Bài viết Thuốc Medrol là thuốc gì? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Trả lời:
Thuốc Medrol của Pfizer là một loại thuốc nhóm GlucoCorticoid tác dụng chống viêm, ức chế miễn dịch và chống dị ứng mạnh được sử dụng trong nhiều bệnh lý viêm nhiễm, dị ứng.
Chỉ định thuốc Medrol
Các bệnh hệ thống mô liên kết (trong giai đoạn cấp tính, trong một số trường hợp điều trị duy trì):
Đau đa cơ do thấp khớp
Viêm đa cơ (polymyositis)
Viêm động mạch tế bào khổng lồ.
Bệnh vẩy nến nặng
Lupus ban đỏ hệ thống
Các bệnh ngoài da: Bệnh thấp khớp tim cấp tính; pemphigus; viêm da tróc vảy; hồng ban đa dạng (hội chứng Stevens-Johnson); herpetiformis viêm da bóng nước; bệnh nấm da; viêm da tiết bã nặng.
Các bệnh của hệ thống cơ xương, bao gồm viêm khớp cấp tính và bán cấp tính, viêm bao hoạt dịch; viêm khớp vẩy nến; viêm khớp gút cấp tính; viêm cột sống dính khớp; viêm xương khớp sau chấn thương; Epicondylitis; viêm bao gân cấp tính không đặc hiệu; Synovitis của viêm xương khớp; viêm khớp dạng thấp.
Bệnh nội tiết:
Bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh; Suy thượng thận; bán cấp và viêm tuyến giáp mạn tính; Tăng calci máu ác tính.
Phản ứng dị ứng (điều kiện nặng hoặc điều trị thông thường không hiệu quả)
Viêm da dị ứng; Liên quan tới viêm da; viêm mũi dị ứng theo mùa hoặc lâu năm; Hen phế quản; phản ứng quá mẫn với thuốc.
Bệnh đường hô hấp:
Beryllium; Bệnh u hạt có triệu chứng; Viêm phổi hít; Sét hay lao phổi thông thường (kết hợp với hóa trị liệu kháng lao thích hợp); Hội chứng Loeffler không đáp ứng điều trị bằng các loại thuốc khác.
Rối loạn huyết học:
ITP ở người lớn; giảm tiểu cầu thứ phát ở người lớn; Bệnh tự miễn dịch thiếu máu huyết tán; Erythroblastopenia; Hồng cầu (bẩm sinh) thiếu máu giảm sinh.
Các bệnh về đường tiêu hóa (để loại bỏ các bệnh nhân từ các tiểu bang quan trọng):
Viêm ruột từng vùng; viêm loét đại tràng.
Rối loạn mắt (quy trình cấp tính, mãn tính, viêm và dị ứng nghiêm trọng với một tổn thương mắt):
Viêm giác mạc; viêm kết mạc dị ứng; viêm đáy mắt; viêm mắt tiếp xúc; Viêm dây thần kinh mắt; Loét biên giác mạc dị ứng; viêm màng bồ đào sau và viêm màng mạch võng mạc; Viêm mống mắt và iridocyclitis; Viêm phần trước của mắt.
Rối loạn hệ thần kinh:
Phù não gây ra bởi khối u não; Đợt cấp của bệnh đa xơ cứng.
Ung thư (Medrol được sử dụng như một liệu pháp giảm nhẹ):
Bệnh bạch cầu cấp tính ở trẻ em; Lymphoma và bệnh bạch cầu ở người lớn.
Chỉ định khác của thuốc Medrol
Viêm màng não lao với khối dưới nhện hoặc sự hiện diện của các mối đe dọa khối (kết hợp với hóa trị liệu kháng lao thích hợp);
Bệnh sán heo với tổn thương cơ tim hoặc hệ thần kinh; Ghép tạng;
Hội chứng phù nề ở bệnh nhân có hội chứng thận hư mà không nhiễm độc niệu, loại vô căn hoặc do lupus ban đỏ hệ thống (để kích thích gây lợi tiểu và đạt được thuyên giảm protein niệu).
Bài viết Thuốc Medrol là thuốc gì? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Thuốc Aspirin có thể làm giảm nguy cơ bệnh ung thư ở những người thừa cân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Những người thừa cân, béo phì có rất nhiều nguy cơ bệnh tật, trong đó có nguy cơ ung thư. Aspirin được các nhà nghiên cứu theo dõi khi dùng cho các đối tượng này và cho kết quả khả quan.
Các nhà nghiên cứu đánh giá hiệu quả của thuốc trong một nghiên cứu kéo dài 10 năm trên 937 người mắc hội chứng Lynch – một bệnh rối loạn di truyền làm tăng nguy cơ ung thư, đặc biệt là bệnh ung thư đại tràng và ung thư tử cung.
Trong số những bệnh nhân này, các nhà nghiên cứu thấy rằng khi bị thừa cân sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư đại tràng. Tuy nhiên, nguy cơ này có thể được đảo ngược với dùng liều thường xuyên thuốc aspirin
“Điều này rất quan trọng đối với những người mắc hội chứng Lynch”, tác giả nghiên cứu Sir John Burn, giáo sư di truyền học lâm sàng tại Đại học Newcastle ở Anh cho biết. “Rất nhiều người đấu tranh với nguy cơ ung thư do thừa trọng lượng và điều này cho thấy nguy cơ ung thư có thể được loại trừ bằng cách dùng một viên aspirin.”
Trong nghiên cứu này, một nhóm các nhà nghiên cứu từ hơn 43 trung tâm ở 16 quốc gia đã kiểm tra sữ cải thiện của người tham gia mắc hội chứng Lynch được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: một nửa được dùng hai viên aspirin (600 mg) mỗi ngày trong 2 năm và nửa còn lại dùng giả dược.
Những người tham gia sau đó được theo dõi trong 10 năm, lúc này tổng số 55 người đã phát triển bệnh ung thư đại tràng. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người tham gia bị béo phì có khả năng phát triển thành bệnh ung thư gấp 2,75 lần so với người tham gia có cân nặng bình thường.
Tuy nhiên, trong số những người tham gia uống 02 viên aspirin mỗi ngày, các nhà nghiên cứu thấy rằng nguy cơ ung thư đại tràng là như nhau cho dù những người tham gia có bị béo phì hay không.
Mỗi đơn vị chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng lên làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết 7%. John Mathers, giáo sư của con người về dinh dưỡng tại Đại học Newcastle, nói rằng thật đáng ngạc nhiên béo phì là một trình điều khiển của ung thư ngay cả ở những người có khuynh hướng di truyền căn bệnh này.
“Thật vậy, nguy cơ béo phì liên quan đã làm tăng hai lần nguy cơ đối với những người có hội chứng Lynch cũng như đối với dân số nói chung,” ông nói thêm.
