Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Mon, 18 May 2020 01:49:56 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Nguy hiểm khi đứt dây chằng trong chấn thương đầu gối https://benh.vn/nguy-hiem-khi-dut-day-chang-trong-chan-thuong-dau-goi-9242/ https://benh.vn/nguy-hiem-khi-dut-day-chang-trong-chan-thuong-dau-goi-9242/#respond Mon, 01 Jul 2019 03:03:54 +0000 http://benh2.vn/nguy-hiem-khi-dut-day-chang-trong-chan-thuong-dau-goi-9242/ Chấn thương đầu gối trong luyện tập & chơi thể thao có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là các môn đối kháng như bóng đá, tennis… Trong đó việc đứt dây chằng đầu gối thường để lại những di chứng lâu dài mà người chơi cần tìm hiểu để tránh chấn thương.

Bài viết Nguy hiểm khi đứt dây chằng trong chấn thương đầu gối đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Chấn thương đầu gối trong luyện tập & chơi thể thao có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là các môn đối kháng như bóng đá, tennis… Trong đó việc đứt dây chằng đầu gối thường để lại những di chứng lâu dài mà người chơi cần tìm hiểu để tránh chấn thương.

Triệu chứng

+ Đau vừa và nhức nhối, hơi sưng đầu gối, có thể cử động được khớp gối; Biểu hiện đau nhức chỉ xuất hiện khi các phần xung quanh khớp gối như sụn chêm, sụn khớp bị tổn thương.

+ Đau và nhức nhối dữ dội hơn, sưng vừa, khó bước đi, không ổn định khớp, cử động trung bình thấy đau phải dừng lại;

+ Đau dữ dội, sưng to, chỗ sưng của khớp gối có thể do tích tụ chất hoạt dịch trong bao hoạt dịch hay chất dịch ở trong khớp, biến dạng khớp gối, hoàn toàn không cử động được khớp gối.

+ Khi đứng, các đầu gối bình thường duỗi thẳng, nếu gấp thường xuyên có thể do co cứng đầu gối, hông hoặc thậm chí cả bàn chân…

Các tổn thương thường gặp

– Đứt dây chằng chéo trước: Biểu hiện lâm sàng là sưng và đau vùng gối. Bệnh nhân có thể cảm nhận được tiếng “rắc” ngay khi chấn thương. Sau đó gối sưng đau và hạn chế vận động. Dù bệnh nhân có điều trị hay không thì tình trạng sưng đau dần cũng tự hết.

– Lỏng gối: Biểu hiện là bệnh nhân có cảm giác chân yếu khi đi lại. Khó khăn khi đứng trụ một chân bên gối lỏng. Khi chạy nhanh có cảm giác ríu chân, dễ vấp ngã. Khi đi nhanh trên đường không bằng phẳng, dễ có cảm giác trẹo gối. Lên cầu thang cảm giác không thật chân, khó khăn khi đi xuống dốc hoặc bước xuống cầu thang.

– Đứt dây chằng chéo sau: Giống với biểu hiện lâm sàng của tổn thương dây chằng chéo trước, như sưng và đau ngay sau chấn thương, lỏng gối, teo cơ.

– Tổn thương dây chằng bên ngoài: Tổn thương dây chằng bên mác thường đi kèm với các tổn thương của các cấu trúc xung quanh như gân cơ kheo hoặc dải chậu chày.

– Tổn thương sụn chem: Là tổn thương hay gặp nhất ở khớp gối trong chấn thương thể thao (cầu thủ bóng đá), ngoài ra khá thường gặp do tai nạn giao thông.

Phòng ngừa

– Khởi động, tập luyện kỹ và đúng cách trước khi chơi thể thao để gân cơ sẵn sàng vào cuộc.

– Lưu ý các tư thế kỹ thuật đúng động tác.

– Nên chơi thể thao vào buổi sáng hoặc giờ chính, tránh chơi buổi trưa hoặc buổi tối, vì khi đó cơ thể đang mệt mỏi cần được nghỉ ngơi.

– Tránh ham hoặc thái quá dễ dẫn đến chấn thương.

Lưu ý: Sân bãi trong thể thao cần đảm bảo tiêu chuẩn, sau khi chơi ở cường độ mạnh nên đi lại nhẹ nhàng, thả lỏng để đưa cơ thể về trạng thái ổn định rồi mới chuyển qua hoạt động khác.

Lời kết

Đứt dây chằng khớp gối khi chơi thể thao là chấn thương có xu hướng gia tăng nhưng rất nhiều người không hề biết mình bị đứt dây chằng. Nguyên nhân khi bị đứt dây chằng khớp gối chỉ sưng một thời gian, sau đó hết sưng và bệnh nhân vẫn đi lại được, không có biểu hiện đau nhiều, chỉ khó khăn trong chơi thể thao và vận động mạnh.

Qua đó, các chuyên gia khuyến cáo người chơi cần chọn lựa môn thể thao phù hợp với sức khỏe, lứa tuổi. Tuân thủ các nguyên tắc khi chơi thể thao là khởi động kỹ trước khi luyện tập, đảm bảo đúng các động tác chuyên môn, không chơi thể thao khi người quá mệt, sau thời gian đau ốm kéo dài, sau khi uống rượu bia…để tránh mọi chấn thương có thể sẽ xảy ra. Đặc biệt là chấn thương đầu gối, đứt dây chằng quanh khớp gối…nếu không được phẫu thuật tái tạo kịp thời thì khớp gối sẽ bị xộc xệch, lâu ngày khớp sẽ dần bị tổn thương và thoái hóa nghiêm trọng.

Bài viết Nguy hiểm khi đứt dây chằng trong chấn thương đầu gối đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nguy-hiem-khi-dut-day-chang-trong-chan-thuong-dau-goi-9242/feed/ 0
Gãy cổ xương đùi chẩn đoán và xử trí ngoại khoa https://benh.vn/gay-co-xuong-dui-chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-4176/ https://benh.vn/gay-co-xuong-dui-chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-4176/#respond Fri, 14 Sep 2018 04:51:12 +0000 http://benh2.vn/gay-co-xuong-dui-chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-4176/ Gãy cổ xương đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông).

Bài viết Gãy cổ xương đùi chẩn đoán và xử trí ngoại khoa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
– Gãy cổ xương đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển.

– Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông)

– Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.

– Tiên lượng về liền xương khá phức tạp do khớp giả và sự tiêu chỏm.

– Thường đe doạ tính mạng bởi các biến chứng như viêm phổi, nhiễm trùng tiết niệu, suy tim, lở loét do nằm lâu.

gãy cổ xương đùi

Các yếu tố quan trọng về giải phẫu

1. Điểm yếu

Nằm giữa hai hệ xương: hệ quạt chân đế và hệ cung nhọn.

2. X quang

Các điểm cốt hoá:

  • 1 tuổi: có điểm cốt hoá đầu xương
  • 5 tuổi: xuất hiện thêm điểm cốt hoá ở mấu chuyển lớn.
  • 8 tuổi: phát triển mạnh các điểm cốt hoá ở đầu xương và mấu chuyển lớn
  • 10 tuổi: xuất hiện thêm điểm cốt hoá mấu chuyển bé
  • 13 tuổi: đầu xương phát triển hoàn toàn nhưng các mấu chuyển chỉ dính chắc vào xương từ 16-18 tuần và chỏm xương dính chắc vào đùi từ 18-20 tuổi.

Đường cung cổ bịt: Là đường hình cung nối liên tục của bờ cổ xương đùi và gờ trên lỗ bịt

Góc cổ thân: Là góc được tạo bởi trục của cổ xương đùi và của thân xương đùi. Bình thường góc khoảng chừng 1300.

3. Tuần hoàn nuôi dưỡng chỏm

Có 3 nhóm:

– Nhóm trên: được hình thành từ 3-4 nhánh nhỏ tách ra từ động mạch mũ sau, nối với các nhánh mũ trước, nhánh bịt, các nhánh đi theo bao khớp vào nuôi dưỡng khoảng trên của chỏm.

– Nhóm dưới-trong: tách ra từ động mạch mũ sau nuôi dưỡng 1/4 dưới của chỏm.

– Động mạch dây chằng tròn: tách từ động mạch bịt, có vai trò rất nhỏ chỉ nuôi dưỡng một phần của chỏm

Phân loại mức độ gãy cổ xương đùi

1. Theo Garden

Dựa vào các tương quan hiện có của các thớ xương dọc. Nếu sự tương quan còn được duy trì, tức sự di lệch ít quan trọng và sự nuôi dưỡng chỏm sẽ tốt nhờ bao khớp còn nguyên vẹn. Tiên lượng sẽ tốt.

  • Độ I: gãy dạng cài nhau, các thớ xương còn thẳng
  • Độ II: gãy cài không di lệch, các thớ xương còn giữ hướng thẳng nhưng bị lực ép giữa các xương gãy.
  • Độ III: gãy di lệch khép, thớ xương nằm ngang
  • Độ IV: gãy rất di lệch, đầu xương tự do trong ổ cối, chỗ gãy tiếp xúc với dây chằng tròn, các thớ xương song song nhưng tách rời ra. Chỏm sẽ đe doạ hoại tử.

2. Theo Pauwels

  • Pauwels I: đường gãy tạo với đường nằm ngang 1 góc tương đương 300, dễ liền xương
  • Pauwels II: góc này tương đương 500, tiên lượng liền xương khó.
  • Pauwels III: góc này tương đương 700, nguy cơ hoại tử chỏm cao.

Triệu chứng lâm sàng

Tuỳ theo dạng gãy (gãy khép hay dạng) mà biểu hiện các triệu chứng lâm sàng có khác nhau.

1. Gãy cổ chính danh dạng gãy khép

Thường hay gặp, các đoạn gãy tách rời xa bởi co kéo của cơ. Đoạn gãy dưới ở tư thế khép và xoay ngoài.

Giải phẫu bệnh

– Vị trí

  • Loại gãy dưới chỏm: loại này điều trị phức tạp vì chỉ còn chỏm xương nhỏ. Phần chỏm nuôi dưỡng kém chỉ còn động mạch dây chằng tròn do đó liền xương khó, dễ đưa đến khớp giả hoặc tiêu chỏm.
  • Gãy xuyên cổ: tiên lượng tốt hơn loại trên vì còn một phần xương dính vào chỏm, dinh dưỡng tốt hơn.
  • Hướng đường gãy: thường chếch từ dưới lên trên từ trong ra ngoài.
  • Di lệch: các đoạn gãy không cài nhau.
  • Đoạn xa di lệch lên trên do cơ mông kéo, hai đoạn xương gập góc, ở góc xuống dưới và ra sau.

Triệu chứng lâm sàng

– Đau: lệch thường, đau nhiều nhất là khi gắng cử động háng.

– Mất cơ năng hoàn toàn: lệch không thể nhấc chân lên khỏi mặt phẳng giường.

– Biến dạng:

  • Chân gãy ngắn, đùi khép, bàn chân xoay ra ngoài
  • Sờ thấy mấu động lớn bị kéo lên trên.
  • Có sự thay đổi của đường Nélaton Roser, bình thường thì gai chậu trước trên mấu động to, ụ ngồi ở cùng trên một đường thẳng. Khi gãy mấu động to bị kéo lên cao, ở trên đường nối gai chậu trước trên và ụ ngồi.
  • Có thể có tràn dịch khớp gối bên gãy.

X quang

Cần chụp thẳng và nghiêng háng bên gãy. Có thể thấy:

  • Đường gãy ở bờ trong của cổ chéo xuống dưới và vào trong, hoặc đường gãy giữa cổ thẳng góc với trục cổ xương.
  • Về di lệch thấy đoạn ngoài bị kéo lên trên chỏm xoay làm trục cổ xương bị gục xuống dưới. Trên phim nghiêng thấy 2 đoạn gãy không cài vào nhau, đó là dấu hiệu chính. Sau khi khám xác định gãy xương cần đánh giá tình trạng toàn thân để có chỉ định và điều trị phù hợp.

