Benh.vn https://benh.vn Thông tin sức khỏe, bệnh, thuốc cho cộng đồng. Fri, 29 Sep 2023 02:50:33 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.3 https://benh.vn/wp-content/uploads/2021/04/cropped-logo-benh-vn_-1-32x32.jpg Benh.vn https://benh.vn 32 32 Mẹ bầu dùng thuốc chống HIV Efavirens làm tăng nguy cơ chậm phát triển ở bé https://benh.vn/me-bau-dung-thuoc-chong-hiv-efavirens-lam-tang-nguy-co-cham-phat-trien-o-be-70155/ https://benh.vn/me-bau-dung-thuoc-chong-hiv-efavirens-lam-tang-nguy-co-cham-phat-trien-o-be-70155/#respond Tue, 19 Nov 2019 16:39:37 +0000 https://benh.vn/?p=70155 Nghiên cứu do NIH tài trợ cho thấy rủi ro cao hơn đối với trẻ em về nguy cơ chậm phát triển của phụ nữ dùng Efavirenz khi mang thai.

Bài viết Mẹ bầu dùng thuốc chống HIV Efavirens làm tăng nguy cơ chậm phát triển ở bé đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nghiên cứu do NIH tài trợ cho thấy rủi ro cao hơn đối với trẻ em về nguy cơ chậm phát triển của phụ nữ dùng Efavirenz khi mang thai.

Theo một phân tích được tài trợ bởi Viện nghiên cứu quốc gia, các trẻ em sinh ra từ những phụ nữ điều trị HIV có chứa thuốc efavirenz có nguy cơ mắc bệnh microcephaly ( chậm phát triển )  cao gấp 2 đến 2,5 lần so với trẻ em sinh ra từ chế độ điều trị bằng thuốc kháng vi-rút khác. Sức khỏe. Những đứa trẻ bị microcephaly cũng có nguy cơ chậm phát triển cao hơn so với những đứa trẻ có kích thước đầu bình thường.

Nghiên cứu được thực hiện bởi Paige L. Williams, Tiến sĩ, thuộc Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan và các đồng nghiệp. Nó xuất hiện trong The Lancet .

Phát hiện quan trọng giúp lựa chọn thuốc cho phụ nữ mang thai

“Phát hiện của chúng tôi là cơ sở tầm quan trọng của việc có lựa chọn thay thế để điều trị phối hợp với efavirenz cho phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV”, tác giả nghiên cứu Rohan Hazra, MD, giám đốc của Chi nhánh bà mẹ và trẻ em nhiễm bệnh của NIH cho biết Eunice Kennedy Shriver Viện Sức khỏe Trẻ em và Nhân Phát triển, trong đó cung cấp kinh phí cho nghiên cứu.

Nghiên cứu tiến hành như thế nào ?

Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ một nghiên cứu tiếp theo của hơn 3.000 trẻ sơ sinh được sinh ra bởi phụ nữ về liệu pháp HIV trong thai kỳ. Trong nghiên cứu trước đó, chu vi vòng đầu của trẻ em được đo định kỳ từ 6 tháng tuổi đến 5 đến 7 tuổi.

Đối với nghiên cứu hiện tại, các nhà điều tra đã sử dụng hai hệ thống phân loại để xếp hạng sự phát triển đầu của trẻ em. Hệ thống phân loại đầu tiên kết hợp các tiêu chuẩn được phát triển bởi Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ cho trẻ em dưới 3 tuổi với Biểu đồ Nellhaus, một bộ tiêu chuẩn cũ hơn cho trẻ em trên 3 tuổi. Đối với hệ thống phân loại thứ hai, các nhà nghiên cứu đã tham khảo Biểu đồ Nellhaus từ sơ sinh đến 18 tuổi.

Kết quả

  • Dựa trên các tiêu chuẩn của Nellhaus, những đứa trẻ có mẹ đang dùng chế độ có chứa thuốc efavirenz có khả năng mắc bệnh microcephaly cao gấp đôi so với những đứa trẻ có mẹ dùng các chế độ khác. 
  • Theo tiêu chuẩn Nellhaus-CDC kết hợp, trẻ em tiếp xúc với efavirenz trong bụng mẹ có khả năng mắc bệnh siêu nhỏ khoảng 2,5 lần. Trẻ em bị microcephaly theo tiêu chuẩn Nellhaus cũng đạt điểm thấp hơn trong các bài kiểm tra tiêu chuẩn về sự phát triển của trẻ ở độ tuổi 1 và 5 tuổi.

Trong số 141 trẻ tiếp xúc với efavirenz trong bụng mẹ, 14 trẻ (9,9%) bị mắc bệnh siêu nhỏ, so với 142 trong số 2.842 trẻ không tiếp xúc với efavirenz (5%).

Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng việc tiếp xúc với tất cả các loại trị liệu HIV khác không liên quan đến nguy cơ mắc bệnh siêu nhỏ.

nih.gov

Bài viết Mẹ bầu dùng thuốc chống HIV Efavirens làm tăng nguy cơ chậm phát triển ở bé đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/me-bau-dung-thuoc-chong-hiv-efavirens-lam-tang-nguy-co-cham-phat-trien-o-be-70155/feed/ 0
Tiêm kháng thể HIV cho tế bào: Phương pháp đột phá trong điều trị AIDS https://benh.vn/tiem-khang-the-hiv-cho-te-bao-phuong-phap-dot-pha-trong-dieu-tri-aids-9334/ https://benh.vn/tiem-khang-the-hiv-cho-te-bao-phuong-phap-dot-pha-trong-dieu-tri-aids-9334/#respond Sun, 07 Oct 2018 11:05:41 +0000 http://benh2.vn/tiem-khang-the-hiv-cho-te-bao-phuong-phap-dot-pha-trong-dieu-tri-aids-9334/ Theo thống kê, từ năm 2013 đến nay đã có nhiều nghiên cứu đột phá ngăn chặn sự phát triển của HIV, tuy nhiên vẫn chưa có phát hiện nào được chứng minh bằng thử nghiệm lâm sàng. Do đó, thời gian tới các chuyên gia sẽ cho thử nghiệm lâm sàng để tìm ra phương thức điều trị khỏi hẳn loại virus gây ra căn bệnh thế kỷ.

Bài viết Tiêm kháng thể HIV cho tế bào: Phương pháp đột phá trong điều trị AIDS đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Trong những nỗ lực đẩy lùi căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS, các nhà khoa học Mỹ đã sử dụng phương pháp tiêm kháng thể HIV trực tiếp vào tế bào. Qua đó, tạo ra một thế hệ tế bào mới có khả năng tự bảo vệ chính mình khỏi virus HIV.

Trải qua một thời gian dài nghiên cứu, chắt lọc các nhà khoa học đã có một bước đột phá trong điều trị căn bệnh thế kỷ khiến cho các tế bào có khả năng tự kháng lại virus HIV. Các tế bào kháng thể sẽ nhanh chóng thay thế tế bào nhiễm virus, giúp hiệu quả điều trị bệnh vượt trội hơn hẳn so với các phương pháp hiện nay.