Vì thuốc aspirin xuất hiện để ngăn chặn trước những giai đoạn sớm nhất của khối u khi nó phát triển, các nhà nghiên cứu tin rằng aspirin có thể ảnh hưởng đến các tế bào dễ trở thành ung thư.
Thuốc Aspirin được sử dụng từ rất lâu đời với tác dụng chống viêm, giảm đau và tác dụng chống cục máu đông. Ngày nay, Aspirin có trong chỉ định của nhiều trường hợp trong điều trị và phòng ngừa bệnh.
Thuốc Aspirin thường được sử dụng như một hình thức giảm đau nhức nhẹ, giảm sốt và kháng viêm.
Thuốc Aspirin cũng được chỉ định để ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông máu ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị đau tim và đột quỵ
Ước tính trên toàn thế giới có khoảng 40.000 tấn thuốc aspirin được tiêu thụ hàng năm.
“Chúng ta có thể nhìn thấy một cơ chế ở người, theo đó aspirin được khuyến khích hư hỏng di truyền tế bào gốc phải trải qua cái chết tế bào, “Giáo sư Burn cho thấy. “Điều này sẽ có tác động trên bệnh ung thư.”
Một khả năng khác là aspirin ức chế phản ứng viêm hay tăng trong bệnh béo phì. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy khi quá trình viêm tăng lên liên quan với một nguy cơ mắc bệnh ung thư cao.
Trong khi mọi người nên cố gắng duy trì một trọng lượng cân đối, GS Mathers cho thấy rằng thuốc aspirin có thể giúp bệnh nhân bị béo phì đang khó khăn tìm cách giảm cân.
Các nhà nghiên cứu tin rằng cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn nữa để khẳng định và xác định mức độ chính xác sự bảo vệ của thuốc aspirin đối với người có chỉ số BMI cao.
GS Burn cũng cho rằng bất cứ ai trước khi bắt đầu dùng aspirin thường xuyên, họ cần phải tham khảo ý kiến bác sĩ, do aspirin có thể gây ra một số tác dụng phụ cho dạ dày, như viêm, loét. Ông cho biết thêm:
“Nhưng nếu có một tiền sử gia đình có nguy cơ cao bệnh ung thư, cân nhắc giữa lợi ích và chi phí, đặc biệt là tác dụng phụ với dạ dày, chúng ta có thể sử dụng thuốc aspirin”
Các nhà nghiên cứu hiện có kế hoạch tiến hành một thử nghiệm theo dõi lớn hơn liên quan đến 3.000 người tham gia từ khắp nơi trên thế giới để kiểm tra ảnh hưởng các liều khác nhau của aspirin và xem xét với liều thấp hơn có thể đủ để bảo vệ cơ thể.
Bài viết Thuốc Aspirin có thể làm giảm nguy cơ bệnh ung thư ở những người thừa cân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Men vi sinh Úc có tốt “như lời đồn” ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Nhờ đâu Life-Space có thể trở thành thương hiệu số 1 về men vi sinh tại Úc, nhờ đâu mà loại men vi sinh này đang dần dần chiếm được niềm tin và trở thành lựa chọn của người tiêu dùng Việt Nam.
Trong tất cả những sản phẩm của Life-Space, được quan tâm nhất ở thị trường Việt Nam đó là dòng sản phẩm men vi sinh dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu chi tiết về các sản phẩm này.
Một trong những sản phẩm men vi sinh hiếm hoi được sử dụng cho trẻ sơ sinh 1 tháng tuổi, men vi sinh Úc Probiotic powder for Infant là lựa chọn thông minh cho các trẻ sơ sinh có vấn đề về chàm sữa, rối loạn tiêu hóa và nâng cao đề kháng đặc biệt cho các bé sinh mổ.
Galacto-oligosaccharides (GOS)
Đây là một preprobiotic giúp bổ sung chất xơ cho cơ thể, chất này có thể đi tới đường ruột và kích thích hệ vi sinh vật trong đường ruột phát triển tốt. Khi đi cùng với các vi sinh vật được bổ sung trong men vi sinh của Úc, chúng sẽ phát huy tác dụng giúp cân bằng hệ vi sinh đường ruột. Giúp bé tiêu hóa tốt hơn.
Polydextrose
Đây là một polymer glucose được coi là chất xơ, khi bổ sung vào cơ thể giúp cải thiện các chức năng sinh lý mà không hề có tác dụng phụ. Chất này giúp kích thích cơ thể hấp thu tốt các chất, tăng khả năng đề kháng cho cơ thể và giúp thúc đẩy hệ vi sinh đường ruột.
Lactoferrin
Đây là một kháng thể được phân lập từ sữa mẹ, chúng giúp kích thích đề kháng, giúp chống lại các vi khuẩn có hại đề phòng nhiễm khuẩn. Giúp bé khỏe mạnh, không mắc các bệnh cảm vặt.
Bifidobacterium
Đây là chủng vi khuẩn chiếm phần lớn trong hệ tiêu hóa của con người, chúng sinh sống chủ yếu ở đại tràng.
Đặc biệt ở trẻ sơ sinh, khi sử dụng sản phẩm có chứa chủng vi khuẩn này giúp kích thích các phản ứng miễn dịch giúp bé nâng cao sức đề kháng. Có tác dụng phòng chống chàm sữa ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, ngoài ra chủng vi khuẩn này còn có tác dụng phòng chống các bệnh đường tiêu hóa như tiêu chảy, táo bón,…
Lactobacillus
Chủng vi khuẩn Lactobacillus được chứng minh là có tác dụng giúp phòng và điều trị chàm ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Lactobacillus giúp cho trẻ nhỏ giảm tỷ lệ khóc quấy, giảm các triệu chứng, các bệnh trên đường tiêu hóa.
Trẻ em từ 1 đến 6 tháng tuổi đều có thể sử dụng sản phẩm men vi sinh Úc cho trẻ sơ sinh này. Đặc biệt các trẻ sơ sinh có các vấn đề như chàm sữa, sức đề kháng kém, không được bú mẹ,…
Liều dùng
1 gram mỗi ngày
Cách dùng
Sử dụng muỗm kèm theo sản phẩm, múc 1 muôi bột thêm vào lọ chứa chất lỏng ấm và lắc mạnh cho tan (không sử dụng nước sôi nóng mà sử dụng nước có nhiệt độ vừa để bé sử dụng). Sau khi pha xong cho trẻ sử dụng ngay, không để sản phẩm lâu ngoài không khí sau khi pha.
