các tổn thương do điện áp thấp. Bỏng miệng có thể xảy ra ở trẻ em do bú hoặc nhai dây điện gây chảy máu, gây khuyết tật thẩm mỹ (đặc biệt khi có cả tổn thương vùng mép)
– Cơ xương: xương có điện trở cao nhất so với bất cứ mô cơ thể nào cho nên nó tạo ra một lượng nhiệt lớn nhất khi tiếp xúc với một dòng điện. Vì vậy, các vùng tổn thương do nhiệt lớn nhất thường là các mô ở sâu xung quanh các xương dài, có thể gây bỏng màng xương, phá hủy tế bào chất của xương và hoại tử xương. Ngoài các tổn thương do bỏng, xương có thể bị gãy do ngã, tổn thương do nổ xương, hoặc do cơ cứng cơ. Các tổn thương nhiệt do điện ở sâu có thể gây hoại tử và phù nề mô và xuất hiện hội chứng ép khoang cấp tính, dẫn tới tiêu cơ vân và/hoặc tổn thương nội tạng.
– Hệ thống mạch máu, đông máu và các tổn thương khác: tổn thương mạch máu do hội chứng ép khoang hoặc đông cứng các mạch máu nhỏ, cũng có thể có tắc mạch do huyết khối động mạch. Có thể có tổn thương cơ quan bên trong như phổi, dạ dày, ruột non và đại tràng và gây biến chứng đường rò, thủng, nhiễm khuẩn thứ phát, nhiễm trùng (sepsis) và tử vong. Bệnh nhân ngã hoặc bị văng mạnh do tiếp xúc với dòng điện có thể bị tổn thương nặng, cần phải được đánh giá một cách cẩn thận.
Bệnh nhân được đưa tới bệnh viện sau khi bị điện giật có thể có một loạt các tổn thương, các tổn thương này bao gồm các chấn thương sau ngã hoặc sau khi bị văng mạnh do điện giật, cần phải được thăm khám cẩn thận.
Một vài tổn thương có thể không biểu hiện ngay, vì vậy việc đánh giá lại thường xuyên rất cần thiết. Các cơ quan quan trọng cần được đánh giá bao gồm: đường thở, hô hấp và tuần hoàn; chức năng tim mạch (kiểm tra nhịp tim, bắt mạch); da (đánh giá tổn thương bỏng; tìm kiếm vùng da phồng rộp, cháy đen và các tổn thương khác, chú ý các nếp gấp da, vùng da xung quanh các khớp và miệng ở trẻ em; chức năng thần kinh (đánh giá trình trạng ý thức, đồng tử, chức năng vận động và cảm giác); mắt (đánh giá thị lực, kiểm tra mắt bao gồm cả việc thăm khám đáy mắt); tai, mũi và họng (kiểm tra màng nhĩ, đánh giá thính giác); cơ xương (kiểm tra và bắt mạch để tìm kiếm các dấu hiệu của tổn thương như gãy xương, hội chứng ép khoang cấp tính và thăm khám cột sống).
Với những bệnh nhân cần theo dõi hoặc nhập viện sau tổn thương do điện, chúng ta cần làm các cận lâm sàng sau; điện tâm đồ; điện giải máu cơ bản (gồm cả kali và calci); CK, các men SGOT, SGPT (nhằm xác định tổn thương cơ); troponin máu; công thức máu; xét nghiệm chức năng thận (creatinin và ure); chẩn đoán hình ảnh cho bất cứ vùng nào mà ta nghi ngờ có tổn thương. Có thể làm lại xét nghiệm nếu có chỉ định lâm sàng. Với những bệnh nhân không có triệu chứng, tiếp xúc với điện áp thấp và thăm khám lâm sàng không thấy bất thường thì các chỉ định cận lâm sàng nói chung không cần thiết.
Cấp cứu ban đầu khi bị điện giật là cực kỳ quan trọng vì bệnh nhân bị điện giật ở mức độ nặng thường cần phải xử lý tại chỗ trước khi chuyển tới bệnh viện, đây là bước sống còn.