Phương pháp mới ngăn chặn HIV không thể xâm nhập tế bào

Các nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu The Scripps (TSRI-California, Mỹ) đã thử nghiệm phương pháp này trên các rhinovirus-nguyên nhân gây ra các chứng bệnh cảm cúm thông thường. Họ đã sử dụng vector được gọi là lentivirus để chuyển gene mới cho các tế bào của cơ thể. Sau đó, tổng hợp các kháng thể gắn với thụ thể tế bào mà virus cần phải tiếp cận, ngăn không cho virus xâm nhập tế bào và lây truyền bệnh.

virus HIV

Các tế bào có kháng thể sau đó chết đi, nhưng vẫn ở lại và tiếp tục nhân bản để bảo vệ các tế bào mới. Sau khi thành công với các rhinovirus, các chuyên gia tiếp tục thử nghiệm với HIV. Họ nhận ra rằng, virus HIV muốn lan truyền bệnh cần tiếp cận một thụ thể có tên CD4. Do đó, các chuyên gia nghiên cứu đã tìm cách chặn các thụ thể này lại để HIV không thể tiếp tục xâm nhập tế bào và chết dần.

Tính ưu việt của phương pháp mới

Để đánh giá liệu pháp này trong các thử nghiệm về tính an toàn và hiệu quả, các chuyên gia nghiên cứu đã hợp tác với các nhà điều tra của Trung tâm City the Hope về Trị liệu Gen (Mỹ).Giáo sư Richard Lerner, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, phương pháp mới có nhiều ưu điểm vượt trội so với các liệu pháp cũ. Trước kia, kháng thể trôi nổi một cách tự do trong mạch máu, còn nay sẽ bám vào các tế bào và tiếp tục sinh sôi.

Về mục tiêu nghiên cứu, các chuyên gia sẽ tìm ra cách để kiểm soát và loại bỏ HIV mà không cần đến bất kỳ phương thuốc điều trị nào khác. Tuy nhiên, theo TS. Carl Dieffenbach, Viện Dị ứng và các bệnh truyền nhiễm quốc gia Anh, ý tưởng này là thú vị nhưng có một vấn đề khi triển khai liệu pháp gen: Đó là làm thế nào để biết chính xác đã đặt thụ thể vào đúng vị trí trên tế bào.

   

TS Dieffenbach chia sẻ“HIV nổi tiếng là có khả năng tạo ra các biến thể lớn và điều gì sẽ diễn ra khi một số lượng tế bào không liên kết với kháng thể. Khi đó cơ thể sẽ tiêu diệt những tế bào nhạy cảm trong khi virus vẫn tiếp tục phát triển. Đó là lý do vì sao chúng ta hiện phải phối hợp 3 loại thuốc, nhằm đối phó với các biến thể khác nhau của virus”.

Theo thống kê, từ năm 2013 đến nay đã có nhiều nghiên cứu đột phá ngăn chặn sự phát triển của HIV, tuy nhiên vẫn chưa có phát hiện nào được chứng minh bằng thử nghiệm lâm sàng. Do đó, thời gian tới các chuyên gia sẽ cho thử nghiệm lâm sàng để tìm ra phương thức điều trị khỏi hẳn loại virus gây ra căn bệnh thế kỷ.

Benh.vn (Theo Daily Mail)

Bài viết Tiêm kháng thể HIV cho tế bào: Phương pháp đột phá trong điều trị AIDS đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tiem-khang-the-hiv-cho-te-bao-phuong-phap-dot-pha-trong-dieu-tri-aids-9334/feed/ 0
Chỉ định điều trị ARV khi nào? https://benh.vn/chi-dinh-dieu-tri-arv-khi-nao-3721/ https://benh.vn/chi-dinh-dieu-tri-arv-khi-nao-3721/#respond Fri, 21 Sep 2018 04:41:55 +0000 http://benh2.vn/chi-dinh-dieu-tri-arv-khi-nao-3721/ Quá trình chuẩn bị điều trị ARV cần phải được tiến hành ngay từ khi người bệnh được quản lý tại cơ sở điều trị; các nội dung chuẩn bị sẵn sàng điều trị có thể lồng ghép trong các lần khám để đảm bảo người bệnh được điều trị kịp thời ngay khi đủ tiêu chuẩn điều trị.

Bài viết Chỉ định điều trị ARV khi nào? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Dựa vào giai đoạn lâm sàng và số lượng tế bào CD4 bác sĩ sẽ chỉ định điều trị ARV.

Nếu có xét nghiệm CD4, chỉ định điều trị ARV khi

  • Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 4, không phụ thuộc số lượng tế bào CD4
  • Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 3 với CD4 < 350 TB/mm3
  • Người nhiễm HIV giai đoạn lâm sàng 1, 2 với CD4 < 250 TB/mm3
  • Nếu không làm được xét nghiệm CD4, chỉ định điều trị ARV khi người nhiễm HIV ở giai đoạn lâm sàng 3, 4

Chuẩn bị sẵn sàng điều trị ARV

Quá trình chuẩn bị điều trị ARV cần phải được tiến hành ngay từ khi người bệnh được quản lý tại cơ sở điều trị; các nội dung chuẩn bị sẵn sàng điều trị có thể lồng ghép trong các lần khám để đảm bảo người bệnh được điều trị kịp thời ngay khi đủ tiêu chuẩn điều trị.

Đánh giá trước điều trị ARV

Các nội dung đánh giá trước điều trị đối với người bệnh HIV đủ tiêu chuẩn điều trị:

  • ARV về lâm sàng và/hoặc CD4, – Ghi nhận giai đoạn lâm sàng và số CD4 (nếu có) trước điều trị.
  • Sàng lọc lao và các bệnh nhiễm trùng cơ hội; điều trị lao và các bệnh NTCH cấp tính nếu có; phối hợp với các dịch vụ y tế khác (lao, sản, da liễu, v.v..) khi cần. Làm các xét nghiệm cơ bản và xét nghiệm để lựa chọn phác đồ như: CTM/Hgb và men gan ALT); xét nghiệm HBsAg và anti-HCV (nếu có điều kiện)
  • Hỏi tiền sử dụng thuốc ARV trước đó: lý do sử dụng, nơi cung cấp, phác đồ cụ thể, lưu ý tiền sử dụng các phác đồ không đúng (phác đồ hai thuốc); sự tuân thủ, tiến triển trong quá trình điều trị, v.v…
  • Đánh giá mong muốn được điều trị của người bệnh và khả năng có người hỗ trợ điều trị
  • Dự kiến phác đồ ARV thích hợp cho bệnh nhân; xem xét tương tác giữa các thuốc ARV và các thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội đồng thời và các thuốc khác

Thông báo về kế hoạch chuẩn bị điều trị ARV cho bệnh nhân

Điều trị dự phòng cotrimoxazole; các dự phòng khác nếu có chỉ định.

Cung cấp thông tin và Tư vấn về điều trị ARV

Tiến hành cung cấp thông tin theo nhóm về diễn biến nhiễm HIV, dự phòng lây nhiễm HIV, sống khỏe mạnh, dinh dưỡng và điều trị ARV sau đó tư vấn cá nhân. Mỗi người bệnh cần được tư vấn trước khi điều trị ARV 3 lần.

Tư vấn cụ thể về điều trị ARV, phác đồ điều trị của từng bệnh nhân, tầm quan trọng của tuân thủ điều trị và kế hoạch hỗ trợ tuân thủ điều trị cũng như xử trí các vấn đề nảy sinh trong quá trình điều trị như quên thuốc, tác dụng phụ,… Tư vấn các nội dung cụ thể, thích hợp cho các người bệnh còn sử dụng ma túy, phụ nữ có thai.