Ưu điểm
Nhược điểm
Khi pha bột để sử dụng có thể bé sẽ không uống hết, sản phẩm pha có thể không tan, lắng xuống trẻ không uống đủ liều sẽ làm giảm tác dụng của sản phẩm
Men vi sinh Úc – Probiotic power for Infant năm 2020 có giá 442.000 đồng/ hộp 60 gram
Đây chính là sản phẩm được quan tâm nhất của hãng men vi sinh Úc này đối với người tiêu dùng tại thị trường Việt Nam. Mặc dù trên thị trường Việt Nam có rất nhiều các men vi sinh dành cho bé (men vi sinh for baby) được quan tâm, tuy nhiên sản phẩm này không hề bị lép vế.
Bifidobacterium
Đây là chủng vi khuẩn chiếm phần lớn trong hệ tiêu hóa của con người, chúng sinh sống chủ yếu ở đại tràng.
Đặc biệt ở trẻ sơ sinh, khi sử dụng sản phẩm có chứa chủng vi khuẩn này giúp kích thích các phản ứng miễn dịch giúp bé nâng cao sức đề kháng. Có tác dụng phòng chống chàm sữa ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, ngoài ra chủng vi khuẩn này còn có tác dụng phòng chống các bệnh đường tiêu hóa như tiêu chảy, táo bón,…
Lactobacillus
Chủng vi khuẩn Lactobacillus được chứng minh là có tác dụng giúp phòng và điều trị chàm ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Lactobacillus giúp cho trẻ nhỏ giảm tỷ lệ khóc quấy, giảm các triệu chứng, các bệnh trên đường tiêu hóa.
Lactobacillus giúp cân bằng hệ vi sinh đường ruột đặc biệt trong trường hợp bé phải sử dụng thuốc kháng sinh.
Trẻ em từ 6 tháng tuổi đến 3 tuổi đều có thể sử dụng sản phẩm men vi sinh Úc cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (men vi sinh for baby) này. Đặc biệt các trẻ sơ sinh có các vấn đề như chàm sữa, sức đề kháng kém, không được bú mẹ, hay bé phải sử dụng thuốc kháng sinh,…
Liều dùng
Cách dùng
Ưu điểm
Nhược điểm
Men vi sinh Úc – Probiotic power for Baby năm 2020 có giá 490.000 đồng/ hộp 60 gram
Đây là một trong những sản phẩm men vi sinh cho trẻ đứng đầu tại Úc. Với số lượng lợi khuẩn vượt trội từ 10 – 21 tỷ lợi khuẩn trong 1 gram sản phẩm. Men vi sinh dành cho trẻ từ 3 – 12 tuổi được chia làm 3 dòng sản phẩm:
Men vi sinh dành cho trẻ sử dụng hàng ngày – Probiotic powder for children
Công thức chứa đến 15 loại lợi khuẩn khác nhau
Men vi sinh dành cho trẻ có vấn đề về hệ miễn dịch – Children immune support probiotic
Công thức chứa đến 12 tỷ lợi khuẩn/ 1 gram sản phẩm
Men vi sinh dành cho trẻ sử mắc hội chứng ruột kích thích – Children ibs support probiotic
Công thức chứa 21 tỷ lợi khuẩn/ 1 gram sản phẩm
Bifidobacterium
Lactobacillus
Thành phần khác
Ngoài ra trong mỗi sản phẩm sẽ bổ sung thêm các chất thiết yếu như Kẽm, Vitamin D,.. giúp trẻ tăng trưởng phát triển khỏe mạnh.
Liều dùng
Cách dùng
Ưu điểm
Nhược điểm
Ngoài những sản phẩm men vi sinh của Úc dành cho bé rất được các bậc cha mẹ quan tâm thì Life-Space còn có những sản phẩm dành cho các đối tượng khác
Life-Space đưa ra 3 dòng sản phẩm men vi sinh Úc dành cho phụ nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú, phụ nữ cần phục hồi hệ vi sinh âm đạo.
Thành phần
Sản phẩm chứa từ 6,3 đến 23 tỷ lợi khuẩn trên mỗi đơn vị sử dụng.
Công dụng
Nghiên cứu các vấn đề của phụ nữ trong thời kì mang thai và cho con bú, những sản phẩm Men vi sinh Úc hướng tới mục tiêu cân bằng hệ vi sinh đường ruột, hệ vi sinh âm đạo của phụ nữ. Đặc biệt khi sử dụng sớm và đầy đủ còn giúp phòng ngừa bệnh chàm ở trẻ sơ sinh.
Giá tham khảo sản phẩm men vi sinh Úc năm 2020
Life-Space đưa ra các dòng sản phẩm men vi sinh Úc dành cho người trưởng thành sử dụng hàng ngày, người sử dụng kháng sinh thường xuyên,…
Thành phần
Bài viết Men vi sinh Úc có tốt “như lời đồn” ? đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Thuốc Alpha Choay có an toàn không, dùng được khi mang thai không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Thuốc Alphachoay là biệt dược của hãng Sanofi Aventis. Đây là loại thuốc phổ biến được sử dụng chống phù nề.
Mỗi viên thuốc Alphachoay có chứa 21 mckatals hoạt chất Alpha chymotrypsin và tá dược vừa đủ 1 viên nén.
Thuốc Alphachoay được chỉ định điều trị phù nề sau chấn thương hay sau phẫu thuật (tổn thương mô mềm, chấn thương cấp, bong gân, dập tím mô, khối tụ máu, bâm máu, nhiễm trùng, phù nề mi mắt, chuột rút và chấn thương thể thao)
Dị ứng các thành phần của thuốc. Bệnh nhân có giảm alpha-1-chymotrypsin (bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính COPD, đặc biệt là khí phế thủng, hội chứng thận hư)
Thuốc Alphachoay sử dụng theo đường uống, uống với nhiều nước hoặc ngậm.
Sử dụng uống: Uống 2 viên/lần, 3 – 4 lần/ngày.
Sử dụng ngậm: 4 – 6 viên chia đều ra trong ngày. Để thuốc tan từ từ dưới lưỡi
Lưu ý: uống với nhiều nước để giúp men phát huy hiệu lực tốt hơn.
Cho tới hiện nay, các nhà khoa học vẫn thấy rằng thiếu bằng chứng thuyết phục về hiệu quả của thuốc Alphachoay trong nhiều trường hợp nói chung. Một số trường hợp sau, không có đủ bằng chứng khoa học để chỉ định mà cần thêm bằng chứng mới có thể đánh giá hiệu quả.
Cần có thêm bằng chứng để đánh giá hiệu quả của Chymotrypsin cho những đối tượng kể trên.
Khi sử dụng trong mắt: Chymotrypsin có thể an toàn khi được sử dụng kê đơn trong mắt và được tư vấn bởi bác sỹ chuyên khoa. Chymotrypsin có thể gây tác dụng phụ khi dùng trong mắt, trong đó có thể có làm tăng nhãn áp và một số tình trạng khác.