2. Gãy cổ chính danh gãy dạng

Ít gặp hơn gãy khép vì hai đoạn cài nhau.

Triệu chứng lâm sàng

Sau ngã đập khối mấu chuyển xuống đất, xương gãy và làm cài cổ xương. Triệu chứng lâm sàng thường không rõ ràng, giảm cơ năng không hoàn toàn, bệnh nhân có thể nhấc gót chân khỏi giường và có trường hợp vẫn đứng dậy được, sau đó đoạn gãy có thể bị tách rời ra trở thành gãy khép.

X quang

Đường gãy dưới chỏm hoặc xuyên cổ gần như là ngang. Hai đoạn gãy cài nhau làm mở rộng góc cổ thân.

Tiến triển và biến chứng

Nếu điều trị tốt có thể tránh được các biến chứng toàn thân, xương liền sau 3-4 tháng, không có di chứng. Nếu điều trị không tốt thì để lại nhiều biến chứng.

1. Biến chứng sớm

– Choáng chấn thương: hiếm gặp

– Thương tổn phối hợp: tổn thương ổ khớp hoặc gãy xương đùi.

2. Biến chứng muộn

– Toàn thân

  • Thương tổn loét da, loét mông, gót chân xương cùng
  • Thương tổn tim phổi: viêm phế quản, viêm phổi, nguy cơ suy tim
  • Biến chứng tiết niệu: nhiễm khuẩn đường tiết niệu
  • Tai biến huyết khối: viêm tĩnh mạch và huyết khối phổi.

– Tại chỗ

  • Can lệch: trong tư thế háng khép, gãy ngắn chi 4-5cm và có thể bù trừ bằng cong chậu hông, cột sống, đi dép đế cao.
  • Can xấu: dễ có nguy cơ thoái hoá khớp nhất là khớp háng, cột sống.
  • Khớp giả: do thiếu sót về điều trị như bất động kém, tập vận động sớm. Triệu chứng lâm sàng gợi ý là đi đau, đi khó như bước hụt, cần chụp X quang để xác định.

Điều trị

1. Phương pháp chỉnh hình

Áp dụng đối với gãy cài: đây là các trường hợp tiên lượng tốt, không bắt buộc bệnh nhân phải nằm yên trên giường. Bệnh nhân có thể nhấc gót chân và nếu được có thể bước đi. X quang phải được kiểm tra để theo dõi đường gãy. Tuy nhiên nguy cơ di lệch thứ phát là rất quan trọng, phải can thiệp phẫu thuật. Do vậy cần phải đề phòng di lệch thứ phát.

Một số phẫu thuật viên điều trị với nằm nghỉ tại giường và vận động chân nhẹ nhàng. Tác giả khác thích bó bột chậu đùi để tập đi dần dần và giúp nhanh liền xương.

Theo điều trị cổ điển, người ta điều trị với bó bột Whitman là loại bột dựa vào xương ức sát nách xuống đến các ngón chân. Khi bột khô cho bệnh nhân tập đứng, đi và để bột khoảng 3-4 tháng. Tuy nhiên do bột nặng nề chỉ áp dụng cho người khoẻ mạnh.

Kéo liên tục: nếu không thể bó bột được, người ta xuyên đinh qua đầu dưới xương đùi và kéo liên tục trên giàn Braun với háng dạng, bàn chân xoay trong. Tuy nhiên do kéo bệnh nhân phải nằm lâu dễ có biến chứng toàn thân, do vậy ít áp dụng.

2. Phương pháp phẫu thuật

Được chỉ định với mọi trường hợp gãy di lệch. Các trường hợp này có thể liền xương tự nhiên và tiến đến khớp giả lỏng với ngắn chi và điểm tựa không tốt trên chi. Mục đích của điều trị là để tránh nằm lâu trên giường do vậy hoặc là kết hợp xương vững chắc để cho phép tập đi với nạng và chống chân dần phía gãy và tập luyện phục hồi chức năng sớm, hoặc là phẫu thuật thay khớp háng để cho phép chống chân đi lại tức khắc.

– Kết hợp xương: Trước hết cần nắn trên bàn chỉnh hình với gây mê toàn thân và kiểm tra X quang.

Có nhiều phương pháp phẫu thuật như dùng đinh, vít đơn thuần, vít ép DHS (Dynamique Hip Scew), đinh-nẹp, nẹp L… sau phẫu thuật phải cho phép tập vận động sớm và tựa dần dần trên chi gãy. Tựa chân hoàn toàn khi có sự liền xương thấy rõ trên X quang, thường sau 2 tháng phẫu thuật. Các phương pháp phẫu thuật thường phụ thuộc từng trường phái cũng như thói quen của phẫu thuật viên.

– Thay khớp háng: có 3 loại: khớp giả chỏm, khớp giả trung gian và toàn bộ.

  • Khớp giả chỏm: được sử dụng từ 1952, nó chỉ thay thế chỏm xương đùi bằng một chỏm kim loại nối liền với một thân dài cắm ở thân xương đùi. Phẫu thuật rất nhanh chóng và ít ảnh hưởng lớn đối với những người có thể trạng kém. Các bước sau phẫu thuật rất đơn giản, bệnh nhân có thể đứng dậy vào ngày hôm sau. Loại khớp giả chỏm này có 2 bất tiện đó là dễ gãy mòn sụn ổ cối và dễ lún sâu phần thân của khớp giả vào ống tuỷ.
  • Để khắc phục nhược điểm thứ hai, người ta dùng xi măng để cắm thân khớp giả vào ống tuỷ hoặc thay thế bằng một thân tương ứng với đường kính ống tuỷ. Sự phù hợp kích thước của thân khớp giả với ống tuỷ là rất thuận lợi dù có dùng xi măng hay không. Để tránh nhược điểm thứ nhất, người ta cải tiến và dùng khớp giả trung gian, tức ổ cối được bảo vệ bằng một chỏm di động nằm giữa chỏm giả và ổ cối. Do vậy phần sau được bảo vệ và thời gian mòn kéo dài hơn.
  • Khớp giả toàn bộ (prothèse totale): áp dụng trong các trường hợp mặt sụn ổ vối không được tốt, đặc biệt các trường hợp gãy cổ xương trên một háng đã có thoái hoá trước đó. Người ta thay một khớp háng toàn bộ với hai mảnh tách rời được cắm trực tiếp vào ổ cối và thân xương đùi.

3. Vấn đề chỉ định điều trị

Phụ thuộc vào tuổi:

– Ở trẻ em và giới trẻ: chỉ định kết hợp xương cho mọi hình thái gãy xương, với bắt vít đơn thuần hoặc vít ép (DHS).

– Ở người già: chỉ định phụ thuộc tình trạng bệnh nhân, tuổi già hay quá già, tình trạng tinh thần, tình trạng sống như thế nào, có bệnh lý khác kèm theo không.

  • Nếu < 60 tuổi thì kết hợp xương
  • 65 – 70 tuổi có thể kết hợp xương nhưng phần lớn đều thay khớp và cho phép vận động tức khắc và nên dùng thay khớp toàn bộ ở tuổi này.
  • 75 – 80 tuổi: dùng khớp bán phần
  • > 80 tuổi: dùng khớp giả chỏm

Tiên lượng

– Hoại tử chỏm có thể xảy ra trong thời gian kết hợp xương đến 2 năm nhất là các trường hợp gãy xương di lệch nhiều.

– Khớp giả sau kết hợp xương

– Viêm ổ cối do chỏm giả, lỏng xi-măng ở thân khớp giả.

Dự phòng bệnh

– Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.

– Cần giáo dục cộng đồng sơ cứu tại chỗ tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương.

– Đối với các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng và chuyển lên tuyến y tế chuyên khoa điều trị sớm để giảm thiểu các biến chứng do gãy cổ xương đùi.

– Giáo dục cho bệnh nhân tập luyện phục hồi chức năng sau điều trị.

Benh.vn

Bài viết Gãy cổ xương đùi chẩn đoán và xử trí ngoại khoa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/gay-co-xuong-dui-chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-4176/feed/ 0
Những chấn thương phổ biến trong bóng đá và cách khắc phục https://benh.vn/nhung-chan-thuong-pho-bien-trong-bong-da-va-cach-khac-phuc-5858/ https://benh.vn/nhung-chan-thuong-pho-bien-trong-bong-da-va-cach-khac-phuc-5858/#respond Sun, 26 Aug 2018 05:35:01 +0000 http://benh2.vn/nhung-chan-thuong-pho-bien-trong-bong-da-va-cach-khac-phuc-5858/ Bóng đá được mệnh danh là môn thể thao vua của mọi thời đại. Tuy nhiên, đây cũng là môn thể thao có tỷ lệ chấn thương tương đối cao. Từ những vụ va chạm trên sân hay những cú nhảy đơn giản cũng có thể gây ảnh hưởng đến các bộ phận trên cơ thể. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu những chấn thương phổ biến trong bóng đá để giúp bạn và người thân của mình phòng tránh và xử lý các chân thương này một cách hiệu quả.

Bài viết Những chấn thương phổ biến trong bóng đá và cách khắc phục đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Bóng đá được mệnh danh là môn thể thao vua của mọi thời đại. Tuy nhiên, đây cũng là môn thể thao có tỷ lệ chấn thương tương đối cao. Từ những vụ va chạm trên sân hay những cú nhảy đơn giản cũng có thể gây ảnh hưởng đến các bộ phận trên cơ thể. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu những chấn thương phổ biến trong bóng đá để giúp bạn và người thân của mình phòng tránh và xử lý các chân thương này một cách hiệu quả.

5 chấn thương thường gặp trong bóng đá:

1. Chấn thương căng gân kheo

Thế nào là căng gân kheo?

Trong quá trình vận động với cường độ cao, vùng gân kheo bắp đùi có thể bị căng vượt quá giới hạn và bị rách gân – đây được gọi là chấn thương căng gân kheo. Tùy vào mức độ nghiêm trọng có thể chia thành 3 cấp độ chấn thương căng gân kheo.

Phương pháp ngăn ngừa chấn thương gân kheo?

Cách hiệu quả nhất là trước khi vào trận đấu cầu thủ nên khởi động kỹ càng. Việc khởi động sẽ làm giảm nguy cơ chấn thương bởi vì cơ đùi sẽ được mở rộng khi các sợi cơ tăng nhiệt độ (lên 1 hoặc 2 độ). Tốt nhất là nên khởi động làm nóng người trước khi trận đấu diễn ra trong vòng 20 phút và thả lỏng người khi trận đấu kết thúc.

Khởi động kỹ càng trước khi đá bóng có thể ngăn ngừa chấn thương.

Bạn nên làm gì khi dính chấn thương gân kheo?

Biện pháp tức thời khi bị bất kỳ chấn thương cơ đùi nào là thả lỏng, chườm đá, băng bó và nâng chân (không bao giờ được chườm đá trực tiếp lên da). Tất cả mọi chấn thương phải được bác sỹ chẩn đoán và chăm sóc. Dựa vào mức độ nghiêm trọng của chấn thương gân kheo, mà cầu thủ có thể phải nghỉ ngơi từ một hai tuần cho đến 3 tháng. Nếu phải chườm đá ở nhà thì bạn nên sử dụng túi chườm đá, không dùng trực tiếp lên da vì có thể gây bỏng lạnh.

2. Chấn thương trật mắt cá

Thế nào là chấn thương trật mắt cá?

Trật mắt cá là chấn thương phổ biến nhất trong bóng đá. Đây là tổn thương phần mềm (chủ yếu là dây chằng) xung quanh mắt cá khi mắt cá bị xoắn vào trong. Cũng như chấn thương dây chằng, phần bao bọc xung quanh khớp mắt cá chân cũng có thể bị tổn thương, gây chảy máu, đau và sưng.

Làm gì để ngăn ngừa chấn thương trật mắt cá?

– Quấn băng bảo vệ xung quanh mắt cá chân.

– Dùng dụng cụ chuyên dụng bảo vệ mắt cá chân.

Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tai nạn chấn thương của người quấn băng bảo vệ là 4,9 ca chấn thương/1000 trận đấu, trong khi mang dụng cụ bảo vệ mắt cá là 2,6 ca chấn thương/1000 trận đấu. Trường hợp không bảo hộ mắt cá thì tỉ lệ dính chấn thương là 32,8/1000 trận.

Trật mắt cá là chấn thương phổ biến nhất trong bóng đá, gây đau, sưng và chảy máu.

Bạn nên làm gì khi dính chấn thương mắt cá?

Cách đơn giản nhất bạn có thể làm là nghỉ ngơi, xoa bóp ở vùng bị đau và chườm nước đá (nhớ là không bao giờ chườm đá trực tiếp lên bề mặt da). Bạn nên xoa bóp và chườm đá trong khoảng 6 giờ đồng hồ, điều này sẽ làm giảm đau và giảm sưng ở vết thương.

3. Chấn thương rách đĩa đệm đầu gối

Thế nào là chấn thương rách đĩa đệm đầu gối?

Đây cũng là một chấn thương xảy ra khá thường xuyên trong bóng đá. Có 2 đĩa đệm bên trong mỗi khớp gối được tạo nên từ các sợi sụng liên kết. Chấn thương xảy ra khi bị tổn thương 2 vùng đệm này.

Khi chúng ta co đầu gối, phần xương đùi cuộn lại, xoay  và lướt nhẹ trên bề mặt trên của xương ống chân. Tuy nhiên, nếu quá trình xoay này bị tác động bởi sức nặng thì sẽ làm cho đĩa đệm bị ép chặt và bị kẹt giữa 2 xương. Điều này có thể dẫn đến phần đệm bị rách.

Chấn thương này gây ra cảm giác đau và sưng tấy ở đầu gối. Với một vết rách nhỏ thì có thể dễ dàng hồi phục. Nhưng với những vết rách lớn sẽ gây cản trở trong việc di chuyển thậm chí nặng hơn cầu thủ phải giã từ sự nghiệp thi đấu

Làm gì để ngăn chặn chấn thương rách đĩa đệm đầu gối?

Hiện tại không có một giải pháp nào thực sự hữu hiệu để ngăn chặn chấn thương này. Cách tốt nhất là tập luyện để phần cơ và gân kheo khỏe hơn  để có thể chịu được sức căng của khớp gối.

Bạn nên làm gì nếu bị chấn thương rách đệm bảo vệ đầu gối?

Trường hợp cảm thấy bị đau, sưng đầu gối đi kèm với khó co duỗi khớp gối thì phải được theo dõi bởi bác sĩ hoặc nhà vật lý trị liệu. Một vết rách nhỏ có thể điều trị chữa lành. Nhưng với vết rách nghiêm trọng hơn thì bắt buộc phải phẩu thuật.

Tuy nhiên về lâu dài nếu tiếp tục hoạt động thể thao với cường độ mạnh thì vẫn có thể tái phát chấn thương. Sau ca mổ, cầu thủ hay vận động viên cần phải tiếp tục được điều trị vật lý trị liệu từ 4 cho đến 6 tuần.

Chấn thương rách đĩa đệm đầu gối gây cản trở trong việc di chuyển thậm chí nặng hơn cầu thủ phải giã từ sự nghiệp thi đấu.

4. Chấn thương thoát vị

Thế nào là chấn thương thoát vị?

Chứng thoát vị và chấn thương háng là một trong những chấn thương phổ biến trong thể thao, đặc biệt trong bóng đá khi cầu thủ phải sút, di chuyển nhanh và xoay người. Người bị thoát vị sẽ sẽ gặp khó khăn khi ngồi hay di chuyển và bị đau ở vùng háng.

Ở giai đoạn này, cầu thủ hay vận động viên vẫn có thể tiếp tục chơi thể thao nhưng chấn thương sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

Bạn có thể làm gì để ngăn chặn chứng thoát vị?

Cách tốt nhất là tập luyện các vùng cơ ngang thân người và xương chậu. Điều này sẽ làm tăng sực chịu đựng từ phần từ bụng đến xương chậu.

Bạn nên làm gì nếu như bị chứng thoát vị?

Thoát vị đòi hỏi phải có bác sỹ chẩn đoán trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng để có kết luận chính xác nhất. Bác sỹ sẽ yêu cầu bệnh nhân siêu âm và kiểm tra để đưa ra phác đồ điều trị hợp lý. Trong đa số trường hợp cầu thủ có thể tiếp tục chơi bóng khi mang quần lót giữ ấm cho đến khi sắp xếp được thời gian thực hiện phẫu thuật.

5. Chấn thương dây chằng chữ thập chéo trước ACL

Chấn thương dây chằng chữ thập chéo trước ACL là gì?

Dây chằng chữ thập chéo trước(ACL) nằm sâu trong khoảng đầu nối đầu gối giữa xương đùi và xương ống chân. Chức năng của nó là ngăn việc di chuyển lên phía trước quá mức của cẳng chân trong mối liên hệ với đùi và bảo vệ sự xoay chuyển ở khớp đầu gối.

ACL có thể bị chấn thương vì một số lý do khác nhau, phổ biến nhất là khi chân cầu thủ bị xoắn lại khi tiếp đất sau một cú nhảy hay đầu gối mở quá rộng. Chấn thương ACL còn do sự va chạm trực tiếp ở trên sân.

Tập luyện với wobble board (dụng cụ thăng bằng) sẽ giúp hạn chế hiệu quả chấn thương ACL

Làm thế nào để ngăn chặn chấn thương ACL?

Tập luyện với một dụng cụ thăng bằng gọi là wobble board sẽ giúp hạn chế hiệu quả chấn thương ACL. Wobble board được thiết kế để cho vận động viên hay cầu thủ tập luyện nhằm tăng cường chức năng cảm nhận ở khu vực xung quanh đầu gối.

Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng wobble board sẽ làm tăng khả năng trụ 1 chân và thăng bằng rất tốt. Tập luyện wobble board thường xuyên sẽ hạn chế những chấn thương dây chằng đầu gối.

Bạn nên làm gì khi bị chấn thương ACL?

Tất cả những người bị chấn thương ACL cần phải được tư vấn bởi các chuyên gia về chỉnh hình. Ngay sau khi bị chấn thương thì phải thực hiện ngay phương pháp sơ cứu sau:

– Băng bó vết thương

– Nghỉ ngơi, thả lỏng, hạn chế di chuyển.

– Sử dụng túi đá chườm vết thương trong khoảng 6 tiếng để giảm đau và chống sưng.

– Xoa bóp liên tục cũng sẽ giúp làm dịu vết đau và hạn chế sưng tấy.

– Để làm dịu vết thương và ngăn chặn việc sưng tấy, đầu gối nên được nâng cao quá thắt lưng.

Benh.vn (Theo physioroom.com)

Bài viết Những chấn thương phổ biến trong bóng đá và cách khắc phục đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/nhung-chan-thuong-pho-bien-trong-bong-da-va-cach-khac-phuc-5858/feed/ 0
Tại sao cổ tay thường bị đau khi chơi tennis https://benh.vn/tai-sao-co-tay-thuong-bi-dau-khi-choi-tennis-9243/ https://benh.vn/tai-sao-co-tay-thuong-bi-dau-khi-choi-tennis-9243/#respond Sun, 15 Jul 2018 07:03:55 +0000 http://benh2.vn/tai-sao-co-tay-thuong-bi-dau-khi-choi-tennis-9243/ Theo thống kê của hiệp hội chấn thương chỉnh hình Hoa Kỳ có khoảng 78.000 trường hợp bị đau cổ tay khi chơi tennis. Do đó, câu hỏi đặt ra với các bác sĩ và người chơi là nguyên nhân gây đau và phương pháp phòng tránh đau cổ tay hiệu quả nhất.

Bài viết Tại sao cổ tay thường bị đau khi chơi tennis đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo thống kê của hiệp hội chấn thương chỉnh hình Hoa Kỳ có khoảng 78.000 trường hợp bị đau cổ tay khi chơi tennis. Do đó, câu hỏi đặt ra với các bác sĩ và người chơi là nguyên nhân gây đau và phương pháp phòng tránh đau cổ tay hiệu quả nhất.

Theo thống kê của hiệp hội chấn thương chỉnh hình Hoa Kỳ có khoảng 78.000 trường hợp bị đau cổ tay khi chơi tennis. Do đó, câu hỏi đặt ra với các bác sĩ và người chơi là nguyên nhân gây đau và phương pháp phòng tránh đau cổ tay hiệu quả nhất.

Đặc tính

Tennis là một môn thể thao nặng, cần sử dụng chính đến hoạt động của đôi tay, cũng từ đó người bệnh hay bị đau cổ tay khi chơi tennis.

Nguyên nhân do các nhóm cơ bị suy yếu, vận động mạnh làm các cơ căng quá mức gây ra chấn thương, viêm tại chỗ, ngoài ra người chơi có thể bị gãy xương mệt, bong gân, rách sụn.

Nguyên nhân dẫn đến đau cổ tay

Khởi động chưa đúng

Cũng như các môn thể thao khác, trước khi chơi tennis người chơi cần khởi động cho nóng người để các cơ bắp làm quen dần với trái bóng. Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân dẫn đến chấn thương cổ tay do người chơi bỏ qua giai đoạn khởi động.

Ngoài lỗi trên, màn khởi động với người chơi tennis phong trào thường quấy quá cho xong chuyện (5 – 7 phút) dẫn đến những chấn thương không đáng có.

Chọn dụng cụ chưa phù hợp

Giầy, tất, vợt là những dụng cụ chuyên dùng cho tennis. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến chấn thương như lật dây chằng cổ chân, chấn thương cổ tay…

Chơi chưa đúng kỹ thuật

Trong các nguyên nhân, nguyên nhân chơi chưa đúng kỹ thuật dẫn đến chấn thương cổ tay chiếm tỷ lệ đa số.

Theo phân tích chuyên môn, nắm cán vợt chặt ở mức độ vừa phải, không lỏng lẻo và cũng không quá chặt, sẽ làm gân cơ ở vùng cẳng tay và cổ tay gồng thường xuyên, dễ gây mỏi cơ và bị chấn thương. Đây cũng là kỹ thuật đúng tránh đau cổ tay khi chơi tennis.

Phương pháp phòng tránh

Khi đã chơi thể thao, đặc biệt là tennis chỉ cần một chút sơ sểnh là có thể dẫn đến chấn thương. Do đó người chơi cần tuân thủ những quy tắc nhất định.

Trong đó, để tránh chấn thương cổ tay cần sử dụng lực đồng bộ từ chân, thân người, cánh tay sau đó truyền lực xuống khủy tay, bàn tay để cơ thể được cân bằng, các cơ giãn vừa phải.

Không nên cầm cán vợt xoay quá mức và vặn cổ tay để để tạo lực banh xoáy khi tạt banh sẽ dễ làm bong gân cổ tay, tư thế tốt để cầm vợt là tạo hình chữ L của vợt so với mặt phẳng.