Đánh giá sẵn sàng điều trị

điều trị arv

  • Đánh giá hiểu biết của người bệnh về nhiễm HIV, về điều trị ARV và tầm quan trọng của tuân thủ điều trị và cách xử trí khi quên uống thuốc.
  • Đánh giá hiểu biết của người bệnh về cách sử dụng thuốc, các tác dụng phụ thường gặp và hướng xử trí.
  • Đánh giá khả năng tuân thủ điều trị của người bệnh qua việc tham gia các buổi tư vấn đầy đủ, tái khám đúng hẹn, tuân thủ điều trị dự phòng cotrimoxazole, có kế hoạch tuân thủ điều trị (lịch uống thuốc, các biện pháp nhắc nhở uống thuốc, có người hỗ trợ tuân thủ điều trị); và người bệnh đồng ý và cam kết tham gia điều trị.
  • Kiểm tra lại các yếu tố khác như: nơi cư trú, khả năng liên lạc khi cần

⇒ Người bệnh đủ tiêu chuẩn về sẵn sàng điều trị: bắt đầu điều trị ARV

Lưu ý:

Đối với người bệnh có tình trạng nặng (giai đoạn lâm sàng 4, hoặc CD4 < 100 TB/mm3), hoặc người bệnh là phụ nữ có thai: Rút ngắn thời gian chuẩn bị điều trị, tư vấn tuân thủ điều trị cho người hỗ trợ điều trị và hoặc cho người bệnh vào các lần thăm khám tiếp theo hoặc khi người bệnh đã ổn định

Bắt đầu điều trị

  • Hướng dẫn lại cách sử dụng thuốc, lịch cấp thuốc, lịch hẹn tái khám; đảm bảo người bệnh có kế hoạch tuân thủ điều trị và biết cách xử trí khi gặp khó khăn.
  • Chỉ định phác đồ bậc một cho người nhiễm HIV mới bắt đầu điều trị ARV;
  • Người nhiễm HIV có tiền sử dùng các thuốc ARV trước đó hoặc điều trị gián đoạn, cần được đánh giá lâm sàng và xét nghiệm để quyết định sử dụng phác đồ bậc 1 thích hợp hoặc chuyển phác đồ bậc 2 nếu có thất bại điều trị.

Benh.vn

Bài viết Chỉ định điều trị ARV khi nào? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/chi-dinh-dieu-tri-arv-khi-nao-3721/feed/ 0
Mục đích và nguyên tắc điều trị ARV https://benh.vn/muc-dich-va-nguyen-tac-dieu-tri-arv-3720/ https://benh.vn/muc-dich-va-nguyen-tac-dieu-tri-arv-3720/#respond Mon, 30 Apr 2018 08:41:54 +0000 http://benh2.vn/muc-dich-va-nguyen-tac-dieu-tri-arv-3720/ Ths Nuyễn Tiến Lâm Trưởng khoa Virus - Ký sinh trùng BV Bệnh Nhiệt đới cho rằng, nhiều nghiên cứu và thực tiễn đã chứng minh các bệnh nhiễm trùng cơ hội có liên quan chặt chẽ với mức độ suy giảm miễn dịch của cơ thể: Suy giảm miễn dịch càng nặng thì càng có nguy cơ mắc nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội khác nhau.

Bài viết Mục đích và nguyên tắc điều trị ARV đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Ths Nuyễn Tiến Lâm Trưởng khoa Virus – Ký sinh trùng BV Bệnh Nhiệt đới cho rằng, nhiều nghiên cứu và thực tiễn đã chứng minh các bệnh nhiễm trùng cơ hội có liên quan chặt chẽ với mức độ suy giảm miễn dịch của cơ thể: Suy giảm miễn dịch càng nặng thì càng có nguy cơ mắc nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội khác nhau.

Không chỉ mắc một bệnh nhiễm trùng cơ hội mà có thể mắc cùng lúc nhiều bệnh. Thuốc ARV có khả năng làm:

– Ức chế sự nhân lên của virus và kìm hãm lượng virus trong máu ở mức thấp nhất.

– Phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội.

– Cải thiện chất lượng sống và tăng khả năng sống sót cho người bệnh

Nguyên tắc điều trị ARV:

– Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS.

– Điều trị ARV chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người bệnh có đủ tiêu chuẩn lâm sàng, và/hoặc xét nghiệm và chứng tỏ đã sẵn sàng điều trị.

– Bất cứ phác đồ điều trị nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc. Điều trị ARV là điều trị suốt đời; người bệnh phải tuân thủ điều trị tuyệt đối để đảm bảo hiệu quả và tránh kháng thuốc.

– Người nhiễm HIV được điều trị ARV vẫn phải áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm virus cho người khác.

– Người nhiễm HIV được điều trị ARV khi tình trạng miễn dịch chưa phục hồi cần tiếp tục điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội.

Các nhóm thuốc ARV được sử dụng tại Việt nam:

Nhóm ức chế men sao chép ngược nucleoside và nucleotide (NRTI).

Nhóm ức chế men sao chép ngược không phải là nucleoside (NNRTI).

Nhóm ức chế men protease (PI).

Benh.vn

Bài viết Mục đích và nguyên tắc điều trị ARV đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/muc-dich-va-nguyen-tac-dieu-tri-arv-3720/feed/ 0
Phác đồ điều trị ARV https://benh.vn/phac-do-dieu-tri-arv-3723/ https://benh.vn/phac-do-dieu-tri-arv-3723/#respond Mon, 14 Aug 2017 08:10:57 +0000 http://benh2.vn/phac-do-dieu-tri-arv-3723/ 1. Các phác đồ điều trị ARV bậc một Phác đồ chính AZT + 3TC + NVP hoặc d4T + 3TC + NVP Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này cho tất cả các người bệnh bắt đầu điều trị ARV a. Phác đồ AZT + 3TC + NVP: Liều lượng: – AZT 300 mg […]

Bài viết Phác đồ điều trị ARV đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
1. Các phác đồ điều trị ARV bậc một

Phác đồ chính AZT + 3TC + NVP hoặc d4T + 3TC + NVP

Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này cho tất cả các người bệnh bắt đầu điều trị ARV

a. Phác đồ AZT + 3TC + NVP:

Liều lượng:

– AZT 300 mg 2 lần/ngày

– 3TC 150 mg 2 lần/ngày

– NVP liều 200mg 1lần/ngày trong 2 tuần đầu sau đó tăng lên 2 lần/ngày

– Uống cách nhau 12 giờ, có thể uống thuốc lúc đói hoặc lúc no.

Xét nghiệm Hgb, ALT trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi ngờ có thiếu máu hoặc ngộ độc gan

Không bắt đầu điều trị phác đồ này cho người bệnh khi Hgb < 80 g/l; thận trọng khi sử dụng NVP trên người bệnh có ATL > 2,5 lần trị số bình thường, người bệnh điều trị lao phác đồ có rifampicin, phụ nữ có CD4 >250/mm3.

b. Phác đồ d4T + 3TC + NVP:

Liều lượng:

– d4T 30 mg 2 lần/ngày

– 3TC 150 mg 2 lần/ngày

– NVP liều 200mg 1lần/ngày trong 2 tuần sau đó tăng lên 2 lần/ngày. Uống thuốc cách nhau 12 giờ, có thể uống thuốc lúc đói hoặc lúc no. Xét nghiệm ALT trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần

Thận trọng khi sử dụng NVP trên người bệnh có ATL > 2,5 lần trị số bình thường, người bệnh điều trị lao phác đồ có rifampicin, phụ nữ có CD4 >250 /mm3.