Khẩn cấp cắt nguồn điện (tránh chạm trực tiếp vào bệnh nhân trước khi cắt được nguồn điện) và nhanh chóng khám sơ bộ: ý thức (hôn mê), ngừng tim (mạch bẹn không bắt được), ngừng thở, chấn thương (gãy cột sống cổ, chấn thương ngực, chảy máu nhiều..)
Tiến hành ngay các biện pháp hồi sinh tim phổi nếu bệnh nhân ngừng tim, ngừng thở:
– Đặt nạn nhân nằm ngửa trên nền đất cứng hoặc ván cứng đầu ngửa tối đa (không làm nếu chưa loại trừ chấn thương cột sống cổ), lấy dị vật trong miệng nạn nhân.
– Đấm vào vùng trước tim nạn nhân 5 cái, nếu tim không đập lại tiến hành thổi ngạt kết hợp ép tim ngoài lồng ngực: thổi ngạt kiểu “miệng – miệng” hoặc “miệng – mũi”, 30 lần ép tim 2 lần thổi ngạt. Tiếp tục cấp cứu đến khi tim đập lại, nạn nhân tự thở được.
– Khi nạn nhân tự thở được, tim đập lại tiến hành cố định cột sống cổ (nếu nghi ngờ tổn thương), cố định xương gãy, băng cầm máu, truyền dịch nếu có tụt huyết áp, chuyển bệnh nhân đến bệnh viện.
Mắc máy theo dõi liên tục nhịp tim, HA, SpO2, nhịp thở. Thở oxy qua ống thông mũi hoặc mặt nạ, đặt canuyn miệng nếu tụt lưỡi. Nếu suy hô hấp nặng phải dùng bóng oxy qua mặt nạ hoặc nội khí quản. Đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại biên chắc chắn để truyền thuốc và dịch. Đặt túi theo dõi nước tiểu. Làm các xét nghiệm cơ bản ban đầu: xét nghiệm cơ bản (công thức máu, urê, creatinein máu, điện giải máu, đường máu, CK, men gan), ghi điện tim.
Không chạm vào chỗ đang có điện trong nhà như: ổ cắm điện, cầu dao, cầu chì không có nắp đậy, chỗ tróc vỏ bọc cách điện củ dây dẫn điện, chỗ nối dây, dây điện trần… Dây điện trong nhà phải được đặt trong ống cách điện và dùng loại dây có vỏ bọc cách điện, có tiết diện dây đủ lớn để có dòng điện cho phép của dây dẫn lớn hơn dòng diện phụ tải để dây điện không bị quá tải gây chạm chập, phát hỏa trong nhà. Không sử dụng dây điện, thiết bị điện, đồ dùng điện trong nhà có chất lượng kém vì các thiết bị này có lớp cách điện xấu dễ gây chạm chập, rò điện ra vỏ gây điện giật chết người và dễ gây phát hỏa trong nhà.
Phải lắp cầu dao hay áp tô mát ở đầu đường dây điện chính trong nhà, ở đầu mỗi nhánh dây phụ và lắp cầu chì ở trước các ổ cắm điện để ngắt dòng diện khi có chạm chập, ngăn ngừa phát hỏa do chập điện. Khi sửa chữa điện trong nhà phải cắt cầu dao (hoặc áp tô mát) điện và treo bảng “cấm đóng điện, có người đang làm việc” tại cầu dao (hoặc áp tô mát) để không bị điện giật. Không đóng cầu dao (hoặc áp tô mát), bật công tác điệt khi tay ướt, chân không mang dép, đứng nơi ẩm ướt. Các thiết bị điện, đồ dùng điện, cầu dao điện, áp tô mát, công tắc, ổ cắm điện… bị hư hỏng phải sửa chữa thay thế ngay để người sử dụng không chạm phải các phần dẫn điện gây điện giật.
Khi sử dụng các công cụ điện cầm tay (máy khoan, máy mài..) phải mang găng tay cách điện hạ thế để không bị điện giật khi công cụ bị rò điện. Không đặt trang thiết bị điện phát nhiệt ở gần đồ vật dễ chãy nổ để không làm phát hỏa trong nhà. Nên nối đất vỏ kim loại các thiết bị điện trong nhà như: vỏ tủ lạnh, vỏ máy nước nóng, máy giặt, vỏ máy bơm nước… để không bị điện giật khi thiết bị điện bị rò điện ra vỏ.