Khi sử dụng đường uống: Chymotrypsin có thể an toàn với đa số người dùng khi kết hợp với Trypsin và sử dụng trong ngắn hạn. Liều dùng tới 800,000 đơn vị mỗi ngày theo cách kết hợp này được sử dụng an toàn trong 10 ngày liên tiếp. Hiếm khi, chymotrypsin gây phản ứng dị ứng khi dùng đường miệng. Các triệu chứng có thể bao gồm ngứa, thở gấp, sưng môi hoặc họng, sốc, mất nhận thức.
Việc sử dụng thuốc Alphachoay cho phụ nữ có thai và cho con bú được cho rằng thiếu dữ liệu tin cậy để biết thuốc có an toàn hay không. Các chuyên gia khuyến cáo phụ nữ có thai và cho con bú không nên sử dụng Alphachoay nếu không thực sự cần thiết.
Chưa phân loại do chưa có bằng chứng nghiên cứu an toàn trên lâm sàng cho phụ nữ có thai, cho con bú.
Không nên sử dụng thuốc alpha choay cho phụ nữ có thai nếu không có bằng chứng rõ rệt về lợi ích so với nguy cơ của thuốc.
Không nên sử dụng thuốc alpha choay cho phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ.
Trên đây là một số thông tin cơ bản liên quan tới việc sử dụng thuốc Alphachoay nói chung, dùng thuốc Alphachoay cho phụ nữ có thai và cho con bú. Hi vọng sẽ giúp ích cho mọi người trong việc lựa chọn thuốc an toàn cho phụ nữ có thai và cho con bú.
Bài viết Thuốc Alpha Choay có an toàn không, dùng được khi mang thai không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết 5 loại thuốc ho bán chạy nhất trên thị trường đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Một sản phẩm của Traphaco một trong những doanh nghiệp dược phẩm dẫn đầu Việt Nam. METHORPHAN là một sản phẩm thuốc ho tốt BÁN THEO ĐƠN giúp cắt ho, long đờm và chống dị ứng dùng để điều trị triệu chứng của đường hô hấp trên.
Thành phần chính của thuốc ho Methorphan là sự kết hợp giữa các chất trị ho không gây nghiện, chất long đờm và kháng histamin: Dextromethorphan hydrobromid; Chlorpheniramin maleat; Guaifenesin với ba tác dụng: Cắt cơn ho – long đờm – chống dị ứng
Thuốc ho Methorphan được bào chế 2 dạng là chai siro 60ml và hộp 2vỉ x10 viên nén.
Thuốc ho Methorphan được chỉ định trong các trường hợp ho do nhiều nguyên nhân:
Điều đặc biệt là thuốc ho Methorphan hương vị dễ chịu phù hơp cho trẻ nhỏ và người lớn
Thuốc ho Methorphan được bán với giá 60.000đ hộp 60ml và 50.000 đồng/hộp 2 vỉ x 10 viên nén.
Thuốc ho thảo dược Prospan là thuốc ho tốt và thường đứng trong danh sách hàng đầu dành cho trẻ em có xuất xứ từ Đức. Thuốc ho thảo dược Prospan đã được tin dùng trên 102 quốc gia và được các bà mẹ Việt Nam cực kỳ ưa chuộng. Thuốc ho thảo dược Prospan cải thiện tình trạng viêm phế quản mãn tính, trị ho và viêm đường hô hấp cấp có kèm ho.
Thành phần của thuốc ho thảo dược Prospan chủ yếu từ lá cây thường xuân, chất kháng viêm, không chứa đường, rượu, hóa cồn hay phẩm màu . Không gây ảnh hưởng tới thuốc kháng sinh. Sản phẩm hoàn toàn không chứa đường, gluten và chất tạo màu nhân tạo nên rất an toàn cho trẻ nhỏ.
Hơn nữa sản phẩm thuốc ho Prospan có rất nhiều dạng dùng như Siro tinh chất, siro thường, viên ngậm và siro đóng gói cho người dùng lựa chọn phù hợp với nhu cầu sử dụng. Thuốc ho siro Prospan là dạng dùng được ưa chuộng nhất.
Thuốc ho Propan giúp làm trị ho bằng cơ chế tiêu nhày, giảm co thắt và giảm ho. Từ đó, thuốc ho Prospan được sử dụng trong các trường hợp
Đây cũng là nhược điểm của loại thuốc này vì nguồn gốc nhập khẩu nên giá thành cao hơn so với các sản phẩm Việt Nam
Thuốc ho bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ là sản phẩm thế mạnh của công ty Dược Nam Hà. Sản phẩm đã ra đời và có sự cải tiến trong thời gian tới khoảng 50 năm. Phải có lý do cho một sản phẩm như thuốc ho bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ với rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường lại trụ vững lâu đến thế.
Các thành phần chính trong bài thuốc ho Bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ gồm: Bạch Linh, Cát cánh, Mơ muối, Bạch phàn, Cam Thảo, Tỳ bà diệp, Tang bạch bì, Ma Hoàng, Bạc hà diệp, Đường kính, và các tá dược khác vừa đủ.
Với thành phần tự nhiên lại được nghiên cứu thay đổi phát triển trong nhiều năm để phù hợp với người Việt đây có thể coi là một đối thủ cực nặng ký trên bàn cân của các sản phẩm thuốc ho hiện nay.
Thuốc ho bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ được bào chế 2 dạng chính là: Viên ngậm, Siro. Hiện nay đã có thuốc ho bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ viên ngậm không đường dành cho người ăn kiêng, tiểu đường
Thuốc ho bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ có công dụng: Sát trùng họng, bổ phổi tiêu đờm… Thuốc ho bổ phế Nam Hà chỉ khái lộ được sử dụng để điều trị:
Giá bán của thuốc ho bổ phế Nam Hà viên ngậm là: 19.000 / 1 hộp 2 vỉ x 12 viên. Đối với thuốc dạng siro là: 28.000/ 1 chai x 125ml.
Thuốc ho Bảo Thanh là sản phẩm uy tín của công ty dược Hoa Linh. Đây là một sản phẩm thuốc ho tốt cũng có thành phần từ các vị thuốc dân gian có tác dụng bổ phế hoá đờm.
Thuốc ho Bảo Thanh có nguồn gối từ bài thuốc cổ phương Xuyên bối tỳ bà cao đã được ghi nhận trong Dược điển gia giảm thêm Ô mai, vỏ quýt, mật ong.
Thuốc ho Bảo Thanh có 2 dạng bào chế là Siro, viên ngậm. Hiện nay thuốc ho Bảo Thanh đã có thêm viêm ngậm không đường. Công ty Dược phẩm Hoa Linh cũng đã phát triển thêm dòng thuốc ho Bảo Thanh trẻ em chuyên biệt cho trẻ nhỏ từ 6 tháng tuổi trở lên.