Phác đồ thay thế

Phác đồ AZT + 3TC + EFV hoặc d4T + 3TC + EFV

Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này khi người bệnh không sử dụng được NVP

a. Phác đồ AZT + 3TC + EFV

Liều lượng:

– AZT 300 mg 2 lần/ngày

– 3TC 150 mg 2 lần/ngày

– EFV 600 mg 1 lần vào buổi tối

– Uống AZT + 3TC cách nhau 12 giờ, EFV vào buổi tối. Không dùng EFV cùng thức ăn có nhiều chất béo.

Xét nghiệm Hgb trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi ngờ có thiếu máu.

Không bắt đầu điều trị phác đồ này cho người bệnh khi Hgb < 80 g/l và hoặc phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Không dùng EFV cho người bệnh tâm thần (hiện tại hoặc tiền sử).

b. Phác đồ d4T + 3TC + EFV:

Liều lượng:

– d4T 30 mg 2 lần/ngày

– 3TC 150 mg 2 lần/ngày

– EFV 600mg 1 lần vào buổi tối

– Uống d4T + 3TC cách nhau 12 giờ, uống EFV vào buổi tối.

Không dùng EFV cùng thức ăn có nhiều chất béo

Không điều trị phác đồ có EFV cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Không dùng EFV cho người bệnh tâm thần (hiện tại hoặc tiền sử).

Phác đồ TDF + 3TC+ NVP hoặc TDF + 3TC+ EFV

Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này khi người bệnh không dùng được cả AZT và d4T

a. Phác đồ TDF + 3TC + NVP:

Liều lượng và cách sử dụng:

– 3TC, NVP: giống như trên.

– TDF: liều lượng 300 mg uống 1 lần/ngày

Xét nghiệm creatinin/độ thanh thải creatinin trước khi điều trị và định kỳ 6 tháng/1 lần và điều chỉnh liều khi người bệnh có suy thận

Độ thanh thải creatinin và liều TDF:

50ml/phút                  Ngày uống 1 lần 1viên TDF 300 mg

30 – 49 ml/phút           Hai ngày uống 1 lần 1 viên TDF 300 mg

10- 29 ml/phút            3 – 4 ngày uống 1ần 1 viên TDF 300 mg (tuần 2 viên)

< 10 ml/phút               Không có chỉ định điều trị

b. Phác đồ TDF + 3TC + EFV:

Liều lượng và cách sử dụng:

– 3TC, EFV: giống như trên.

– TDF: liều lượng 300 mg uống 1 lần/ngày.

Xét nghiệm creatinin/độ thanh thải creatinin trước khi điều trị và định kỳ 6 tháng/1 lần và điều chỉnh liều khi người bệnh có suy thận (như trên).

Phác đồ AZT+ 3TC+ TDF

Chỉ định: Sử dụng phác đồ này khi người bệnh không dùng được cả NVP và EFV

Liều lượng và cách sử dụng:

– Đối với AZT, 3TC: giống như trên.

– TDF: liều lượng 300 mg uống 1 lần/ngày

Xét nghiệm creatinin/độ thanh thải creatinin trước khi điều trị và định kỳ 6 tháng/1 lần và điều chỉnh liều khi người bệnh có suy thận (như trên).

Xét nghiệm Hgb trước điều trị, sau 1 tháng và sau đó 6 tháng/lần hoặc khi nghi ngờ có thiếu máu

Benh.vn

Bài viết Phác đồ điều trị ARV đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/phac-do-dieu-tri-arv-3723/feed/ 0
Xử trí một số tác dụng phụ trong điều trị ARV bậc 1 https://benh.vn/xu-tri-mot-so-tac-dung-phu-trong-dieu-tri-arv-bac-1-3736/ https://benh.vn/xu-tri-mot-so-tac-dung-phu-trong-dieu-tri-arv-bac-1-3736/#respond Tue, 04 Jul 2017 04:42:13 +0000 http://benh2.vn/xu-tri-mot-so-tac-dung-phu-trong-dieu-tri-arv-bac-1-3736/ Hướng dẫn xử trí một số tác dụng phụ chủ yếu trong điều trị ARV bậc 1

Bài viết Xử trí một số tác dụng phụ trong điều trị ARV bậc 1 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Hướng dẫn xử trí một số tác dụng phụ chủ yếu trong điều trị ARV bậc 1

Thiếu máu do AZT

– Thiếu máu thường xảy ra trong 4 – 6 tuần đầu sử dụng AZT.

– Cần loại trừ các nguyên nhân khác gây ra thiếu máu hoặc suy tuỷ.

– Xác định mức độ thiếu máu và xử trí:

Mức độ Hgb xử trí

– Mức độ 1 (Nhẹ) 80 – 94 g/l

– Mức độ 2 (Trung bình): 70 – 79 g/l. Tiếp tục dùng AZT. Bổ sung vi chất: vitamine B12, viên sắt, acid folic, tư vấn về chế độ ăn.

– Xét nghiệm CTM máu lại sau 1, 3 tháng. Nếu tình trạng người bệnh ổn định hoặc cải thiện thì tiếp tục dùng AZT và tư vấn về khẩu phần ăn thích hợp.

– Mức độ 3 (Nặng) 65 – 69 g/l

– Mức độ 4 (Nặng đe dọa tính mạng) Hgb <65 g/l

Thay AZT bằng d4T hoặc TDF sau khi loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây thiếu máu hoặc suy tuỷ. Truyền khối hồng cầu hoặc máu toàn phần . Bổ sung vi chất, vitamine B12, viên sắt, acid folic

Phát ban do NVP

– Thường xảy ra trong 2 – 8 tuần đầu điều trị.

– Theo dõi người bệnh chặt chẽ và đánh giá mức độ phát ban. Tư vấn cho người bệnh đến tái khám ngay khi phát ban nặng lên, hoặc phát ban kèm theo triệu chứng toàn thân như sốt, mệt mỏi,…

– Điều trị triệu chứng, sử dụng kháng histamine hoặc steroid tùy mức độ và theo dõi chặt chẽ diễn biễn lâm sàng và xét nghiệm ALT.

– Xử trí về điều trị ARV theo mức độ phát ban như sau: Mức độ biểu hiện xử trí

Mức độ 1 (Nhẹ): Ban đỏ, không kèm theo các triệu chứng khác
Mức độ 2 (Trung bình): Ban sẩn lan tỏa hoặc bong tróc da khô khu trú. Tiếp tục NVP, có thể trì hoãn việc tăng liều NVP thêm vài ngày đến khi tình trạng phát ban được cải thiện (chú ý không nên sử dụng NVP 200mg/ngày quá 3 tuần).
Mức độ 3 (Nặng): Ban đỏ toàn thân hoặc bọng nước phồng rộp hoặc tróc da ướt
NGỪNG ngay NVP. Tiếp tục uống 2 thuốc còn lại trong 7 ngày sau đó thay NVP bằng
EFV nếu phát ban đã cải thiện hoặc Nếu sau 7 ngày phát ban chưa cải thiện hoàn toàn, nên ngừng tiếp 2 thuốc còn lai. Khi người bệnh hồi phục, thay NVP bằng EFV và tiếp tục dùng hai thuốc còn lại. .
Mức độ 4 (Nặng đe dọa tính mạng):
Tổn thương cả niêm mạc và các hốc tự nhiên, Hội chứng Steven Johnson, Ban đỏ đa dạng.
Ngừng toàn bộ các thuốc, nhập viện hoặc chuyển tuyến. Chỉ điều trị ARV lại khi người bệnh hoàn toàn hồi phục. Thay NVP bằng EFV hoặc TDF hoặc LPV/r .