Ngoài ra, để tránh đau cổ tay khi chơi tennis người chơi cần khởi động làm nóng cơ thể như nhảy tại chỗ, xoay cổ tay cổ chân…

Benh.vn

Bài viết Tại sao cổ tay thường bị đau khi chơi tennis đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tai-sao-co-tay-thuong-bi-dau-khi-choi-tennis-9243/feed/ 0
Phương pháp phòng gãy xương sườn cho các golf thủ lâu năm https://benh.vn/phuong-phap-phong-gay-xuong-suon-cho-cac-golf-thu-lau-nam-9252/ https://benh.vn/phuong-phap-phong-gay-xuong-suon-cho-cac-golf-thu-lau-nam-9252/#respond Fri, 13 Jul 2018 10:04:06 +0000 http://benh2.vn/phuong-phap-phong-gay-xuong-suon-cho-cac-golf-thu-lau-nam-9252/ Golf - môn thể thao của doanh nghiệp, giới kinh doanh thoáng nhìn có vẻ nhẹ nhàng, đẹp mắt, thư thái…nhưng cũng như nhiều môn thể thao khác nó ẩn chứa nhiều rủi ro dẫn đến chấn thương, thậm chí gãy xương sườn…

Bài viết Phương pháp phòng gãy xương sườn cho các golf thủ lâu năm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Golf – môn thể thao của doanh nghiệp, giới kinh doanh thoáng nhìn có vẻ nhẹ nhàng, đẹp mắt, thư thái…nhưng cũng như nhiều môn thể thao khác nó ẩn chứa nhiều rủi ro dẫn đến chấn thương, thậm chí gãy xương sườn…

Tổng quan

Theo thống kê, gãy xương sườn khi chơi golf thường xảy ra ở người chơi nghiệp dư, tuổi trung niên, người mới biết chơi hoặc chơi lâu năm nhưng chơi thời gian quá nhiều trong tuần. Đặc biệt, một số người chơi golf nhiều năm mặc dù không ngã, không va chạm…nhưng vẫn bị gãy xương sườn.

Gãy xương sườn thường xảy ra ở xương sườn 6, 7. Thông thường gãy bên trái nếu thuận tay phải, ngược lại gãy bên phải nếu thuận tay trái. Chấn thương gãy xương sườn tuy nguy hiếm nhưng hiếm khi bị biến chứng nặng ảnh hưởng đến phổi và đường hô hấp.

Triệu chứng khi bị gãy xương sườn

– Cảm giác đau nhói ở vùng ngực, hông hoặc bả vai sau khi thực hiện động tác swing.

– Đau giảm khi nghỉ ngơi và xuất hiện khi ho, vặn người hoặc ấn vào vị trí xương gãy.

– Cơn đau có thể lan ra cả một vùng hông, ngực, thậm chí hít thở cũng đau…

Nguyên nhân dẫn đến chấn thương gãy xương sườn

Nguyên nhân gãy xương sườn do cơ chế lực vặn xoắn lặp đi lặp lại trong cú đánh vụt bóng swing. Các cơ xung quanh xương bả vai – lồng ngực co thắt đột ngột trong khi cơ giữ xương bả vai là cơ răng cưa trước bị mỏi yếu nên lực truyền lên các chỗ bám của cơ này trên xương sườn quá sức chịu đựng của xương khi thực hiện động tác lặp đi lặp lại.

Nguyên nhân khác thường gặp là do khởi động không kỹ, thời gian làm nóng dưới 10 phút không đủ để các cơ làm quen với cường độ nhanh, mạnh.

Ngoài ra, chấn thương gãy xương sườn còn xảy ra khi sử dụng kỹ thuật swing không chuẩn, do đánh trúng đất hoặc ham chơi quá sức khi tuổi đã ở trung tuần.

Lời khuyên của chuyên gia

Bệnh nhân bị gãy xương sườn thường xảy ra ở tuổi trung niên, đã chơi golf nhiều năm mặc dù không hề có va chạm hay chấn thương gì khi chơi. Trong đó, có người bị gãy ít nhất hai xương sườn, có người gãy bảy xương sườn một bên.

Lưu ý khởi động kỹ (trên 10 phút) trước khi chơi golf để tránh chấn thương

Nguyên nhân do chơi quá sức, do khởi động không kỹ, hoặc động tác cơ bản swing không đúng… Qua đó, các chuyên gia khuyến cáo người chơi cần phòng ngừa bằng cách khởi động kỹ trên 10 phút trước khi chơi; Thực hiện động tác kéo căng cơ vùng ngực thường xuyên; Tập swing đúng kỹ thuật; Chơi vừa sức; Tập mạnh nhóm cơ răng cưa trước, quanh bả vai. Ngoài ra nên phối hợp chơi các môn thể thao xen kẽ như bơi lội, tập thể hình, chạy bộ…

Trong trường hợp khi thấy bị đau phần xương sườn cần ngưng chơi thể thao, hạn chế vận động mạnh bên đau và đi gặp bác sĩ để được điều trị các loại thuốc kháng viêm giảm đau cần thiết. Đối với chấn thương gãy xương sườn, xương sẽ tự lành sau bốn đến sáu tuần nghỉ ngơi, kiêng cữ.

Benh.vn

Bài viết Phương pháp phòng gãy xương sườn cho các golf thủ lâu năm đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phuong-phap-phong-gay-xuong-suon-cho-cac-golf-thu-lau-nam-9252/feed/ 0
Triệu chứng, xử trí ngoại khoa bệnh chấn thương cột sống https://benh.vn/trieu-chung-xu-tri-ngoai-khoa-benh-chan-thuong-cot-song-4202/ https://benh.vn/trieu-chung-xu-tri-ngoai-khoa-benh-chan-thuong-cot-song-4202/#respond Sun, 06 May 2018 04:51:43 +0000 http://benh2.vn/trieu-chung-xu-tri-ngoai-khoa-benh-chan-thuong-cot-song-4202/ Chấn thương cột sống nói chung chiếm khoảng 4-6% so với  tất cả các chấn thương. Trong thực tế khám chấn thương cột sống là khám tổn thương ở đốt sống, đĩa đệm, dây chằng. Tủy sống là phần nằm trong ống sống thường bị chấn thương gián tiếp do các tổn thương ở cột sống đã nêu ở trên.

Bài viết Triệu chứng, xử trí ngoại khoa bệnh chấn thương cột sống đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Chấn thương cột sống nói chung chiếm khoảng 4-6% so với  tất cả các chấn thương. Trong thực tế khám chấn thương cột sống là khám tổn thương ở đốt sống, đĩa đệm, dây chằng. Tủy sống là phần nằm trong ống sống thường bị chấn thương gián tiếp do các tổn thương ở cột sống đã nêu ở trên.

chấn thương cột sống

Nguyên nhân, cơ chế, vị trí tổn thương

Nguyên nhân

Chấn thương cột sống thường do các tai nạn giao thông, ngã từ trên cao xuống, sập hầm, đánh nhau và các tai nạn trong thể thao, như đua mô tô, ô tô…

Cơ chế

Trong chấn thương cột sống có hai cơ chế  nổi bật, cơ chế trực tiếp và cơ chế gián tiếp.

– Cơ chế trực tiếp: bị vật cứng đập trực tiếp vào cột sống hoặc bị té ngửa làm ưỡn quá mức hay gập quá mức cột sống.

– Cơ chế gián tiếp: ép theo trục dọc cột sống từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Ví dụ ngã từ trên cao xuống lộn đầu xuống trước, vật  rơi từ trên cao  đè xuống bả vai, ngã ngồi. Cơ chế chấn thương gián tiếp còn được đề cập đến trong trường hợp xoay hoặc ưỡn cột sống quá mức.

Các vị trí thương tổn

Có thể gặp bất cứ vị trí nào trên cột sống nhưng thường gặp là ở những điểm yếu nơi tiếp giáp giữa đoạn đốt sống di động và đoạn đốt sống ít di động như D12 – L1 và C5 – C6. Thông thường hay gặp tổn thương một đốt sống, nhưng có khi cũng gặp tổn  thương 2 – 3 đốt sống liền nhau hoặc không liền nhau.

Giải phẫu bệnh và sinh lý bệnh

Giải phẫu bệnh

* Vỡ thân đốt sống

Hay gặp thân đốt sống bị di lệch có mảnh rời gây thương tổn mô tủy.

* Trật khớp cột sống

Hay xảy ra ở cột sống cổ và đoạn chuyển tiếp lưng thắt lưng, hậu quả là ống sống bị hẹp nhiều gây giập mô tủy. Trật khớp cột sống còn gây nên những thương tổn ở các rễ thần kinh, ở đĩa đệm, các dây chằng phía sau thân đốt sống như dây chằng liên gai, các động mạch và tĩnh mạch cột sống.

* Các thương tổn mô tủy

Các thương tổn mô tủy do hoại tử mô tủy vì thiếu máu tại chỗ và tụ máu trong mô tủy. Đối với các đoạn lưng nhất là đoạn ngang khoanh tủy sống lưng thứ tư tuần hoàn rất nghèo nàn các thương tổn ở đây rất trầm trọng.

* Máu tụ ngoài màng tủy

Máu tụ ngoài màng tủy rất hiếm gặp, đối với tủy, các tổn thương thứ phát như máu tụ là  ít gặp nhưng ngay trong chấn thương thì thường đã có tổn thương mô tủy như chấn động tủy, dập tủy.

Sinh lý bệnh

Hiện tượng phù tủy xuất hiện ngay sau chấn thương ở tủy ngoài ra còn có hiện tượng co thắt động mạch, mao mạch. Theo lý thuyết mô tủy không thể chịu đựng thiếu oxy quá 6 giờ. Do vậy, sự chèn ép và thiếu máu ở mô tủy quá thời gian trên dễ để lại di chứng.

Sốc tủy xuất hiện ngay sau khi tủy sống bị va chạm, biểu hiện bằng sự đình chỉ toàn bộ các chức năng ly tâm và hướng tâm từ vị trí thương tổn trở xuống. Sốc tủy tồn tại từ vài ngày đến 6 tuần.

Phân loại tổn thương

Dựa vào hình thái thương tổn người ta chia ra:

  • Tổn thương cột sống không có tổn thương tủy

Gồm tổn thương đốt sống như gãy xẹp thân đốt sống, gãy đốt sống trật khớp. Tổn thương đĩa đệm, tổn thương các dây chằng như giãn dây chằng, đứt dây chằng liên gai sau, dây chằn dọc trước dọc sau của cột sống.

  • Thương tổn cột sống có thương tổn tủy

Bao gồm chấn động tủy, dập tủy, chảy máu trong tủy, tổn thương các phần trước của  tủy, tổn thương đuôi ngựa.

  • Tổn thương tủy nhưng không có tổn thương cột sống

Đây là tình trạng có tính cách nghịch lý, có tổn thương tủy thực thể trầm trọng nhưng không có tổn thương cột sống.

Ngoài phân loại theo 3 cách trên người ta còn chia tổn thương cột sống ra làm 2 thể:

  • Gãy vững: gãy xẹp vỡ hoặc rạn thân đốt sống nhưng không có di lệch đốt sống. Dây chằng liên gai sau có thể không đứt, không gây các mấu khớp.
  • Gãy không vững: là gãy đốt sống kèm trật khớp, gãy vỡ các mấu khớp đốt sống di lệch, đứt rách các dây chằng.

Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng

Triệu chứng lâm sàng

* Triệu chứng lâm sàng tổn thương cột sống không có tổn thương tủy

  • Đau: Đau khu trú ở đốt sống bị tổn thương, có điểm đau nhói tại chỗ.
  • Hạn chế vận động: Người bệnh đau nhiều khi đi lại, nằm nghỉ ngơi đỡ đau trong trường hợp gãy vững.
  • Biến dạng cột sống: Có lúc bệnh nhân nằm nghiêng có thể thấy biến dạng cột sống hơi gồ ra sau, nhìn có bầm tím và sưng nề tại chỗ, nếu tổn thương ở cột sống cổ, cổ sẽ bị hạn chế vận động và đôi lúc nhìn như ngắn lại.

* Triệu chứng lâm sàng của chấn thương cột sống có liệt tủy

  • Triệu chứng toàn thân: tùy thuộc vào vị trí và mức độ tủy bị tổn thương hoặc có thương tổn phối hợp hay không.
  • Tri giác: có thể rối loạn tri giác trong chấn thương cột sống cổ có tổn thương tủy.
  • Hô hấp: rối loạn hô hấp gặp trong chấn thương cột sống cổ từ C1-C5 do bị ảnh hưởng trực tiếp tới trung khu hô hấp ở hành tủy. Bệnh  thở khó, nhịp thở chậm 15 – 20 lần/phút, đa số có thể tử vong. Mạch thường chậm 50 – 60 lần/phút và huyết áp giảm do sốc tủy. Trong chấn thương cột  sống cổ từ C1 – C5 có thể thấy nhiệt độ cơ thể giảm thấp từ 35-360 do rối loạn trung khu vận mạch, trong khu điều hòa thân nhiệt.