Cẩm nang TT BV Bạch Mai
Bài viết Cấp cứu điện giật – Những điều cần làm ngay đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Tai biến khi truyền dịch và những lưu ý đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Không phải người nào khi bị ốm cũng cần truyền dịch. Truyền dịch chỉ được áp dụng cho những trường hợp sau.
Những trường hợp này là những bệnh nhân bị tiêu chảy cấp (tả, nhiễm trùng nhiễm độc thức ăn…); bệnh nhân nôn nhiều, bệnh nhân bị bỏng nặng, bệnh nhân sốt cao mất nước, bệnh nhân bị hẹp môn vị không ăn uống được… Mục tiêu của truyền dịch trong trường hợp này là bù đủ lượng dịch mà cơ thể đã bị mất để đảm bảo thể tích tuần hoàn duy trì huyết áp và lượng nước trong các mô của cơ thể.
Truyền dịch là liệu pháp điều trị ở cơ sở y tế
Mục đích của truyền dịch trong trường hợp này là để nuôi dưỡng bệnh nhân.
Truyền dịch, cũng như tất cả các liệu pháp điều trị khác, đều có thể gây nên những tai biến với một tỷ lệ nhất định. Các tai biến khi truyền dịch phổ biến như sau.
Có nguyên nhân là do các thành phần trong dịch truyền, do thuốc pha trong dịch truyền gây nên. Tai biến này có thể xảy ra ngay khi vừa truyền dịch với những biểu hiện như tức ngực, khó thở, co thắt thanh quản, co thắt phế quản, vật vã, tím tái, mạch nhanh, huyết áp tụt… và bệnh nhân sẽ tử vong rất nhanh chóng nếu không được cấp cứu kịp thời.
Do truyền một lượng dịch quá nhiều hoặc truyền với tốc độ quá nhanh. Một lượng dịch khá lớn vào tim phải sẽ được bơm lên phổi và ứ tại đây do tim trái không kịp đẩy dịch ra ngoại biên và kết quả là dịch thoát vào phổi, ngăn cản quá trình trao đổi ôxy tại phổi gây suy hô hấp.
Phù phổi cấp thường xảy ra sau khi một lượng khá lớn dịch đã được truyền vào bệnh nhân hoặc tốc độ truyền quá nhanh. Biểu hiện sớm nhất của tai biến này là mạch nhanh, tức ngực, khó thở, muộn hơn bệnh nhân có các triệu chứng như khó thở dữ dội, tím môi đầu chi hoặc tái nhợt, ho, khạc bọt hồng, nghe phổi có nhiều rales ẩm hai bên, chụp Xquang phổi có đám mờ hình cánh bướm hai phế trường.
Những biểu hiện này có thể xảy ra sớm trong khi truyền dịch hoặc muộn hơn sau khi đã truyền xong dịch. Triệu chứng của dị ứng rất dễ phát hiện khi bệnh nhân cảm thấy khó chịu, bứt rứt, nổi mẩn ngứa khu trú hoặc toàn thân. Đây cũng là một tai biến có nguyên nhân do các thành phần trong dịch truyền hoặc do thuốc pha trong dịch truyền gây nên.
Các loại dịch truyền luôn được sản xuất và bảo quản sao cho được vô khuẩn tuyệt đối nhưng trong một số trường hợp vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể qua bộ dây truyền dịch, chai dịch bị rò rỉ, bị nhiễm khuẩn, do sát khuẩn khu vực đặt kim truyền không đảm bảo… Biến chứng này xảy ra muộn hơn, thường là một vài ngày sau khi truyền dịch.
Người bệnh chỉ truyền dịch khi có chỉ định của bác sĩ và phải thực hiện tại cơ sở y tế có đủ điều kiện xử trí tai biến. Ảnh: TL
Mặc dù ít gặp, nhưng cũng phải kể đến những biến chứng khác có thể xảy ra khi truyền dịch như chảy máu, tụ máu nơi đặt kim truyền; tắc mạch phổi do để khí vào dây truyền; hạ thân nhiệt khi truyền dịch không được làm ấm vào mùa lạnh. Truyền dịch cũng có thể làm tăng đường máu (với dịch có chứa đường), làm tăng natri máu (với dịch có chứa muối) ở một số đối tượng bệnh nhân đặc biệt.