Nhiễm độc gan do NVP

– Xét nghiệm ALT trước khi điều trị. Xét nghiệm HBsAg và antiHCV nếu có điều kiện.

– Các biểu hiện: ALT tăng cao, có thể kèm hoặc không kèm theo các triệu chứng lâm sàng như phát ban, sốt, khó chịu, nôn, buồn nôn, hoàng đản, đau bụng. Hay gặp nhất sau khi điều trị ARV được vài tuần đến vài tháng.

– Nguy cơ nhiễm độc gan cao ở (1) PNMT có CD4 >250 TB /mm3, (2) người bệnh có ALT trước điều trị cao, (3) người bệnh đồng nhiễm HIV và viêm gan B hoặc C và (4) người bệnh Lao đang điều trị bằng phác đồ có rifamicine.

– Theo dõi chặt chẽ chức năng gan đối với người bệnh sử dụng NVP, đặc biệt là đối với người bệnh có yếu tố nguy cơ nói trên.

Tuỳ theo mức độ ALT mà xử trí điều trị ARV từng trường hợp cụ thể như sau.:Mức độ ALT Xử trí:

– Mức độ 1 (Nhẹ) Tăng 1,25 – 2,50 lần so với bình thường.

– Mức độ 2 (Trung bình) Tăng 2,5 – 5 lần so bình thường. Tiếp tục sử dụng NVP. Theo dõi chặt chẽ ALT 2 tuần/lần

– Mức độ 3: (Nặng) Tăng 5 – 10 lần so bình thường NGỪNG ngay NVP. Tiếp tục uống 2 thuốc còn lại trong 7 ngày sau đó thay NVP bằng EFV nếu ALT đã cải thiện hoặc Nếu như ALT vẫn chưa cải thiện thì ngừng tiếp 2 thuốc còn lại. Chỉ điều trị lại ARV và thay NVP bằng EFV khi ALT đã cải thiện.

– Mức độ 4 (Nặng đe dọa tính mạng): Tăng > 10 lần so bình thường . Kết hợp chặt chẽ giữa ALT và lâm sàng để có quyết định phù hợp.

Có thể ngừng toàn bộ các thuốc, nhập viện hoặc chuyển tuyến. Tuỳ từng trường hợp có thể bắt đầu điều trị lại ARV và thay NVP bằng EFV, hoặc TDF hoặc LPV/r

Bệnh lý thần kinh ngoại biên do d4T

– Bệnh lý thần kinh liên quan d4T có thể xuất hiện sau 3-12 tháng điều trị, thông thường sau 6 tháng điều trị.

– Biểu hiện rối loạn thần kinh ngoại biên: tê bì, rát bỏng, đau, giảm cảm giác, thường

– Bắt đầu từ đầu các chi (chủ yếu là chi dưới, bắt đầu từ các ngón chân), nếu nặng người bệnh hạn chế đi lại, mất cảm giác nhiều nơi trên cơ thể. Đa phần các tổn thương thần kinh có thể tồn tại vĩnh viễn . Hỏi bệnh sử và đánh giá sự thay đổi phản xạ gân xương, cảm giác rung, cảm giác, loạn dinh dưỡng do thần kinh trong các lần tái khám để phát hiện sớm các biểu hiện bệnh lý thần kinh ngoại biên

Thay d4T bằng AZT sau 12 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị nếu có điều kiện hoặc thay d4T bằng AZT hoặc TDF bất cứ khi nào có dấu hiệu của bệnh lý thần kinh  ngoại biên.

– Khi điều trị phác đồ có d4T phát hiện người bệnh có dấu hiệu rối loạn thần kinh ngoại biên cần lưu ý: Kiểm tra xem người bệnh có đang dùng các thuốc khác cũng gây độc với thần kinh. Nếu người bệnh đang điều trị bằng isonazid cần đảm bảo là người bệnh được uống thêm pyridoxin 50mg hàng ngày (vitamin B6), không ngừng isonazid.

– Nếu có thể, nên ngừng các thuốc khác gây độc với thần kinh.

Rối loạn phân bổ mỡ

Nguyên nhân do điều trị bằng các thuốc nhóm NRTI, thông thường nhất là do d4T
Thường xuất hiện sau điều trị từ 6-12 tháng hoặc có thể lâu hơn.
Biểu hiện: Teo mỡ dưới da ở mặt, tay, chân, mông và/hoặc tăng tích tụ mỡ ở bụng,
ngực, vú, vai, cổ (thông thường không hồi phục). Nếu nặng có thể gây rối loạn chuyển hoá như tăng mỡ máu hoặc tiểu đường.

– Xử trí:

+ Theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu của teo mỡ.

+Xét nghiệm mỡ máu, đường máu

+ Thay d4T bằng AZT sau 12 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị nếu có điều kiện
hoặc thay d4T bằng AZT hoặc TDF bất cứ khi nào có dấu hiệu của rối loạn
phân bố mỡ.

Các tác dụng phụ khác và xử trí:

Độc tính với thận

– Ảnh hưởng lên sự phát triển xương
– Giảm liều khi có suy thận. Thay TDF bằng AZT hoặc ABC hoặc d4T.
– Tránh sử dụng cho phụ nữ mang thai và trẻ em

Nhiễm độc nặng dai dẳng hệ thần kinh trung ương.

– Có thể gặp chứng vú to ở nam
Thay EFV bằng NVP hoặc TDF hoặc LPV/r.

Phát ban, ngộ độc gan.

Tương tự như đối với NVP. Mức độ 3, 4: thay EFV bằng TDF hoặc LPV/r EFV

Gây dị dạng thai ở phụ nữ mang thai: Không sử dụng EFV trong 3 tháng đầu. (xem phần sử dụng ARV cho phụ nữ mang thai)

Toan lactic: tiến triển chậm và không đặc hiệu, biểu hiện: mệt mỏi, khó thở, đau bụng, buồn nôn, nôn, chán ăn và sút cân.

Xét nghiệm: tăng axit lactic, ALT, LDH, CPK và thiếu hụt anion.
Ngừng toàn bộ thuốc ARV.
Nhập viện: Điều trị ARV lại sau khi người bệnh đã hồi phục hoàn toàn. Thay D4T, bằng TDF, D4T

Viêm tụy: Đau bụng, buồn nôn, nôn, sốt; tăng amylase máu

Benh.vn (Theo Pasteur HCM)

Bài viết Xử trí một số tác dụng phụ trong điều trị ARV bậc 1 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/xu-tri-mot-so-tac-dung-phu-trong-dieu-tri-arv-bac-1-3736/feed/ 0
Xét nghiệm mỗi năm một lần sẽ loại bỏ được HIV? https://benh.vn/xet-nghiem-moi-nam-mot-lan-se-loai-bo-duoc-hiv-7541/ https://benh.vn/xet-nghiem-moi-nam-mot-lan-se-loai-bo-duoc-hiv-7541/#respond Mon, 19 Jun 2017 06:23:12 +0000 http://benh2.vn/xet-nghiem-moi-nam-mot-lan-se-loai-bo-duoc-hiv-7541/ Nếu như nếu như mọi người được xét nghiệm HIV mỗi năm 1 lần thì chúng ta sẽ loại bỏ được HIV vào năm 2030. Đó là tuyên bố của các nhà khoa học tại hội nghị AIDS diễn ra tại Vancouver hồi tháng rồi trong nỗ lực tìm kiếm chiến lược loại bỏ hoàn toàn căn bệnh thế kỷ này.