* Triệu chứng thần kinh

Trong giai đoạn sốc tủy biểu hiện lâm sàng của tổn thương tủy là mất vận động biểu hiện liệt mềm mất toàn bộ các phản xạ, cảm giác từ chỗ thương tổn trở xuống, rối loạn cơ thắt với biểu hiện bí tiểu và đại tiện.

  • Tổn thương cột sống cổ từ C1- C4: là tổn thương nặng thường dẫn tới tử vong.  Giai đoạn sốc tủy: liệt mềm và liệt ngoại vi  tứ chi  biểu hiện rối loạn hô hấp và tim mạch nặng nói khó và  nuốt khó. Giai đoạn sau sốc tủy tăng trương lực cơ, tăng phản xạ gân xương và phản xạ tự động tủy.
  • Tổn thương từ C5 – D1: giai đoạn sốc tủy liệt mềm, liệt ngoại vi tứ chi, giai đoạn  sau sốc tủy tăng phản xạ gân xương  và tự động tủy.
  • Tổn thương từ D2 – D10: giai đoạn sốc tủy liệt mềm hai chân, mất toàn bộ các loại cảm giác (cảm giác đau, xúc giá tinh tế) từ chỗ tổn thương trở xuống. Vị  trí mất cảm giác đau có ý nghĩa để chẩn đoán định khu đốt sống tổn thương. Ví dụ mất cảm giác đau từ liên sườn 4 là do tổn thương đoạn tủy D5 tương ứng với đốt sống D3. Giai đoạn  sau sốc  tủy tăng phản xạ gân xương và phản xạ tự động tủy.
  • Tổn  thương từ D11 –  L1:  giai đoạn  sốc tủy liệt mềm hai chân, bụng chướng do liệt ruột cơ năng, dễ nhầm  lẫn với bụng ngoại khoa. Mất cảm giác đau từ ngang nếp bẹn. Giai đoạn  sau sốc  tủy liệt ngoại vi hai chân. Hai chân teo  nhanh.
  • Tổn thương từ L2 – cùng 1: biểu hiện hội chứng đuôi ngựa hoàn toàn: liệt ngoại vi hai chân, hai chân teo  nhanh, mất cảm  giác nếp bẹn và vùng đáy chậu. Hoặc cũng có thể biểu hiện hội chứng đuôi ngựa không hoàn toàn: liệt ngoại vi không hoàn toàn hai chân bệnh nhân có thể gập  đùi vào bụng mất cảm giác vùng đáy chậu, hậu  môn và bộ phận sinh dục.

Cận lâm sàng

– Chụp phim cột sống thẳng nghiêng tùy theo vị trí thương tổn  trên lâm sàng để xác định gãy cột sống (gãy thân, gãy mỏm ngang, mỏm gai), trượt đốt sống, xẹp đốt sống.

– Chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ (IRM): để phát hiện những thương tổn tuỷ sống.

Phân biệt giữa liệt hoàn toàn với liệt không hoàn toàn

Phải sau 1-3 tuần mới phân biệt được.

* Liệt hoàn toàn

  • Phản xạ co gấp chi dưới rõ.
  • Cương dương vật thường xuyên.
  • Mất hoàn toàn các dấu hiệu thần kinh và không phục hồi.

* Liệt không hoàn toàn

  • Phản xạ co gấp chi dưới nhẹ và chậm.
  • Không mất hoàn toàn các dấu hiệu thần kinh và hồi phục dần.

* Một số triệu chứng xác định vùng tủy bị chấn thương

  • Tứ chi vận động bình thường: không có tổn thương trầm trọng của tủy sống.
  • Hai chi dưới liệt tổn thương từ sống lưng trở xuống.
  • Tứ chi liệt: tổn thương cột sống cổ.
  • Các tư thế liệt của Bailav:
    • Hai chi trên để cao trên đầu, khuỷu gấp, cẳng tay ngữa các ngón tay gấp nữa chừng trong tổn thương C6.
    • Hai chi trên khuỷu gấp để cạnh ngực, các ngón tay gấp nữa chừng trong tổn thương C7.
    • Hai chi trên liệt hoàn toàn như chết nằm dọc theo thân mình trong tổn thương C5.

Nguyên tắc điều trị

Phụ thuộc vào thể và loại gãy:

– Những trường hợp gãy vững (thể 1) điều trị nội khoa và tư thế nằm ngửa trên giường cứng. Tăng cường áo nẹp hoặc bột khi  đi lại, nếu không liệt tủy.

– Phẫu thuật làm vững đoạn gãy với ghép xương hoặc phương tiện kéo. Theo cắt bản sống (Laminectomie) giải phóng chèn ép tủy đối với những trường hợp gãy không vững và có thương tổn dập phù nề tủy.

– Phục hồi chức năng vận động là khâu quan trọng trong chấn thương cột sống có liệt tủy

Dự phòng

– Tuyên truyền và giáo dục cộng đồng về luật giao thông.

– Đưa vào chương trình giảng dạy cấp cơ sở luật giao thông

– Thực hiện tốt luật an toàn lao động tại các cơ sở sản xuất và xây dựng.

– Huấn luyện tốt ở tuyến cơ sở trong sơ cứu tại chỗ chấn thương cột sống.

Benh.vn

Bài viết Triệu chứng, xử trí ngoại khoa bệnh chấn thương cột sống đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/trieu-chung-xu-tri-ngoai-khoa-benh-chan-thuong-cot-song-4202/feed/ 0
Chẩn đoán, xử trí gãy xương cẳng chân https://benh.vn/chan-doan-xu-tri-gay-xuong-cang-chan-4185/ https://benh.vn/chan-doan-xu-tri-gay-xuong-cang-chan-4185/#respond Sun, 29 Apr 2018 04:51:23 +0000 http://benh2.vn/chan-doan-xu-tri-gay-xuong-cang-chan-4185/ Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.

Bài viết Chẩn đoán, xử trí gãy xương cẳng chân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.

gãy xương cẳng chân

Tần suất

Gãy thân xương cẳng chân khá phổ biến, chiếm tỷ lệ khoảng 20% tổng số gãy xương và xảy ra ở nam nhiều hơn nữ.

Nguyên nhân

Có 2 cơ chế chính

– Gãy do cơ chế trực tiếp:

Thường do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, do vật nặng đè vào. Gãy xương xảy ra bất kỳ vị trí nào tùy nơi va chạm, dễ bị gãy hở từ ngoài vào với mức độ nhiễm bẩn nặng.

Ngoài các nguyên nhân trên, tai nạn thể thao làm gãy xương chày là đặc điểm của môn bóng đá.

– Gãy do cơ chế gián tiếp:

Ví dụ gãy do kẹt chân làm gập cẳng chân làm gãy xương thường gãy chéo, xoắn, nơi có cấu trúc xương yếu (chỗ nối 1/3 giữa và 1/3 dưới). Xương mác có thể gãy cao tận cổ xương. Ổ gãy có đầu nhọn dễ chọc thủng da và làm gãy hở.

Vài yếu tố giải phẫu đáng chú ý

– Màng liên xương: chắc, hạn chế sự di lệch của hai xương.

– Bờ trước và mặt trong xương chày nằm sát dưới da không được cơ bảo vệ, mặt ngoài được các cơ duỗi che phủ nhưng cũng mỏng manh và trong khi đó mặt sau xương chày được khối cơ gấp bảo vệ và lực khối cơ này mạnh gấp 4 lần khối cơ duỗi. ở đầu xa xương chày các cơ đã chuyển thành gân cả mặt trước và sau, lớp mô mềm bảo vệ xương mỏng manh.

– Về tuần hoàn: có 3 hệ thống nuôi dưỡng xương (hệ thống trong ống tủy,hành xương và màng xương). Động mạch chính nuôi xương chày là động mạch nuôi tách ra từ động mạch chày sau, xuyên qua lỗ nuôi xương ở mặt sau, ở đoạn nối 1/3 trên và giữa, vào ống tủy để tiếp nối với hệ mạch hành xương (chú ý: động mạch nuôi dễ bị thương tổn khi bị gãy xương ở vùng này).

Đường gãy và sự di lệch

Cần chụp một phim thẳng và phim nghiêng của toàn bộ cẳng chân.

Đường gãy

  • Gãy ngang: thường gặp khi gãy xương chày không kèm gãy xương mác. Dạng gãy này thường vững chắc sau khi nắn.
  • Gãy chéo: ổ gãy không vững sau khi nắn
  • Gãy xoắn: đường gãy xương mác thường ở cao và nối tiếp đường gãy xương chày.
  • Gãy vụn: thường kèm theo thương tổn phức tạp phần mềm
  • Gãy hai ổ cối: thường do cơ chế trực tiếp, thương tổn phần mềm phức tạp.

Sự di lệch

  • Khi gãy một xương chày thường chỉ có di lệch ngang sang bên hoặc ra trước và sau.
  • Khi gãy 2 xương: ngoài di lệch ngang còn gặp di lệch chồng ngắn, gập góc, đoạn dưới xoay ngoài

Triệu chứng lâm sàng

1. Gãy kín có di lệch

Nếu đến sớm

  • Đau chói tại vùng gãy, bệnh nhân không đứng dậy được.
  • Nhìn thấy rõ sự di lệch với ngắn chi, bàn chân xoay ngoài, gập góc mở ra sau.
  • Sờ thấy đầu xương gãy gồ dưới da ở mặt trong cẳng chân. Sờ còn phát hiện dấu đau chói và tiếng lạo xạo của xương gãy.

Nếu đến muộn

  • Thường cẳng chân bị sưng nề nhiều, khó phát hiện các triệu chứng như đau chói và thấy đầu xương gãy.
  • Điều quan trọng ở đây là chú ý đến các biến chứng chèn ép mạch khoeo hoặc chày sau, biến chứng chèn ép khoang. Do vậy cần khám kỷ mạch ở mu chân, đánh giá mức độ phù nề cẳng chân, khám cảm giác và vận động các ngón.
  • Có thể xuất hiện các nốt phổng nước, biểu hiện sự trầm trọng của biến chứng chèn ép khoang. Thăm khám cần xác định các thương tổn cổ chân, gãy cổ xương mác, tổn thương các dây chằng khớp gối.

2. Gãy ít di lệch

  • Ở người lớn dù ít có biến dạng rõ, có thể thấy điểm đau chói và chỗ gồ nhẹ của đầu xương gãy.
  • Ở trẻ em loại gãy cành tươi khó xác định.

Biến chứng của gãy thân xương cẳng chân

– Choáng chấn thương: ít xảy ra trong gãy kín, thường gặp trong gãy hở. Xương gãy nhiều mảnh, dập nát phần mềm nhiều.

– Chèn ép khoang: chiếm 65% trong các chèn ép khoang của cơ thể, thường xuất hiện đối với gãy 1/3 trên xương chày, gãy nhiều mảnh, gãy xoắn.

– Tắc mạch máu do mỡ: thường gặp ở các trường hợp gãy nhiều xương, giập phần mềm nhiều, cần phát hiện sớm mới cứu được bệnh nhân. Chú ý các triệu chứng:

  • Lơ mơ (loại trừ chấn thương sọ não)
  • Xuất huyết kết mạc mắt
  • Xuất huyết thành ngực, nách
  • Có tế bào mỡ trong nước tiểu.
  • Cần cấp cứu điều trị với:
    • Thở oxy (6 lít/phút)
    • Depersolone
    • Héparine
    • Lasix

– Nhiễm trùng: gặp nhiều trong gãy hở, tỷ lệ viêm xương khá cao 12-30% (bệnh viện Chợ Rẫy), 8,5% Allgoewer (Thụy sĩ). Cần cắt lọc tốt, kháng sinh liều cao đúng quy cách mới hạn chế nhiễm khuẩn.

– Biến chứng vết thương da hở do xương chày nằm sát da và gập góc ra sau.