Thuốc ho Bảo Thanh có công năng Trừ ho (Điều trị tận gốc căn nguyên của bệnh) và Hoá đờm (triệu chứng – phần ngọn của bệnh). Thuốc ho Bảo Thanh được sử dụng trong các trường hợp.
Thuốc ho Bảo Thanh là sản phẩm có bán ở tất cả các hiệu thuốc trong cả nước, với giá 40.000 đồng/hộp 125ml và 190.000 đồng/hộp 20 vỉ.
Thuốc ho P/H đứng trên bàn cân cùng Bảo Thanh hay Bổ phế Nam Hà đúng một 8 một 10. Sản phẩm Thuốc ho P/H đến từ công ty dược Đông Hưng – là một công ty lâu năm chuyên sản xuất thuốc dược liệu từ các bài thuốc cổ phương. Thuốc ho P/H cũng có tác dụng trừ ho, tiêu đờm, bổ phổi.
Thuốc ho P/H có thành phần từ các thảo dược tự nhiên: Cao đặc bách bộ, Bạch quả, Hạnh nhân, Cao đặc cát cánh, Ma hoàng, Trần bù, Cam thảo,…
Dạng bào chế thuốc ho P/H là dạng siro tiện dụng
Thuốc ho P/H có tác dụng bổ phổi, tiêu đờm, trị ho, đặc trị:
Tuy nhiên điểm yếu của thuốc ho P/H lại là chống chỉ định trên người tiêu đường và chưa có dạng viên ngậm
Nhược điểm của sản phẩm Thuốc ho P/H là hương vị được đánh giá là khó dùng hơn các loại thuốc ho thảo dược khác.
Sản phẩm thuốc ho có giá 30.000đ chai 100ml
Việt Nam có rất nhiều sản phẩm thuốc ho uy tín phù hợp với các nhu cầu đa dạng của người dùng. Hy vọng với những gợi ý trên bạn có thể lựa chọn được sản phẩm thuốc ho phù hợp nhất cho bản thân và gia đình.
Trên đây là 05 sản phẩm thuốc ho phổ biến trên thị trường Việt Nam được lưu hành và tin tưởng nhiều năm. Hi vọng, thông tin trên sẽ giúp bạn đọc có lựa chọn được loại thuốc ho tốt nhất cho bản thân mỗi khi bị bệnh.
Bài viết 5 loại thuốc ho bán chạy nhất trên thị trường đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Cơ chế bảo quản thực phẩm của chất phụ gia Acid Benzoic đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Acid benzoic: E210
Acid benzoic là phụ gia chống vi sinh vật thuộc nhóm phụ gia bảo quản.
Công thức hoá học: C6H5COOH
Công thức phân tử: Benzoic acid.svg
Acid benzoic tinh khiết có ở dạng tinh thể hình kim hoặc tấm nhỏ, màu trắng lụa óng ánh, dễ tan trong rượu và ête và nước nóng, ít tan trong nước lạnh (ở nhiệt độ phòng tan không quá 0.2%) tan vô hạn trong etanol. tnc = 121,70C; ts = 2490C; tthh = 1000C. Acid benzoic là một acid tương đối mạnh (pH=4,19) nên có tính kháng khuẩn cao.
Acid benzoic có nhiều trong vỏ cây anh đào, quất, mận, hồi và cây chè hoặc được điều chế theo con đường hoá học bằng cách oxi hoá toluen bằng acid nitric hoặc acid cromic hoặc bằng oxi không khí (trong pha lỏng), decacboxyl hoá anhidrit phtalic trong pha khí ở 3400C với chất xúc tác ZnO.
Acid benzoic tác dụng theo cơ chế trực tiếp. Khi các phân tử acid benzoic khuếch tán vào bên trong tế bào vi sinh vật nó sẽ tác động lên một số enzyme gây hạn chế sự trao đổi chất, làm ức chế quá trình hô hấp của tế bào, ức chế quá trình oxy hóa glucose và pyruvate, đồng thời làm tăng nhu cầu oxy trong suốt quá trình oxy hóa glucose nên có tác dụng ngăn cản sự phân đôi của vi khuẩn, ức chế sự phát triển của nấm men và nấm mốc gây hư hỏng thực phẩm. Khả năng chống nấm mốc của acid benzoic cao hơn đối với nấm men và vi khuẩn. Acid benzoic còn có khả năng tác dụng lên màng tế bào để hạn chế sự hấp thu axit amin của tế bào vi sinh vật và các túi màng.
Hoạt tính kháng khuẩn phụ thuộc rất nhiều vào pH, tác dụng bảo quản chỉ xảy ra ở môi trường acid pH = 2.5 – 3.5, khi pH càng thấp hoạt tính kháng khuẩn càng cao.
– pH = 2 – 2.5: cần hàm lượng acid benzoic 0.02 – 0.03%
– pH = 3.5 – 4: cần 0.08% tiêu diệt mốc, 0.1- 0.15% diệt nấm men, 0,15 – 0.2% diệt vi khuẩn lactic
– pH trung tính: hiệu quả giảm 300 lần so với pH =3.
Tuy nhiên, acid benzoic tan ít trong nước (1g acid benzoic tan trong 275ml nước), chính vì vậy ít được dùng để bảo quản thực phẩm.
Ngày nay con người đã tổng hợp được acid benzoic để sử dụng trong thực phẩm. Chúng được sử dụng nhiều trong các thực phẩm có tính acid cao như: sữa lên men, quả ngâm giấm, hoa quả ngâm đường,các loại sản phẩm nước trái cây, rau thanh trùng… Liệu lượng cho phép tối đa là 0.1-0.12%, thường dùng 0.05-0.075% đối với nước quả chua và 0.075-0.1% đối với nước quả ít chua.
Liều lượng gây độc ở người là 6mg/kg thể trọng. Nên sử dụng liều lượng nhỏ hơn 1g/kg thực phẩm.
Đối với con người, khi vào cơ thể tác dụng với glucocol chuyển thành acid purivic không độc, thải ra ngoài. Tuy nhiên nếu ăn nhiều acid benzoic cơ thể sẽ bị ảnh hưởng vì glucocol dùng để tổng hợp protein sẽ bị mất do tác dụng với acid benzoic để giải độc. Ngoài ra, acid benzoic có thể tác động hệ hô hấp và hệ thần kinh trung ương, gây kích ứng mắt.
Nhược điểm của acid benzoic là có thể gây thâm đen khi sử dụng để bảo quản các sản phẩm có nguồn gốc từ rau quả.