Bài viết Xét nghiệm mỗi năm một lần sẽ loại bỏ được HIV? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nếu như nếu như mọi người được xét nghiệm HIV mỗi năm 1 lần thì chúng ta sẽ loại bỏ được HIV vào năm 2030. Đó là tuyên bố của các nhà khoa học tại hội nghị AIDS diễn ra tại Vancouver hồi tháng rồi trong nỗ lực tìm kiếm chiến lược loại bỏ hoàn toàn căn bệnh thế kỷ này.

Cuộc chiến chống lại HIV

Từ lâu cuộc chiến chống lại HIV vẫn luôn dai dẳng phức tạp do vẫn chưa có thuốc đặc trị hoàn toàn loại virus này.

Cuộc chiến chống HIV cực kỳ dai dẳng, phức tạp

Tuy nhiên, việc loại bỏ căn bệnh này đòi hỏi có nhiều chiến thuật chứ không phải chỉ dựa và cách điều trị. Một trong số những chiến lược giúp loại bỏ HIV chính là phát hiện sớm. Đây là cách duy nhất đề xác định và chẩn đoán những ai nhiễm HIV, từ đó sẽ được điều trị sớm và cho kết quả tốt hơn.

Thói quen ngại xét nghiệm cố hữu trong người dân

Theo ước tính, thế giới hiện có 19 triệu trong số 35 triệu người đã nhiễm HIV mà chưa xét nghiệm hoặc thậm chí là không biết mình đã nhiễm bệnh. Mặc dù tại những nước khác nhau thì tỷ lệ người chưa xét nghiệm/số người dương tính với HIV cũng khác nhau nhưng tựu chung thì vấn đề năm ở chỗ vẫn còn chưa đủ người được xét nghiệm. Chẳng những vậy, xét nghiệm không chỉ thực hiện một lần mà phải lặp lại thường xuyên, có thể là mỗi năm 1 lần.

Hiện tại, chúng ta đã có những phương pháp xét nghiệm HIV đơn giản, giá rẻ và nhanh chóng cho kết quả với độ tin cậy khá cao. Nhưng hiện tại việc xét nghiệm HIV vẫn chưa được xem trọng. Nhiều người cảm thấy không thoải mái khi đi xét nghiệm, khi được yêu cầu đi xét nghiệm… Do đó, các bác sĩ cho rằng cần chuyển đến một thông điệp tới tất cả mọi người rằng: “Không có gì đáng xấu hổ khi xét nghiệm HIV” và việc xét nghiệm hàng năm là cần thiết.

Giải pháp 90-90-90 trong cuộc chiến chống HIV

Theo báo cáo thống kê cho biết, con người đã đạt nhiều thành tựu về ngắn hạn trong cuộc chiến chống HIV, đặc biệt là trong 5 năm trở lại đây và bây giờ, chúng ta có quyền hy vọng sẽ loại bỏ được nó. Nếu tới năm 2020, 90% số người nhiễm HIV đều được xét nghiệm, 90% trong số này đều được tham gia điều trị tích cực, và 90% số được điều trị đều có hiệu quả thì theo ước tính, chúng ta sẽ loại bỏ được HIV vào năm 2030.

Giải pháp 90-90-90 nghĩa là duy trì xét nghiệm mỗi năm một lần để tiến tới một thế giới không còn HIV

Các nhà nghiên cứu gọi đây là trò chơi 90-90-90 để kết thúc cuộc đấu tranh dai dẳng này. Nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, nguồn lực và nền văn hóa cộng đồng về các vấn đề sức khỏe.

Các bác sĩ chia sẻ rằng họ đã từng thấy nhiều bệnh nhân chết vì AIDS thời kỳ cuối bởi họ không xét nghiệm hoặc họ không biết phải làm thế nào để được xét nghiệm sớm. Thậm chí ngay tại Hoa Kỳ, người ta vẫn còn chết vì AIDS bởi họ không được chẩn đoán sớm.

Do đó, thuốc và vaccine chỉ là chiến thuật ở phía sau, còn cái cấp thiết hơn đễ loại bỏ đại dịch HIV chính là xem xét nghiệm HIV như một tiêu chuẩn phải được thực hiện hàng năm. “Khi chúng ta đã có đủ người được xét nghiệm sớm và chữa trị sớm, chúng ta sẽ có cơ hội tiêu diệt nó.”

Bài viết Xét nghiệm mỗi năm một lần sẽ loại bỏ được HIV? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/xet-nghiem-moi-nam-mot-lan-se-loai-bo-duoc-hiv-7541/feed/ 0
Tin vui: Thử nghiệm thành công thuốc phòng ngừa bệnh HIV trên khỉ https://benh.vn/tin-vui-thu-nghiem-thanh-cong-thuoc-phong-ngua-benh-hiv-tren-khi-6606/ https://benh.vn/tin-vui-thu-nghiem-thanh-cong-thuoc-phong-ngua-benh-hiv-tren-khi-6606/#respond Sat, 03 Jun 2017 05:49:18 +0000 http://benh2.vn/tin-vui-thu-nghiem-thanh-cong-thuoc-phong-ngua-benh-hiv-tren-khi-6606/ Theo Dailymail cho biết, các nhà khoa học trên thế giới đã công bố thử nghiệm thành công một loại thuốc có hiệu quả phòng ngừa HIV trên cơ thể khỉ.

Bài viết Tin vui: Thử nghiệm thành công thuốc phòng ngừa bệnh HIV trên khỉ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo Dailymail cho biết, các nhà khoa học trên thế giới đã công bố thử nghiệm thành công một loại thuốc có hiệu quả phòng ngừa HIV trên cơ thể khỉ.

Thử nghiệm loại thuốc mới trên khỉ

Tiến hành thí nghiệm

Việc thí nghiệm được thực hiện đối với khỉ đuôi ngắn Macaque bằng cách tiêm nhiều liều thuốc gây bệnh giống AIDS ở người vào cơ thể chúng. Sau quá trình thử nghiệm, các nhà khoa học cho biết loại thuốc này có hiệu quả “đáng kinh ngạc” trong việc ngăn chặn mọi chủng HIV. Công trình này tạo ra một bước tiến quan trọng trong việc điều trị căn bệnh thế kỷ AIDS.

Kỹ thuật dùng liệu pháp gen đưa một mảnh ADN mới vào bên trong các tế bào khỏe mạnh. Trưởng nhóm nghiên cứu, giáo sư Michael Farzan, Viện nghiên cứu Scripps ở Florida, Mỹ cho biết  “Thuốc này có thể bảo vệ cơ thể khỏi HIV như  tác dụng của một loại vắc xin”.

 

Thử nghiệm thành công thuốc phòng ngừa HIV trên khỉ

Cơ chế tác dụng

Loại thuốc này có tên eCD4-Ig, cấu tạo gồm 2 thành phần mô phỏng thụ thể hay điểm neo đậu, nơi virus HIV bám vào các tế bào CD4, hàng phòng thủ then chốt của các tế bào miễn dịch. Các thành phần này bắt chước cơ chế neo đậu của virus HIV, lừa chúng nhanh chóng tiến hành lắp ghép. Virus chỉ có thể thực hiện quá trình này một lần, nên thành phần giả lập của thuốc đã ngăn cản nó không thể bám dính các tế bào CD4 được nữa. Các nhà khoa học ví hiệu ứng này như việc đóng chặt cửa ngăn kẻ xâm nhập và ném chìa khóa đi.