– Liệt thần kinh mác chung trong gãy cổ xương mác.

– Rối loạn dinh dưỡng biểu hiện sớm, xuất hiện các nốt phỏng có dịch và máu. Rối loạn muộn sau tháo bột thường thấy bàn chân sưng nề, da khô, đau. Để đề phòng cần tập vận động sớm và chống huyết khối ở bệnh nhân nằm lâu.

– Khớp giả là biến chứng muộn, thường do nguyên nhân tại chỗ như:

  • Gãy 3 mảnh, mạch máu không nuôi dưỡng đủ mảnh ở giữa
  • Xương mác liền nhanh làm cân trở lại sự liền xương của xương chày hoặc do xương mác không gãy.

– Can xấu, di lệch:

  • Can lệch trục xương chày > 200 thì cần phải chỉnh trục.
  • Can gồ xấu ở người trẻ có thể phẫu thuật do vấn đề thẩm mỹ.

Điều trị

Điều trị gãy xương cẳng chân quy tụ vào điều trị gãy xương chày. Xương mác dẫu có can lệch cũng không ảnh hưởng cơ năng của cẳng chân. Nếu điều trị sớm thì nắn tương đối dễ vì chưa sưng nề nhiều, máu tụ còn ít, cơ chưa co rút nhiều. Nếu để muộn, tại chỗ sưng nề nhiều, có thể thấy các nốt phổng nước, cơ co kéo mạnh, do vậy nắn sẽ khó ngay cả trong phẫu thuật.

Mục đích điều trị bao gồm: tạo can xương tốt không ngắn chi, không xoay, không cứng khớp gối và cổ chân.

1. Bó bột

Áp dụng trong các trường hợp:

  • Gãy không lệch hoặc di lệch ít dù loại gãy nào (ngang, chéo, xoắn) đều bó bột cố định ngay. Bột đùi-cẳng-bàn chân có rạch dọc, bó với tư thế gối hơi gấp bàn chân 900. Sau 7-10 ngày, khi sưng nề đã giảm có thể quấn thêm bột kín vòng tròn hoặc thay bột khác nếu bột quá lỏng. Trong quá trình bó, hướng dẫn bệnh nhân tập đưa cao cẳng chân, khép, dạng. Sau 3 tuần cho tập đi nạng và chống chân dần để tránh rối loạn dinh dưỡng. Bột giữ 8-10 tuần.
  • Gãy di lệch nhiều: cần gây tê ổ gãy và nắn ngay trên khung kéo kiểu Boehler, kéo với tạ 7-14kg, kéo từ 10-20 phút.
  • Sau khi kéo, kiểm tra hết ngắn chi, hết xoay, cần nắn sửa di lệch ngang, kiểm tra X quang rồi bó bột đùi-cẳng-bàn chân hoặc bó trước rồi kiểm tra X quang sau. Nếu kiểm tra X quang còn di lệch ít thì cho bệnh nhân nằm kê cao chân trong 3-4 ngày. Bột giữ 6-8 tuần, sau 3 tuần cho tập đi nạng.

Theo Boehler nếu kiểm tra X quang còn di lệch trong bột thì nên kéo tạ trên bột trong 3 tuần trên giàn Braun.

Theo A.Sarmiento: sau khi kéo nắn thì cho bó bột đùi-cẳng-bàn chân ngay, kê chân cao 3-5 ngày tránh rối loạn dinh dưỡng, cho bệnh nhân tập đưa chân lên xuống trong 2 tuần. Khi đỡ đau tại ổ gãy thì biến bột đùi- cẳng-bàn chân thành bột chức năng dưới gối để bệnh nhân tập vận động khớp gối và tập đi lại chống nạng.

Bột chức năng giữ 8-12 tuần. Loại bột này thường áp dụng đối với các trường hợp gãy thấp 2 xương cẳng chân.

Theo một số tác giả, nếu xương chày gãy chéo, xoắn, bó bột như trên thường không vững dễ di lệch thứ phát. Do vậy nên xuyên đinh qua xương gót kéo khoảng 3 tuần rồi chuyển sang bó bột.

2. Kéo tạ

  • Dùng đinh Steimann hoặc đinh Kirschner lớn xuyên qua xương gót để kéo liên tục trên giàn Braun. Kéo tạ được chỉ định trong các trường hợp gãy không vững, gãy di lệch nhiều. Kéo tạ sẽ nắn chỉnh được di lệch chồng ngắn, xoay ngoài và một phần nào di lệch ngang.
  • Tạ kéo thường với 1/10 trọng lượng cơ thể và tăng dần mỗi giờ sau đó. Kéo tạ cho đến khi có can lâm sàng thì chuyển sang băng bột để thu ngắn thời gian nằm trên giường

3. Phẫu thuật

Chỉ định

  • Các trường hợp gãy chéo xoắn nắn không vào, nghi do phần mềm chèn vào.
  • Gãy 2 ổ có đoạn giữa dài, gãy phứt tạp.
  • Gãy đơn thuần xương chày ở người lớn.

Phương pháp

  • Đóng đinh nội tủy: được chỉ định trong gãy 1/3 giữa hoặc 1/3 dưới thân xương chày hoặc trong các trường hợp gãy do cơ chế trực tiếp phần mềm bầm dập nhiều. Không chỉ định trong gãy 1/3 trên xương chày. Kỹ thuật có thể đóng kín hoặc có mở ổ gãy. Đóng đinh có thể dùng đinh có chốt để chống di lệch xoay nên chỉ định có thể mở rộng cả cho những trường hợp gãy cao 1/3 trên.
  • Kết hợp xương nẹp vít: áp dụng trong các trường hợp gãy chéo xoắn có mảnh thứ 3, gãy nhiều mảnh, gãy cao xương chày.
  • Cố định ngoài: áp dụng trong các trường hợp gãy phức tạp hoặc gãy với tổn thương phần mềm nhiều, gãy hở độ II và III
  • Bắt vít: trong các trường hợp gãy chéo dài, đây là chỉ định ngoại lệ.
  • Đinh nội tủy và nẹp vít nên lấy ra sau một năm. Cố định ngoài nên lấy bỏ khi ổ gãy có can.

Vật lý trị liệu

  • Ngoài việc kê cao chân chống phù nề sau mổ, cần có chương trình tập luyện ngay khi bệnh nhân tỉnh. Cần luyện tập cơ nhẹ nhàng và không đau.
  • Ưu điểm của phẫu thuật là xương lành theo ý muốn của người điều trị, khớp không bị cứng, người bệnh chóng trở lại sinh họat bình thường. Song nguy cơ nhiễm trùng khi mổ còn cao do không đảm bảo vô trùng (10-25%). Ngoài ra các biến chứng gãy nẹp, bung nẹp cũng có thể xảy ra.

Dự phòng gãy xương cẳng chân

  • Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.
  • Cần giáo dục cộng đồng sơ cứu tại chỗ và bất động gãy xương tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương.
  • Đối với các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng và chuyển lên tuyến y tế chuyên khoa điều trị sớm để giảm thiểu các biến chứng do gãy 2 xương cẳng chân.
  • Giáo dục cho bệnh nhân tập luyện phục hồi chức năng sau điều trị.

Bài viết Chẩn đoán, xử trí gãy xương cẳng chân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chan-doan-xu-tri-gay-xuong-cang-chan-4185/feed/ 0
Chẩn đoán và xử trí ngoại khoa chấn thương ngực kín https://benh.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-chan-thuong-nguc-kin-4024/ https://benh.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-chan-thuong-nguc-kin-4024/#respond Sun, 04 Mar 2018 04:48:07 +0000 http://benh2.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-chan-thuong-nguc-kin-4024/ Nguyên nhân gây chấn thương ngực kín: do tai nạn giao thông chiếm 70% trường hợp và 25% trường hợp chết tại chỗ. Tỷ lệ tử vong thứ phát do 2 rối loạn: suy hô hấp và suy tuần hoàn. Đây là bệnh cần cấp cứu và xử lý ngoại khoa khẩn cấp.

Bài viết Chẩn đoán và xử trí ngoại khoa chấn thương ngực kín đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nguyên nhân gây chấn thương ngực kín: do tai nạn giao thông chiếm 70% trường hợp và 25% trường hợp chết tại chỗ. Tỷ lệ tử vong thứ phát do 2 rối loạn: suy hô hấp và suy tuần hoàn. Đây là bệnh cần cấp cứu và xử lý ngoại khoa khẩn cấp.

Sự hiểu biết sinh lý bệnh và cơ chế chấn thương ngực giúp cho việc phát hiện các thương tổn và đưa ra phương pháp thăm dò chẩn đoán và điều trị kịp thời đúng đắn. Có 2 nguyên nhân gây nên chèn ép cấp cần phải lưu tâm đến là: tràn dịch màng tim hoặc tràn khí màng phổi dưới áp lực.

Sinh lý bệnh

1. Sinh lý bệnh của chấn thương ngực kín: Cơ chế gây thương tổn

1.1 Do chấn thương trực tiếp: Cơ chế này thường gặp

Người ta phân ra 2 trường hợp:

  • Chấn thương khi lồng ngực cố định
  • Chấn thương khi lồng ngực di động

Trong trường hợp thứ nhất, tác nhân gây chấn thương đập trực tiếp vào lồng ngực. Mức độ trầm trọng của chấn thương phụ thuộc vào khối lượng, tốc độ và hình dạng tác nhân gây chấn thương. Chấn thương ngực khi lồng ngực di động và đập trực tiếp vào vật cản. Mức độ trầm trọng của chấn thương phụ thuộc vào mức độ thay đổi vận tốc, vị trí và hướng tác động. Sự thay đổi vị trí các cơ quan trong lồng ngực gây nên các thương tổn nhổ bật tại vị trí cố định các cơ quan.

1.2. Chấn thương do chèn ép phổi

Cơ chế này gây nên các thương tổn tại thành ngực và đụng giập cơ tim,

1.3. Các thương tổn thường gặp trong chấn thương trực tiếp và chèn ép

Bao gồm các thương tổn tại thành ngực và các cơ quan trong lồng ngực. Thành ngực được cấu tạo bởi khung xương sườn và cơ hoành. Gãy xương sườn thường gặp từ xương sườn thứ 3 đến xương sườn thứ 10. Các chấn thương gây gãy xương sườn 1-2 thường rất nặng và cần phải nghiên cứu các thương tổn động mạch chủ và các thân động mạch trên quai động mạch chủ. Gãy các xương sườn cuối cần phải tìm kiếm những thương tổn trong ổ bụng phối hợp. Vỡ cơ hoành là do tăng áp lực trong ổ bụng. 80% là vỡ cơ hoành bên trái.

Trong số các yếu tố trong lồng ngực, trước hết người ta chú ý đến các yếu tố mạch máu (tim, động mạch chủ, các  thân động mạch trên quai động mạch chủ). Đụng giập cơ tim là thương tổn chính của tim, thường do chèn ép hoặc đè ép tim vào xương ức. Cơ chế giảm tốc đột ngột gây thương tổn vỡ eo động mạch chủ giữa phần di động (quai động mạch chủ) và phần cố định (động mạch chủ xuống). Phế quản có thể bị thương tổn do cơ chế giảm tốc hoặc chèn ép. Nhu mô phổi có thể bị đụng giập gây tụ máu và khí tại vùng thương tổn.

2. Sinh lý bệnh của suy hô hấp

2.1. Rối loạn cơ chế thông khí

Tham gia vào cơ chế này bao gồm hệ thần kinh trung ương, thành ngực và nhu mô phổi. Những rối loạn chức năng của một trong những yếu tố này có thể gây nên tình trạng suy hô hấp.

– Suy hô hấp do nguyên nhân thần kinh: do chấn thương sọ não, nhưng cũng có thể do chấn thương tuỷ sống cổ.