Theo TS, BS Vũ Đức Định
Bài viết Tai biến khi truyền dịch và những lưu ý đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Phòng bệnh và cách xử trí khi bị say nắng, say nóng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Tùy theo biểu hiện của sốc nhiệt mà chia thành say nóng tức sốc nhiệt, và say nắng tức lả nhiệt. Với từng trường hợp, có biện pháp chăm sóc khác nhau vì cơ chế gây bệnh khác nhau.
Lả nhiệt hay say nóng là bệnh lý nhiệt hay gặp nhất do suy chức năng kiểm soát nhiệt từ nhẹ tới vừa thường kèm theo tăng nhiệt độ không khí và/hoặc kèm theo gắng sức thể lực dẫn tới mất muối và nước. Có thể diễn biến thành sốc nhiệt.
Sốc nhiệt hay say nắng (heat stroke) là tình trạng tăng thân nhiệt quá mức, thường > 40 độ, thường kèm theo đáp ứng viêm hệthống dẫn tới tổn thương cơ quan đích cùng với tổn thương thần kinh, và tình trạng bí mồ hôi (anhidrosis).
Tổn thương do nhiệt: Khi nhiệt độ tăng cao quá mức tế bào có thể chịu đựng dẫn tới thoái hoá protein. Từ đó gây thiếu máu, thiếu oxy, nội độc tố, cytoxin viêm. Những trường hợp có nồng độprotein này thấp đều dễ bị tổn thương nhiệt như tuổi cao, mất thích nghi khí hậu hoặc đa gen.
Đáp ứng viêm: Sau khi bị stress nhiệt, sản sinh ra nhiều chất trung gian của đáp ứng viêm nhằm bảo vệ và sửa chữa tổn thương. Những cytokine và interlerkin tạo ra sốt, trục hạ đồi-tuyến yên-thượng thận. Những sản phẩm trung gian này làm tăng tính thấm thành ruột dẫn tới tạo các nội độc tố. Chúng kết hợp lại làm suy giảm khả năng điều hoà nhiệt và phòng ngừa tụt HA, tăng nhiệt độ.
Dịch tễ: Tỉ lệ tử vong liên quan tới nhiệt tuỳ thuộc vào vị trí địa lý, phong tục tập quán, tập hành hương. Nguy cơ tử vong tuỳ thuộc vào nhiệt độ, thời gian phơi nhiễm, sự thích nghi khí hậu. Tuổi cao hoặc trẻ sơ sinh nguy cơ cao khi nhiệt độ môi trường thay đổi.
Tiển sử của những người bị say nắng, say nóng có thể là tăng thân nhiệt và hậu quả xảy ra sau khi phơi nhiễm với nhiệt trong đó cơ chế điều hoà nhiệt bị quá tải bởi môi trường nóng và giảm khả năng thải nhiệt.
Điều trị say nắng và say nóng chủ yếu sơ cứu và xử trí ngoài bệnh viện. Các biện pháp điều trị tập trung vào việc điều hòa lại thân nhiệt cho người bệnh, bổ sung nước và điện giải…
Làm mát ngay tức thì và hỗ trợ suy chức năng cơ quan.
Đưa người bệnh ra khỏi môi trường nóng, cởi bỏ quần áo, chuyển tới nơi bóng râm, lên xe mát hay nhà lạnh.
Làm mát tức thì bằng bất kỳ phương tiện gì sẵn có nhưng chuyển ngay vào viện nếu nghi ngờ sốc nhiệt:
Mặc quần áo thoáng, dễ bay hơi nước, không hấp thụ nhiệt, hạn chế làm việc trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời, uống đủ nước và điện giải.
Cẩm nang Truyền thông Y học BV Bạch Mai
Bài viết Phòng bệnh và cách xử trí khi bị say nắng, say nóng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>