Kết quả thử nghiệm

Việc tiến hành thử nghiệm trong 40 tuần. Kết quả, những con vật được tiêm thuốc eCD4-Ig vẫn sống sau 4 lần được tiêm virus với liều lượng đủ khiến chúng phát bệnh. Nghiên cứu còn phát hiện, sau 8-16 lần tiêm virus lây nhiễm, thuốc eCD4-Ig vẫn tiếp tục bảo vệ các cá thể khỉ đuôi trong vòng hơn một năm.

Với thành công này, giáo sư Farzan bày tỏ mong muốn sớm được tiến hành các cuộc thử nghiệm với thuốc eCD4-Ig ở người trong tương lai gần. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học cho rằng cần thận trọng về hiệu quả của thuốc đến khi nó chính thức được thử nghiệm ở người.

Mở ra hướng đi mới trong điều trị HIV

Trước đây, các thuốc kháng retrovirus (ARV) được phát minh vào giữa những năm 1990 có thể điều trị việc nhiễm trùng, nhưng không thể chữa khỏi bệnh AIDS hay phòng ngừa việc nhiễm virus HIV. Vả lại việc điều trị nhiễm HIV vẫn phải kéo dài cả đời và gây nhiều tác dụng phụ không mong muốn.

Bên cạnh đó, chi phí mua thuốc ARV cho người dân ngày càng tăng và trở thành một gánh nặng lớn đối với ngân sách quốc gia.Vì vậy, phương pháp mới mở ra nhiều khả năng thuận lợi hơn cho những người bị nhiễm căn bệnh thế kỷ.

Bài viết Tin vui: Thử nghiệm thành công thuốc phòng ngừa bệnh HIV trên khỉ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tin-vui-thu-nghiem-thanh-cong-thuoc-phong-ngua-benh-hiv-tren-khi-6606/feed/ 0
Theo dõi điều trị ARV và hướng dẫn người bệnh khi quên uống thuốc https://benh.vn/theo-doi-dieu-tri-arv-va-huong-dan-nguoi-benh-khi-quen-uong-thuoc-3734/ https://benh.vn/theo-doi-dieu-tri-arv-va-huong-dan-nguoi-benh-khi-quen-uong-thuoc-3734/#respond Sat, 04 Mar 2017 04:42:10 +0000 http://benh2.vn/theo-doi-dieu-tri-arv-va-huong-dan-nguoi-benh-khi-quen-uong-thuoc-3734/ Theo dõi điều trị ARV và hướng dẫn người bệnh khi quên uống thuốc

Bài viết Theo dõi điều trị ARV và hướng dẫn người bệnh khi quên uống thuốc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Theo dõi điều trị ARV và hướng dẫn người bệnh khi quên uống thuốc

Theo dõi điều trị ARV

– Người bệnh bắt đầu điều trị ARV cần được tái khám và phát thuốc định kỳ

– Thăm khám thường xuyên trong giai đoạn đầu để được tư vấn, hỗ trợ tuân thủ và theo dõi tác dụng phụ khi bắt đầu điều trị.

– Khi người bệnh tuân thủ và dung nạp thuốc tốt, các triệu chứng lâm sàng được cải thiện, thời gian giữa các lần tái khám và phát thuốc là 1 tháng, một số trường hợp có hoàn cảnh đặc biệt có diễn biến lâm sàng, tuân thủ tốt thì thời gian giữa các lần tái khám có thể 2 tháng và do nhóm điều trị quyết định, một số trường hợp cần theo dõi thường xuyên hơn tại cơ sở điều trị nếu người bệnh có các nhiễm trùng cơ hội mới xuất hiện, có tác dụng phụ của thuốc hoặc phải thay thuốc, và khi người bệnh tuân thủ kém.

– Mỗi lần tái khám, người bệnh được đánh giá tiến triển lâm sàng, làm các xét nghiệm cần thiết, cung cấp tư vấn và hỗ trợ cần thiết. Các thông tin đều phải được ghi lại trong bệnh án và sổ khám bệnh của phòng khám

Theo dõi tiến triển lâm sàng

Mỗi lần tái khám, người bệnh cần được đánh giá tiến triển lâm sàng, phát hiện và xử trí các tác dụng phụ hoặc các nhiễm trùng cơ hội mới, cụ thể:

– Theo dõi cân nặng, nhiệt độ, mạch, huyết áp và khả năng vận động.

– Theo dõi các dấu hiệu lâm sàng liên quan đến tác dụng phụ của thuốc

– Phát hiện các nhiễm trùng cơ hội mới, tái phát; phân biệt nguyên nhân phục hồi miễn dịch hay thất bại điều trị để có hướng xử trí phù hợp.

– Đánh giá lại giai đoạn lâm sàng. Ngừng điều trị ARV, điều trị hỗ trợ và theo dõi xét nghiệm. Điều trị ARV lại với thuốc ít nguy cơ gây viêm tuỵ cấp như AZT, TDF, ABC.

– Đánh giá khả năng mang thai để thay thuốc ARV khi cần (không dùng efavirenz cho phụ nữ có thai trong 12 tuần đầu của thai kỳ)

Các dấu hiệu lâm sàng chứng tỏ người bệnh đáp ứng với điều trị ARV:

– Tăng cân, thèm ăn trở lại và ăn ngon miệng, chức năng vận động tốt hơn

– Hết các dấu hiệu liên quan đến các nhiễm trùng cơ hội và bệnh lý liên quan đến HIV

Theo dõi xét nghiệm

Ghi chú:

– Khi theo dõi điều trị nếu người bệnh có biểu hiện bất thường, bác sĩ có thể yêu cầu làm thêm các xét nghiệm cần thiết khác để chẩn đoán và xử trí kịp thời.

Theo dõi sự tuân thủ điều trị: Đánh giá lại về sự tuân thủ điều trị trong tất cả các lần tái khám

– Đánh giá tuân thủ dựa trên đếm số thuốc còn lại, tự báo cáo của bệnh nhân, sổ nhỏ tự ghi, báo cáo của người hỗ trợ điều trị (nếu có) và đánh giá về diễn biến lâm sàng và xét nghiệm.

– Kiểm tra lại cách dùng thuốc, cách xử trí khi quên uống thuốc.

Nếu người bệnh tuân thủ không tốt, tìm hiểu lý do. Người bệnh cần được tư vấn về cách khắc phục các rào cản tuân thủ và nhận được sự hỗ trợ kịp thời đảm bảo sự tuân thủ tốt.

Hướng dẫn khi người bệnh quên uống thuốc:

Khi phát hiện ra quên uống thuốc theo lịch, người bệnh phải uống ngay liều thuốc vừa quên. Tiếp theo tính thời gian uống liều kế tiếp theo lịch như thường lệ:

– Nếu thời gian đến liều uống kế tiếp còn trên 4 tiếng, uống liều đó vào đúng thời gian theo lịch như bình thường.

– Nếu thời gian đến liều uống kế tiếp còn dưới 4 tiếng, KHÔNG ĐƯỢC uống liều kế tiếp theo lịch cũ mà phải đợi trên 4 tiếng mới được uống.