STT Nhóm thực phẩm ML
1 Sữa lên men (nguyên kem), có xử lý nhiệt sau lên men 50
2 Quả ngâm dấm, dầu, nước muối 1000
3 Hoa quả ngâm đường 1000
4 Rau, củ ngâm dấm, dầu, nước muối 2000
5 Rau thanh trùng pasteur đóng hộp, đóng chai hoặc đóng túi 1000
6 Necta quả thanh trùng pasteur đóng hộp hoặc đóng chai 2000
Bài viết Cơ chế bảo quản thực phẩm của chất phụ gia Acid Benzoic đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Đại cương về vi khuẩn học đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Dựa vào cấu tạo chúng được chia thành 2 loại: Vi sinh vật bậc cao và vi sinh vật bậc thấp. Vi sinh vật bậc cao là những tế bào có nhân thật (Eucaryota, giống tế bào động hoặc thực vật) bao gồm nấm và động vật nguyên sinh. Vi sinh vật bậc thấp trái lại, có tiền nhân (Procaryota, không có màng nhân) bao gồm vi khuẩn và tảo lam (không gây bệnh).
Virus là vi sinh vật nhỏ hơn và cấu tạo đơn sơ hơn nữa – tức không phải là tế bào mà chỉ là những hạt có chức năng sống – nhân lên (sinh sản) khi ở trong những tế bào sống. Bài này chỉ giới thiệu về vi khuẩn.
a) Độ lớn: rất nhỏ (đường kính thân thường từ 0,5 đến 1 micromet và chiều dài từ 2 đến 5 mcm); đơn vị tính độ lớn của vi khuẩn là micromet, viết tắt là mcm (10^-6 m hay 10^-3 mm).
b) Hình thể: có 3 loại hình thể chính là hình cầu (gọi là cầu khuẩn; ví dụ: tụ cầu, liên cầu, phế cầu, lậu cầu, não mô cầu…), hình ống (gọi là trực khuẩn; ví dụ E. coli, mủ xanh, than, uốn ván…) và hình cong mềm mại xoắn lò xo (gọi là xoắn khuẩn; ví dụ giang mai…). Ngoài ra, có một số hình dạng khác như: trực khuẩn ngắn gọi là cầu trực khuẩn như vi khuẩn dịch hạch hoặc trực khuẩn cong cứng hình helix như Helicobacter pylori hay hình dấu phẩy như vi khuẩn tả.
c) Tính chất bắt màu: vì vi khuẩn rất nhỏ nên phải nhuộm cho chúng có màu rực rỡ mới có thể phát hiện được hình thể của chúng dưới kính hiển vi phóng đại 1000 lần.
– Nhuộm Gram: là phương pháp nhuộm quan trọng, được áp dụng cho phần lớn các loại vi khuẩn và hỗ trợ đắc lực cho việc chẩn đoán & điều trị sớm bệnh nhiễm khuẩn. Nhuộm Gram vừa giúp ta nhận định được hình dạng của vi khuẩn, vừa phân biệt được nó là Gram-dương hay Gram-âm; từ đó ta có hướng chọn kháng sinh thích hợp để diệt vi khuẩn nghi ngờ là tác nhân gây bệnh. Ví dụ, nếu tác nhân gây bệnh nghi ngờ là vi khuẩn Gram-dương thì nên chọn những kháng sinh có phổ tác dụng chọn lọc trên Gram-dương nhiều hơn như penicilin G hoặc cephalosporin thế hệ 1; ngược lại nếu vi khuẩn gây bệnh nghi ngờ là trực khuẩn Gram-âm thì nên chọn amoxicilin hay cephalosporin thế hệ 3 hoặc nhóm aminosid. Sự khác biệt cơ bản giữa vi khuẩn Gram-dương và Gram-âm là ở cấu trúc vách của tế bào (cell wall).
– Nhuộm Ziehl-Neelsen là phương pháp nhuộm dành riêng cho các vi khuẩn kháng cồn và acid (do vách có chứa nhiều lipid và acid mycolic) như vi khuẩn lao, phong.
d) Tính chất chuyển hóa: dựa vào nhu cầu oxy tự do cho quá trình chuyển hóa, người ta chia vi khuẩn thành các loại sau:
Hình I-3. Sơ đồ cấu tạo tế bào vi khuẩn
– Bốn thành phần cấu tạo quan trọng từ ngoài vào trong của tế bào vi khuẩn là:
– Bốn thành phần cấu tạo cơ bản nêu trên cũng chính là 4 vị trí tác động của thuốc kháng sinh trên tế bào vi khuẩn.
a) Vi hệ bình thường ở người
– Khái niệm:
– Số lượng: tùy từng vị trí trên cơ thể mà số lượng và chủng loại vi sinh vật có khác nhau
b) Vai trò của vi hệ bình thường
– Những vi sinh vật luôn cư trú trên bề mặt của cơ thể là những vi sinh vật hội sinh (commensal), chúng không hẳn có lợi và cũng không hẳn có hại. Chúng sinh sản nhiều hay ít phụ thuộc vào nhiều yếu tố sinh lí khác nhau như nhiệt độ, độ ẩm và một số chất dinh dưỡng hay ức chế nhất định. Cho sự sống của cơ thể thì không quan trọng, nhưng ở một số vùng của cơ thể thì vi hệ bình thường đóng vai trò nhất định trong việc giữ thăng bằng cho sức khỏe và chức năng bình thường của cơ thể.
– Ở trong đường ruột, các thành viên của vi hệ sinh tổng hợp vitamin K và hỗ trợ cho việc hấp thu thức ăn. Trên niêm mạc và da, các vi sinh vật cư trú thường xuyên có tác dụng ngăn cản sự tồn tại và xâm lấn của vi sinh vật gây bệnh, có thể do cơ chế “cạnh tranh sinh học”.
– Ở bất kì nơi cư trú nào cũng tồn tại những vi sinh vật có thể gây bệnh (facultative pathogen) khi có cơ hội, đó là khi môi trƣờng thay đổi hoặc do bị chấn thương và chúng xâm nhập được vào mô hoặc vào máu. Ví dụ, liên cầu cư trú ở họng và đường hô hấp trên; nhưng khi một số lượng lớn vi khuẩn vào máu (do tổn thương tại chỗ) có thể gây bệnh viêm nội tâm mạc (endocarditis). Bacteroides là “cư dân” ở đại tràng thì vô hại, nhưng nếu chúng xâm nhập vào ổ bụng hoặc do chấn thương chúng cùng các vi khuẩn khác xâm nhập vào mô sẽ gây nên những nhiễm khuẩn có mủ và có thể dẫn đến nhiễm khuẩn máu.
– Như vậy, các vi sinh vật thuộc vi hệ bình thường còn được coi là những tác nhân gây bệnh cơ hội (opportunistic pathogens). Cần chú ý điều này để chọn kháng sinh phù hợp khi dùng kháng sinh dự phòng trong các phẫu thuật sạch; ví dụ: từ da, vi khuẩn đứng hàng đầu có thể gây nhiễm khuẩn sau mổ là tụ cầu vàng thì ta chọn cephalosporin thế hệ 1; từ đường tiêu hóa, thường là do các trực khuẩn Gram-âm (họ Enterobacteriaceae) thì chọn cephalosporin thế hệ 3.