– Suy hô hấp do nguyên nhân thành ngực: mãng sườn di động. Đây là nguyên nhân chính gây suy hô hấp trong chấn thương ngực. Biên độ di động phụ thuộc vào kích thước, vị trí và diện tích của mảng sườn. Giảm Oxy máu là do giảm thông khí phế nang, do giảm sự chuyển động của thành ngực (quan điểm hô hấp đảo ngược là không đúng: thật vậy, thành ngực và mảng sườn di động di chuyển cùng một chiều nhưng biên độ di động khác nhau gây nên chuyển động của thành ngực bị giảm).

Mảng sườn di động trước và bên thường không vững chắc, trái lại mảng sườn di động sau được che phủ bởi xương bả vai và khối cơ lưng nên ít di động.

Nguyên nhân khác nữa là vỡ cơ hoành. Thật vậy, do sự khác nhau áp lực giữa ổ bụng (áp lực dương) và lồng ngực (áp lực âm) làm cho các tạng trong ổ bụng bị hút lên trong lồng ngực gây nên bệnh cảnh như tràn dịch màng phổi làm giảm thể tích của phổi.

– Suy hô hấp do tắc nghẽn phế quản: tắc nghẽn phế quản được gợi ý bởi sự tắc nghẽn đường khí đạo trên khi có chấn thương vùng mặt  phối hợp hoặc do vỡ phế quản. Sự tăng tiết phế quản cũng có thể gây tắc nghẽn.

Điều này dễ gặp sau stress hoặc do giảm thông khí thứ phát sau chấn thương thành ngực.

2.2. Sự suy yếu quá trình trao đổi khí phế nang – mao mạch

Nguyên nhân đầu tiên gây thương tổn màng phế nang – mao mạch là do đụng giập phổi. Trong hoàn cảnh như vậy, giảm oxy máu được giải thích bởi 3 hiện tượng: ảnh hưởng của Shunt do hiện diện một vùng tưới máu không được thông khí, shunt thực sự do tổn thương mạch máu và thương tổn nhu mô phổi.

3. Sinh lý bệnh của suy tuần hoàn

Có hai tình trạng sốc có thể gặp trong chấn thương ngực kín. Sốc tim thường gặp hơn. Nên hiểu rằng, đụng giập cơ tim là nguyên nhân đầu tiên. Nhưng cũng có thể đó là nguyên nhân thứ phát do thương tổn van tim hoặc do chèn ép tim. Sốc giảm thể tích do chảy máu ra ngoài hoặc không. Trong số những nguyên nhân gây chảy máu trong lồng ngực có thể có nguyên nhân vỡ động mạch chủ (90% vỡ eo động mạch chủ) hoặc vỡ các động mạch trên quai động mạch chủ.

Chẩn đoán

Đánh giá mức độ trầm trọng của chấn thương phụ thuộc vào mức độ thương tổn và cơ địa bệnh nhân.

1. Chấn thương thành ngực

– Chẩn đoán gãy xương sườn chủ yếu dựa vào lâm sàng. Đau ngực tăng lên khi chuyển động hô hấp, thăm khám lâm sàng xác định điểm đau chói khi sờ vào ổ gãy. X quang  giúp chẩn đoán chính xác hơn. Ngoài ra X quang ngực còn giúp phát hiện các biến chứng do gãy xương sườn gây ra như tràn máu, tràng khí màng phổi. Khi có gãy hai xương sườn cuối cần phải tìm các thương tổn ổ bụng phối hợp và làm siêu âm bụng kiểm tra.

– Gãy xương ức được gợi ý đau khi sờ nắn và có “hình ảnh  bậc cấp” do sự di lệch hai xương gãy. Chẩn đoán xác định nhờ chụp X quang xương ức nghiêng. Khi trên lâm sàng chẩn đoán gãy xương ức cần phải tìm ngay các dấu hiệu đụng giập cơ tim.

– Nghi ngờ vỡ cơ hoành khi thương tổn đụng giập ổ bụng và cơn đau ngực. Nghe phổi có âm ruột. X quang ngực thấy mất liên tục của cơ hoành và mức hơi nước trong lồng ngực hoặc chụp dạ dày tá tràng có cản quang. Siêu âm bụng có thể thấy được sự mất liên tục của cơ hoành.

2. Tràn dịch hoặc khí màng phổi, có thể hổn hợp

Hội chứng tràn khí màng phổi gồm bệnh nhân van đau ngực, khó thở, gõ vang, rì rào phế nang (RRPN) giảm. X quang ngực thấy  hình  ảnh quá sáng ở phổi bị thương tổn. Tràn khí màng phổi dưới áp lực là một cấp cứu ngoại khoa. Cần phải tìm và phát hiện sớm khi có  tình trạng khó thở phối hợp với truỵ mạch. X quang ngực thấy hình ảnh tràn khí màng phổi và trung thất bị đẩy qua phía đối diện.

Tràn máu màng phổi: lâm sàng gõ đục, RRFN giảm, X quang thấy mờ đồng nhất ở phổi thương tổn. Echo xác định được tràn máu màng phổi.

Đôi khi có trường hợp tràn khí – tràn dịch phối hợp.

3. Đụng giập phổi

Dấu hiệu lâm sàng của đụng giập phổi ít đặc hiệu. Lâm sàng thấy có nhịp thở nhanh và RRFN giảm. X quang có các hình ảnh tròn cản quang mờ không đều giới hạn với hình mờ hoặc đốm cản quang đồng nhất. Những hình ảnh X quang này thường xuất hiện chậm: nó thì có thể thấy  ngay trên hình ảnh của Scanner.

4. Chấn thương khí phế quản

Vỡ hoàn toàn thành của khí phế quản, thương tổn có thể gặp từ thanh quản đến phế quản thuỳ. Lâm sàng và X quang cho phép hướng chẩn đoán và được chẩn đoán xác định nhờ nội soi khí phế quản. Bệnh cảnh lâm sàng rất đa dạng có thể biểu hiện lâm sàng rất rầm rộ như suy hô hấp, tràn khí trung thất vùng cổ, ho ra máu, và tràn khí-máu màng phổi. Có thể biểu hiện lâm sàng kín đáo hơn và chẩn đoán được nghĩ đến khi khí ra qua hệ thống dẫn lưu liên tục, phổi không nở hoặc xẹp phổi.

Vỡ khí quản có thể được phát hiện bởi khó thở cấp. Khi đặt nội khí quản, X quang ngực gợi ý khi có tràn khí màng phổi và tràn khí trung thất phối hợp và tràn khí dưới da. Tràn khí trung thất, trên X quang thấy có các dãy sáng cạnh trung thất. Nội soi khí phế quản là phương tiện giúp chẩn đoán xác định hình thái và tính chất của thương tổn. Thương tổn có thể từ đơn giản đến phức tạp như nứt hoặc đứt cả chu vi khí quản. Nội soi khí phế quản chỉ được thực hiện khi bệnh nhân đã đặt dẫu lưu phổi.

5. Vỡ động mạch chủ do chấn thương

Thương tổn này được gợi ý trong chấn thương ngực do cơ chế giảm tốc. Không có biểu hiện lâm sàng đặc hiệu.  Một phần hai trường hợp có tình trạng huyết động không ổn định. Mạch ngoại biên không cân xứng trong 1/10 trường hợp.

X quang ngực có dấu hiệu bất thường trong 85% trường hợp, chẩn đoán được gợi ý có các dấu hiệu gián tiếp. Chụp X quang ngực, nếu có thể được; chụp bệnh nhân ở tư thế ngồi. Người ta thấy sự thay đổi vị trí các cơ quan trong lồng ngực: khí quản bị đẩy về phía bên phải, phế quản gốc bên trái bị đẩy xuống dưới, bệnh nhân được đặt sonde dạ dày thấy sonde dạ dày bị đẩy sang bên trái so với quai động mạch chủ, trung thất dãn rộng, đường viền quai động mạch chủ không rõ. Khi có các hình ảnh nghi ngờ cần phải làm thêm các xét nghiệm bổ sung cần thiết khác như chụp động mạch chủ, Scanner xoắn ốc có bơm thuốc cản quang là một xét nghiệm đặc hiệu và nhạy cảm cao, siêu âm qua thực quản cũng là một xét nghiệm hữu ích.

6. Chấn thương đụng giập tim

Biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, bệnh cảnh thường gặp là tràn dịch màng tim có chèn ép cấp, phối hợp với tình trạng choáng, suy tim phải với tĩnh mạch cổ nổi rõ, mạch nghịch đảo, tiếng tim mờ xa xăm. Chẩn đoán đụng giập tim thường khó khăn. Biểu hiện lâm sàng có thể bình thường hoặc một tình trạng suy tim nặng. ECG có biểu hiện rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền. Các enzym của tim ít có giá trị chẩn đoán. Chẩn đoán dựa vào siêu âm tim đặc biệt siêu âm qua thực quản. Siêu âm tim giúp nhìn thấy các rối loạn vận động của thất, đánh giá các thương tổn van tim.

Thái độ xử trí cấp cứu

1. Đánh giá độ trầm trọng của chấn thương ngực kín

– Tìm các dấu hiệu suy hô hấp như tần số thở nhanh trên 35 lần/phút xanh tím, đôi khi dấu hiệu xanh tím làm che khuất triệu chứng biểu hiện thiếu máu nặng, các dấu hiệu khó thở: co kéo hõm ức, khoảng liên sườn, hô hấp đảo nghịch.

– Tìm các dấu hiệu suy tuần hoàn như huyết áp hạ kết hợp với nhịp nhanh. Thăm khám tĩnh mạch cổ cực kỳ quan trọng bởi vì giúp hướng chẩn đoán hoặc do sốc giảm thể tích hoặc do chèn ép tim cấp. Trong trường hợp tĩnh mạch cổ nổi phối hợp với tình trạng choáng là dấu hiệu của chèn ép tim cấp.

– Cơ chế chấn thương, các thương tổn phối hợp, cơ địa và tiền sử bệnh nhân là những tiêu chuẩn góp phần đánh giá tình trạng nặng của bệnh nhân.

2. Nguyên tắc điều trị

2.1. Mục đích điều trị

Đảm bảo quá trình trao đổi oxy máu và tình trạng huyết động ổn định.

– Để quá trình trao đổi oxy được đảm bảo cần giải phóng đường hô hấp trên và oxy liệu pháp. Thông khí hỗ trợ chỉ được bắt đầu khi đảm bảo không có chèn ép phổi hoặc sau khi đặt dẫn lưu ngực. Chỉ định hô hấp hỗ trợ khi Glasgow < 8 điểm, tình trạng huyết động và hô hấp (tần số > 35 lần/phút, SaO2 < 90% khi thở O2)

– Đặt dẫn lưu màng phổi khi có tràn máu màng phổi, chọc hút khí hoặc đặt dẫn lưu khí màng phổi khi có tràn khí màng phổi.

  • Để đảm bảo tình trạng huyết động ổn định cần băng ép cầm máu đối với các vết thương ngoại biên, đặt 2 đường truyền tĩnh mạch lớn.
  • Đối với trường hợp tràn máu màng phổi số lượng lớn, có thể đặt ra vấn đề truyền máu hoàn hồi lượng máu dẫn lưu. Cần đảm bảo vô trùng và bộ phận lọc máu đúng quy cách.

Chống chỉ định truyền máu hoàn hồi khi có vết thương thấu bụng hoặc có thủng tạng rỗng. Khi có ho ra máu nhiều cần đặt ra vấn đề đặt nội khí quản chọn lọc.

2.2. Theo dõi

– Cần làm: CTM, nhóm máu, Rhésus, khí máu, các men tim, ECG, siêu âm tim và bụng, CT Scanner để có chỉ định phẫu thuật kịp thời.

– Trong giờ đầu tiên: tái khám lâm sàng. Siêu âm bụng, ngực, tim. Chỉ định mở ngực khi số lượng máu trong khoang màng phổi đáng giá trên 1200ml hoặc ống dẫn lưu ngực số lượng máu ra > 200ml/1 giờ.