– Nếu quên hơn 2 liều trong một tuần, người bệnh phải báo cho bác sĩ điều trị để được hướng dẫn

Benh.vn (Theo Pasteur HCM)

Bài viết Theo dõi điều trị ARV và hướng dẫn người bệnh khi quên uống thuốc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/theo-doi-dieu-tri-arv-va-huong-dan-nguoi-benh-khi-quen-uong-thuoc-3734/feed/ 0
Tác dụng phụ của thuốc ARV và cách hạn chế https://benh.vn/tac-dung-phu-cua-thuoc-arv-va-cach-han-che-3722/ https://benh.vn/tac-dung-phu-cua-thuoc-arv-va-cach-han-che-3722/#respond Fri, 16 Dec 2016 03:41:56 +0000 http://benh2.vn/tac-dung-phu-cua-thuoc-arv-va-cach-han-che-3722/ Nhiễm trùng cơ hội là một trong số các nguyên nhân khiến bệnh HIV/ADIS trở nên cực kỳ nguy hiểm: nhiễm trùng cơ hội nặng, tổn thương các cơ quan quan trọng của cơ thể như: Hệ thống thần kinh (viêm não do Toxoplasma, củ lao ở trong não, áp xe não, viêm não do Herpes, u não, bệnh lý não trắng đa ổ tiến triển, bệnh lý não do HIV...

Bài viết Tác dụng phụ của thuốc ARV và cách hạn chế đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
Nhiễm trùng cơ hội là một trong số các nguyên nhân khiến bệnh HIV/AIDS trở nên cực kỳ nguy hiểm: nhiễm trùng cơ hội nặng, tổn thương các cơ quan quan trọng của cơ thể như: Hệ thống thần kinh (viêm não do Toxoplasma, củ lao ở trong não, áp xe não, viêm não do Herpes, u não, bệnh lý não trắng đa ổ tiến triển, bệnh lý não do HIV, lao màng não, viêm màng não do nấm Cryptococcus neoformans, viêm màng não mủ, viêm màng não do virus, viêm màng não do ký sinh trùng); hệ thống hô hấp (viêm phổi do Pneumocystis jiroveci, viêm phổi do vi khuẩn, lao phổi, nấm phổi, viêm mủ màng phổi v.v….); các đợt viêm gan bùng phát cấp tính và nặng, viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan….

Nếu không được chẩn đoán, điều trị kịp thời sẽ dẫn tới tử vong. Tư vấn dùng ARV để bệnh nhân tuân thủ điều trị và kế hoạch hỗ trợ tuân thủ điều trị cũng như xử trí các vấn đề nảy sinh trong quá trình điều trị như quên thuốc, tác dụng phụ,…là vô cùng cần thiết.

Hiện nay nhu cầu bệnh nhân HIV/AIDS cần được điều trị ARV rất lớn trong khi nguồn thuốc còn hạn chế. Mặt khác ARV là loại thuốc có nhiều tác dụng phụ vì vậy cần lưu ý một số điểm sau trong điều trị bằng ARV:

Chỉ dùng cho bệnh nhân “Có chỉ định” vì không phải tất cả mọi người có HIV đều có chỉ định điều trị bằng ARV. Chỉ định điều trị phải dựa vào giai đoạn lâm sàng hoặc số tế bào lympho, CD4 hoặc đề điều trị dự phòng phơi nhiễm, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con.

Một số tác dụng phụ hay gặp khi dùng ARV và cách hạn chế tác dụng phụ

Đau đầu: có thể gặp khi trong phác đồ điều trị có các loại thuốc như: ZDV, lamivudin (3TC), IDV, SQV, LPV. Có thể dùng thuốc giảm đau thông thường như paracetamol để giảm bớt đau đầu cho người bệnh.

Buồn nôn: hay gặp khi dùng các thuốc: zidovudin (ZDV), stavudin (d4T); didanosin (ddI); abacavir (ABC); tenofovir (TDF); indinavir (IDV); saquinavir (SQV); lopinavir (LPV); ritonavir (RTV). Để hạn chế tác dụng phụ này, có thể cho uống thuốc trong bữa ăn. Tuy nhiên, IDV và ddI không nên dùng trong bữa ăn vì ảnh hưởng tới hấp thu và chuyển hóa thuốc.

Đau bụng, khó chịu ở bụng: thường gặp khi dùng các loại thuốc sau: ddI, ABC, SQV cần theo dõi kỹ, nếu đau liên tục cần tới cơ sở y tế nơi cấp thuốc để được hướng dẫn thêm, thậm chí phải thay thế thuốc khác hoặc đổi phác đồ.

Tiêu chảy: thường gặp khi dùng các thuốc: TDF, SQV, LPV, RTV. Khi bị tiêu chảy cần bù nước điện giải đầy đủ bằng đường uống (oresol) hoặc đường truyền nếu nặng. Có thể phải dùng các thuốc chống tiêu chảy để hạn chế tiêu chảy tạm thời.

Rối loạn giấc ngủ, ác mộng: hay gặp biểu hiện này khi dùng các thuốc sau: EFV, 3TC. Nên dùng vào buổi tối, trước khi đi ngủ. Các triệu chứng này thường không kéo dài. Có thể dùng các loại thuốc an thần, thuốc hỗ trợ để ngủ tốt hơn.

Nổi ban đỏ, ngứa: các loại thuốc như ddI, 3TC, ABC, EFV, NVP, LPV có thể gây dị ứng. Nhẹ thì có biểu hiện ban đỏ rải rác, ngứa… hết khi điều trị bằng kháng histamin; nhưng cũng có thể bị dị ứng nặng như hội chứng Stevens Johnson, Lyell có thể đe dọa tính mạng (có thể gặp khi dùng các thuốc: EFV, NVP). Khi bị dị ứng thuốc nặng cần ngừng thuốc ngay và điều trị tích cực tại các trung tâm y tế có đủ điều kiện.

Một số độc tính, tác dụng phụ khác của thuốc ARV có thể gặp khi điều trị

Bệnh lý thần kinh ngoại vi: biểu hiện rối loạn cảm giác ngoại vi, chủ yếu đầu chi, đi lại khó khăn. Thường gặp khi dùng d4T, ddI, các thuốc kháng retrovirus non-nucleosid. Cần dùng vitamin B liều cao, nếu nặng phải thay thế thuốc.

Độc với thần kinh trung ương: EFV biểu hiện lẫn lộn, rối loạn tâm thần, trầm cảm. Cần dừng và thay thế thuốc khi bệnh nhân có vấn đề về tâm thần kinh.

Viêm tụy: gặp khi dùng ddI, d4T. Cần dừng ngay thuốc và thay bằng ZDV.

Độc cho gan: NPV, EFV, ZDV và thuốc ức chế protease rất độc với gan, gây hủy hoại tế bào gan, tăng men gan. Cần ngừng thuốc nếu có tăng men gan gấp 5 lần bình thường.

Phân bố lại mỡ: khi dùng ddI, thuốc ức chế protease. Biểu hiện tăng tích tụ mỡ ở ngực, bụng, lưng, gáy; teo mô mỡ ở cánh tay, cẳng chân, mông, má.

Benh.vn (Theo BV Bạch Mai)

Bài viết Tác dụng phụ của thuốc ARV và cách hạn chế đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.

]]>
https://benh.vn/tac-dung-phu-cua-thuoc-arv-va-cach-han-che-3722/feed/ 0