– Đáng lưu ý: mỗi một điều trị bằng kháng sinh là một lần tác động vào sự cân bằng của vi hệ bình thường: vi khuẩn nhạy cảm bị tiêu diệt, dưới áp lực chọn lọc, những vi sinh vật đề kháng kháng sinh (đang sử dụng) được giữ lại, sinh sản mạnh (quá sản) thay thế những vi khuẩn đã bị tiêu diệt, làm mất cân bằng cho đại sinh vật – cơ thể người. Mất cân bằng trong vi hệ bình thường cũng có thể phát triển thành bệnh, ví dụ rối loạn tiêu hóa sau khi dùng kháng sinh phổ rộng đường uống dài ngày hoặc viêm đại tràng giả mạc do Clostridium difficile hoặc bị viêm âm đạo do nấm sau khi đặt kháng sinh kháng khuẩn dài ngày.
Kết luận: chỉ dùng thuốc kháng khuẩn khi có nhiễm khuẩn do vi khuẩn gây ra và phải giám sát diễn biến ở ngƣời bệnh trong quá trình điều trị bằng kháng sinh (không chỉ theo dõi hiệu quả diệt vi khuẩn gây bệnh mà còn cả những ảnh hưởng không mong muốn của thuốc tới cơ thể & vi hệ bình thường)
Theo Hướng dẫn sử dụng thuốc kháng sinh của Bộ y tế
Bài viết Đại cương về vi khuẩn học đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Ảnh hưởng của bệnh thận tới cách dùng thuốc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Chứng vô toan (achlorhydia) gặp ở người cao tuổi, pH của dịch vị dạ dày tăng cao và mức tiết acid của dạ dày có thể giảm đến 25 – 30% so với một thanh niên 25 tuổi. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu của thuốc có độ hòa tan phụ thuộc vào pH. Sự hấp thu thuốc ở ruột non không bị ảnh hưởng.
Bệnh thận có ảnh hưởng lớn tới phân bố, thải trừ của thuốc (ảnh minh họa)
Bệnh đường ruột gây nhiều biến đổi về sinh lý bệnh học ảnh hưởng đến độ hấp thu của thuốc. Diện tích bình thường của ruột giảm đi làm giảm hấp thu, nhu động dạ dày tăng lên, pH đường tiêu hóa thay đổi, tuần hoàn ruột – gan giảm, tính thấm của thành ruột tăng, chuyển hóa thuốc trong ruột giảm và hoạt tính của các enzym khác nhau bao gồm các esterase cũng bị giảm. Hậu quả phức tạp. Một số thuốc bị giảm hấp thu như amoxicilin, pivampicilin, nhưng hấp thu một số thuốc khác như cephalexin lại tăng. Hấp thu acid folic trong thức ăn bị giảm đến mức người bệnh có thể bị thiếu acid folic, hoặc có nguy cơ nhiễm độc tủy xương nặng nếu điều trị người bệnh bằng trimethoprim – sulfame- thoxazol.
Bệnh Crohn gây nhiều biến đổi khác nhau có thể ảnh hưởng đến hấp thu thuốc. Diện tích hấp thu của ruột giảm, thành ruột dày lên và vi khuẩn chí đường ruột bị rối loạn. Hấp thu cotrimoxazol (trimethoprim – sulfa- methoxazol) bị ảnh hưởng theo hai chiều ngược nhau: Hấp thu trimethoprim giảm, ngược lại hấp thu sulfa- methoxazol lại tăng.
Hội chứng kém hấp thu không nhất thiết là kém hấp thu thuốc. Thực tế có một số thuốc lại được hấp thu nhiều lên mặc dù người bệnh đang bị hội chứng kém hấp thu (có nghĩa là quá trình hấp thu thức ăn bị giảm).
Trong lâm sàng, thay đổi hấp thu thuốc nổi trội nhất là do nôn và ỉa chảy, do đó cần đặc biệt quan tâm khi cho người bệnh dùng thuốc.
Rối loạn chức năng thận có thể ảnh hưởng đến trị liệu bằng thuốc vì những lý do sau:
1. Dược động học của thuốc có thể bị thay đổi do giảm đào thải các thuốc mà bình thường được thải trừ hoàn toàn hoặc chủ yếu qua thận. Bệnh thận cũng có thể làm giảm gắn kết thuốc với protein và làm thay đổi hoặc giảm chuyển hóa thuốc ở gan.
2. Hiệu quả của thuốc có thể bị thay đổi.
3. Hiện trạng lâm sàng của người bệnh có thể xấu đi.
4. Tác dụng có hại của thuốc có thể tăng lên.
Thận là một trong những đường thải trừ chủ yếu của thuốc, do đó khi chức năng thận bị giảm thì việc thải trừ thuốc có thể bị ảnh hưởng. Về nguyên tắc, để điều chỉnh liều của thuốc cho người bị bệnh thận, trước hết cần xem loại thuốc đó có thải trừ hoàn toàn qua thận hay không và thuốc có độc hại như thế nào.
Đối với nhiều loại thuốc mà tác dụng phụ chỉ liên quan rất ít hoặc không liên quan đến liều dùng thì thường không phải tính liều điều chỉnh một cách thật chính xác mà chỉ cần một phác đồ giảm liều đơn giản.
Đối với các thuốc độc hại hơn, có khoảng an toàn hẹp thì khi thận suy phải điều chỉnh liều dựa vào mức lọc cầu thận.
Đối với các thuốc mà hiệu lực và độc tính có liên quan chặt chẽ với nồng độ thuốc trong huyết tương thì phác đồ điều trị khuyến cáo chỉ nên coi là một hướng dẫn ban đầu. Trong quá trình điều trị phải thăm dò liều cẩn thận, dựa trên đáp ứng lâm sàng và định lượng nồng độ thuốc trong huyết tương. Như vậy đối với người bị bệnh thận mà phải dùng những thuốc loại này thì cần được điều trị và theo dõi ở các bệnh viện chuyên khoa mà không nên điều trị ở các tuyến khác.
Tổng liều duy trì hàng ngày của mỗi thuốc có thể giảm xuống bằng cách hạ thấp liều dùng hàng ngày hoặc kéo dài khoảng cách giữa các liều. Đối với một số thuốc cần phải giảm liều duy trì nhưng lại muốn có tác dụng ngay thì tốt nhất là cho một liều “nạp” lớn hơn liều đầu duy trì. Bởi vì nếu cho đều đặn liều duy trì đã giảm thì phải mất hơn 5 lần nửa đời thải trừ nồng độ thuốc trong huyết tương mới đạt được trạng thái ổn định. Do nửa đời thải trừ của thuốc kéo dài ở người suy thận cho nên muốn đạt nồng độ thuốc ở trạng thái ổn định trong huyết tương thì phải mất nhiều thời gian hơn. Đối với nhiều loại thuốc, sau khi giảm liều phải mất nhiều ngày mới đạt được nồng độ điều trị trong huyết tương. Theo thường lệ thì liều “nạp” ở người suy thận có thể cho ngang liều ban đầu của người bệnh có chức năng thận bình thường, các liều tiếp theo phải giảm.