– Trong 24 giờ đầu: chụp X quang ngực kiểm tra phát hiện các thương tổn phối hợp nhất là cột sống cổ. Nếu có các dấu hiệu thần kinh khu trú, rối loạn tri giác cần chụp ST Scanner sọ não.

– Tuỳ thuộc vào các dấu hiệu và bệnh cảnh lâm sàng để đề nghị các xét nghiệm bổ sung khác như: chụp CTScanner ngực có chụp mạch phối hợp, chụp CT Scanner bụng

Nguyên tắc điều trị

1. Thương tổn thành ngực

1.1. Gãy xương sườn

Đối với gãy xương sườn đơn thuần không đặt ra vấn đề điều trị đặc hiệu.

Đối với gãy nhiều xương sườn có mảng sườn di động cần phải điều trị đặc hiệu cố định mảng sườn. Mục đích để cải thiện tình trạng hô hấp và giảm đau.

– Có nhiều phương tiện để giảm đau trong chấn thương ngực bao gồm giảm đau tại chỗ, giảm đau vùng và giảm đau toàn thân. Gây tê ngoài màng cứng là phương pháp cực kỳ hiệu quả, làm giảm đau cả hai bên lồng ngực, nhưng cần chú ý trong trường hợp có chấn thương bụng phối hợp vì có thể  khó phát hiện các thương tổn phối hợp. Gây tê khoảng liên sườn cũng tỏ ra hiệu quả, nhưng có nguy cơ quá liều lượng thuốc tê cho phép vì cần phải gây tê nhiều khoảng liên sườn, và biến chứng tràn khí màng phổi. Giảm đau toàn thân cần thận trọng khi có thương tổn phối hợp khác, cần thận trọng đối với bệnh nhân nhỏ và có bệnh lý suy hô hấp mãn tính trước đó.

– Các phương tiện để điều trị mảng sườn di động như: thở máy hỗ trợ

Phương pháp này có hiệu quả trong những trường hợp có mảng sườn di động ở phía trước, hoặc treo mảng sườn di động trên khung chỉnh hình. Hoặc các phương tiện kết hợp xương bằng đinh, bằng agrafage được chỉ định khi có can thiệp ngoại khoa lồng ngực hoặc trong trường hợp biến dạng lồng ngực trầm trọng.

– Đối với vỡ cơ hoành là một chỉ định điều trị ngoại khoa, vấn đề là chọn lựa đường mổ. Điều trị bằng phương pháp phẫu thuật kinh điển là mở bụng khâu cơ hoành hoặc bằng phẫu thuật nội soi khi kích thước chỗ vỡ nhỏ.

1.2. Tràn dịch và khí màng phổi

Dẫn lưu ngực là thao tác cơ bản trong chấn thương ngực. Tất cả các dẫn lưu ngực phải được thực hiện trong điều kiện đảm bảo vô khuẩn. Cần chụp X quang ngực trước và sau khi thực hiện dẫn lưu màng phổi. Vị trí dẫn lưu ngực là khoảng liên sườn II trên đường trung đòn  hoặc khoảng gian sườn IV trên đường nách trước. Tiến hành gây tê tại chỗ, từng lớp, rạch da khoảng 2cm phẫu tích từng lớp từ da đến màng phổi. Đưa ống dẫn lưu qua trocat vào khoang màng phổi. Nối ống dẫn lưu với hệ thống dẫn lưu kín, hút liên tục với áp lực âm.

Biến chứng chính của dẫn lưu ngực là thương tổn nhu mô phổi hoặc các tạng trong ổ bụng.

Đối với tràn khí màng phổi vị trí của ống dẫn lưu nằm ở cao và phía trước khoang màng phổi. Theo dõi dẫn lưu, nếu thấy khí ra nhiều, hút không có hiệu quả cần chỉ định nội soi ngực để chẩn đoán  và điều trị.

Đối với tràn máu phổi ống dẫn lưu đặt phía sau và thấp. Nếu số lượng máu qua ống dẫn lưu dưới 100ml/h cần theo dõi sát bệnh nhân. Nếu số lượng máu trong khoang màng phổi được đánh giá lúc ban đầu khoảng 1000ml hoặc số lượng máu chảy qua ống dẫn lưu từ 100-200ml cần chỉ định nội soi ngực để lấy máu cục và đánh giá thương tổn. Nếu số lượng máu ban đầu đánh giá trên 1200ml hoặc máu chảy qua ống dẫn lưu trên 200ml/giờ chỉ định mở ngực cấp cứu.

2. Điều trị đụng giập phổi

Đầu tiên là oxy liệu pháp qua masque. Nếu không có hiệu quả thì cần hô hấp hỗ trợ dưới áp lực dương liên tục.

3. Điều trị vỡ phế quản

Chẩn đoán nhờ nội soi khí phế quản. Điều trị cấp cứu bao gồm dẫn lưu màng phổi, đặt nội khí quản vượt quá đoạn thương tổn. Các phương pháp điều trị bao gồm: khâu khí quản đối với rách bên, khâu tận tận đối với đứt toàn bộ hoặc cắt bỏ thuỳ hoặc phân thuỳ phổi dưới thương tổn. Điều trị ngoại khoa chậm nhất là ngày thứ 3-4 sau chấn thương. Vì sau thời gian này nguy cơ nhiễm trùng cao.

Benh.vn

Bài viết Chẩn đoán và xử trí ngoại khoa chấn thương ngực kín đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-chan-thuong-nguc-kin-4024/feed/ 0
Chẩn đoán và xử trí ngoại khoa vết thương ngực hở https://benh.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-vet-thuong-nguc-ho-4025/ https://benh.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-vet-thuong-nguc-ho-4025/#respond Sun, 05 Mar 2017 04:48:08 +0000 http://benh2.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-vet-thuong-nguc-ho-4025/ Vết thương ngực hở là chấn thương vào ngực gây thủng thành ngực. Do chấn thương ảnh hưởng trực tiếp đến bộ  máy hô hấp và tuần hoàn và có thể nhanh chóng dẫn đến tử vong nên đây luôn được coi là loại cấp cứu ngoại khoa được ưu tiên số một trong chẩn đoán và xử trí.

Bài viết Chẩn đoán và xử trí ngoại khoa vết thương ngực hở đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Vết thương ngực hở là chấn thương vào ngực gây thủng thành ngực. Do chấn thương ảnh hưởng trực tiếp đến bộ  máy hô hấp và tuần hoàn và có thể nhanh chóng dẫn đến tử vong nên đây luôn được coi là loại cấp cứu ngoại khoa được ưu tiên số một trong chẩn đoán và xử trí.

Nguyên nhân

– Do dao, do đạn xuyên: vết thương sắc nhọn

– Do các mảnh đạn lớn hoặc do vật tù gây giập nát thành ngực rộng: vết thương bẩn.

Rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở

Các rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở do hậu quả hô hấp đảo ngược và lắc lư trung thất dẫn đến thiếu O2 trầm trọng, tình trạng toàn thân của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng nếu như không bịt ngay lỗ thủng thành ngực lại. Sau khi bịt kín vết thương thì bệnh nhân trở lại những rối loạn như trong chấn thương ngực kín.

Ngoài ra cần phải chú ý tới những thương tổn xa trên đường đi của viên đạn hay mảnh đạn, bom bi… những thương tổn  này làm cho tình trạng bệnh nhân càng nặng hơn và việc chẩn đoán, điều trị phức tạp hơn.

Chẩn đoán

1. Nguyên tắc thăm khám và chẩn đoán

– Thăm khám nhẹ nhàng

– Cần thăm khám nhanh, toàn diện không bỏ sót thương tổn tại lồng ngực và thương tổn phối hợp ngoài lồng  ngực.

– Cần kịp thời điều trị cấp cứu ngay cả trong khi  khám phát hiện có vết thương ngực hở cần bịt kín lỗ thủng thành ngực bệnh nhân.

– Cần theo dõi thường xuyên từng giờ để chẩn đoán và điều trị đúng đắn.

2. Thăm khám

2.1. Thăm khám ban đầu

– Đánh giá tình trạng suy hô hấp

– Đánh giá tình trạng thương tổn tại lồng ngực

– Phát hiện thương tổn phối hợp.

2.2. Triệu chứng lâm sàng

– Đau ngực dữ dội

– Biểu hiện thiếu khí.

– Tím tái hoặc nhợt nhạt, vã mồ hôi, thở nhanh.

– Biểu hiện tim mạch: mạch nhanh, huyết áp tụt, giao động, rối loạn nhịp tim, tĩnh mạch cổ nổi.

– Rối loạn hô hấp: ứ đọng đờm giải, ho ra máu, nhịp thở nhanh, dẫn lưu hô hấp đảo ngược.

2.3 X quang ngực

Nếu điều kiện bệnh nhân cho phép mới chỉ định chụp X quang ngực. Cần xem:

– Tình trạng thành ngực.

– Có biểu hiện chèn ép trong màng phổi: do khí, dịch.

– Có dẫn lưu trung thất bị lệch.

– Kích thước trung thất dãn rộng.

– Tình trạng cơ hoành.

Các xét nghiệm cần thiết khác: khí máu, pH, pO2, pCO2, BE, SaO2.

Điều trị

1. Sơ cứu sau khi bị thương

– Nhanh chóng bịt kín VTNH: thường bịt dễ dàng bằng băng ép với một lớp gạc dầy. Nếu VT lớn có thể phải khâu da tạm thời( nếu có điều kiện). Nút Depage chỉ dành cho VT rất lớn.

– Làm thông thoáng đường hô hấp, thở oxy.

– Hồi sức, truyền dịch nếu có sốc mất máu.

– Kháng sinh, giảm đau (họ Paracetamol) phòng uốn ván.

– Sớm chuyển vào phòng mổ hay cơ sở có khả năng điều trị thực thụ.

2. Điều trị phẫu thuật

Chủ yếu gồm: dẫn lưu tối thiểu khoang màng phổi và cầm máu – khâu kín VT.

– Vô cảm: thường gây tê tại chỗ, phải gây mê NKQ nếu VT lớn hay cần thăm dò VT ( trường hợp nghi VT ngực – bụng…).

– Phẫu thuật:

+ Dẫn lưu tối thiểu khoang màng phổi qua khoang liên sườn 5 – nách giữa.

+ Cầm máu VT thành ngực và khâu kín VT theo từng lớp.

– Chỉ định mở ngực:

+ Nếu dẫn lưu ra ngay > 1000ml máu /thời gian từ khi bị thương đến khi mổ < 6 giờ.

+ Nếu theo dõi sau dẫn lưu thấy ra > 200ml /giờ x 2-3 giờ liền.

Mục đích: mở ngực để lấy máu cục khoang màng phổi, và cầm máu thương tổn mạch máu lớn (thường là bó mạch liên sườn, mạch vú trong, đôi khi là mạch phổi). Đường mở ngực thường đi qua khoang liên sườn 5, trên nguyên tắc càng gần VT càng tốt.

Chú ý kĩ thuật khâu thắt bó mạch liên sườn qua xương sườn. Nếu khó tiếp cận VT mạch liên sườn với đường mở ngực thông thường, có thể mở rộng chính VT ngực để thắt mạch cầm máu.

3. Điều trị sau mổ

– Săn sóc dẫn lưu màng phổi, cố gắng rút vào 48 – 72 giờ sau mổ.

– Hướng dẫn bệnh nhân tập lí liệu pháp sớm ngay sau mổ.

– Kháng sinh( 3 – 5 ngày), giảm đau, ho long đờm, giảm viêm.

– Ăn uống nâng cao thể trạng, bù máu nếu thiếu.

– Theo dõi biến chứng:

+ Nhiễm trùng vết mổ và VT: cắt chỉ da sớm, thay băng, dùng kháng sinh theo KSĐ.

+ Xẹp phổi: tích cực làm lí liệu pháp.

Benh.vn (tổng hợp)

Bài viết Chẩn đoán và xử trí ngoại khoa vết thương ngực hở đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chan-doan-va-xu-tri-ngoai-khoa-vet-thuong-nguc-ho-4025/feed/ 0