Để đánh giá tác động của rối loạn chức năng thận đối với việc sử dụng thuốc, chúng ta có thể tính độ thanh thải (clearance) của thuốc. Thuật ngữ thanh thải có thể biểu thị bằng phương trình đơn giản là clearance = K x Vd, trong đó K là hằng số thải trừ, Vd là thể tích phân bố. Hằng số thải trừ K được tính theo phương trình ln2 chia cho thời gian nửa đời thải trừ của thuốc (ln2 = 0,693), nửa đời của thuốc có ghi trong các chuyên luận thuốc của Dược thư quốc gia Việt Nam. Như vậy K = 0,693/t1/2 (K là hằng số thải trừ của thuốc tức là bằng tổng của nhiều hằng số thải trừ từng phần bao gồm thải trừ qua thận, qua gan, qua các con đường khác: K = k thận + k gan + k khác).
Thể tích phân bố Vd là một thông số biểu thị tỷ lệ thuốc hiện diện trong khoang trung tâm tức là trong huyết tương so với tổng lượng thuốc trong cơ thể và được giới thiệu trong mỗi chuyên luận thuốc của Dược thư quốc gia Việt Nam. Trong mỗi chuyên luận thuốc cũng có ghi tỉ lệ phần trăm (%) của tổng thải trừ được thải trừ qua thận và tỉ lệ được thải trừ qua gan trong điều kiện bình thường. Do đó người ta có thể dễ dàng tính được tác dụng của suy giảm hoàn toàn hoặc suy giảm một phần chức năng thận. Ví dụ nếu bình thường thuốc được thải trừ 50% qua thận và 50% chuyển hóa ở gan thì k thận = 0,5 x K, k gan = 0,5 x K. Trong trường hợp nếu chức năng thận bị giảm hoàn toàn thì có nghĩa là bị mất đi 50% phần đóng góp bình thường đối với tổng liều thải trừ K và thuốc phải chịu một nửa đời thải trừ chậm hơn: t1/2 = 0,693/(0,5 x K). Hằng số K bình thường có thể tính dễ dàng từ t1/2 bình thường có giới thiệu trong mỗi chuyên luận thuốc của Dược thư quốc gia Việt Nam (K = 0,693/t1/2).
Độ thanh thải (clearance) là một thông số biểu thị về thải trừ bao gồm cả thuốc đã được phân bố trong các mô. Người ta có thể sử dụng thông số này để phân tích xem trong suy thận thì việc thải trừ thuốc xảy ra như thế nào.
Nếu do bệnh thận mà chức năng thận (mức lọc cầu thận) bị giảm đi 50% thì phải cho giảm liều đối với một thuốc nào đó bình thường được thải trừ 100% qua thận. Có một sự khác biệt rất lớn giữa việc thuốc có thải trừ hoàn toàn qua thận hay không cho nên phải tính toán. Mặt khác để xác định mức độ điều chỉnh liều còn phải xem xét sự khác biệt về phân bố thuốc trong cơ thể. Nếu ta đơn giản hóa và giả sử thuốc chỉ được phân bố trong huyết tương thì thể tích phân bố Vd = 3 lít, nhưng thể tích phân bố có thể cao hơn nhiều với các thuốc có phân bố vào các mô.
Bài viết Ảnh hưởng của bệnh thận tới cách dùng thuốc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết Tác dụng phụ của vắc xin COVID-19 mRNA – phát hiện mới từ Israel đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Tại hai trung tâm ở Israel, có 6 trường hợp bị Herpes zoster phát hiện sớm sau khi được cho tiêm vắc xin Covid-19 của Pfizer ở những bệnh nhân có các bệnh lý sẵn có như viêm khớp dạng thấp từ tháng 12 năm 2020, theo Victoria Furer, MD, Đại học Tel Aviv, và các cộng sự.
Tới nay, chúng ta vẫn còn biết rất ít về mức độ an toàn cũng như hiệu quả của các loại vắc xin Covid-19 trong số những bệnh nhân bệnh thấp khớp, bởi vì những cá thể bị ức chế miễn dịch không được đưa vào trong các thử nghiệm lâm sàng ban đầu.
Theo đó, một nghiên cứu quan sát được tiến hành tại Trung tâm Y khoa Tel Aviv và Trung tâm Y khoa Carmel ở Haifa, theo dõi những tác dụng bất lợi sau khi tiêm vắc xin ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp, thoái hóa đốt sống, bệnh mô liên kết, viêm mạch, viêm cơ. Phân tích tạm thời này bao gồm 491 bệnh nhân và 99 chứng, các sự kiện được báo cáo trong suốt thời gian theo dõi 6 tuần sau khi tiêm vắc xin. Tỷ lệ mắc ở các bệnh nhân là 1.2% cao hơn so với nhóm chứng, Furer và các cộng sự báo cáo trong tạp chí Thấp khớp học.
“Chúng tôi không thấy có các ca nào bổ sung cho tới thời điểm này,” Furer đã phát biểu với MedPage Today. Tuy nhiên, “các hoạt động giám sát tiếp theo đối với tác dụng bất lợi tiềm tàng sau khi tiêm vắc xin Covid-19 ở bệnh nhân viêm khớp là rất cần thiết,” bà bổ sung.
Xem thêm nghiên cứu đầy đủ tại đây: Herpes zoster following BNT162b2 mRNA Covid-19 vaccination in patients with autoimmune inflammatory rheumatic diseases: a case series
Ca thứ nhất là một phụ nữ 44 tuổi mắc hội chứng Sjogren, đang được điều trị với Hydroxychloroquine. Cô có tiền sử mắc Thủy đậu và chưa được tiêm chủng vắc xin thủy đậu. 3 ngày sau khi tiêm mũi vắc xin đầu tiên, cô bị phát ban trên da kèm theo ngứa, đau thắt lưng và đau đầu. Các triệu chứng đều cùng hết sau 3 tuần mà không cần điều trị gì, cô được tiêm mũi vắc xin thứ 2 sau mũi thứ nhất 4 tuần.
Trường hợp thứ hai là một phụ nữ 56 tuổi với tiền sử lâu dài mắc viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính được điều trị với các thuốc sinh học khác nhau và bệnh tình giảm với thuốc Tofacitinib (Xeljanz) từ năm 2014. Cô có lịch sử bị thủy đậu và chưa được chủng ngừa.
Sau mũi tiêm vắc xin thứ nhất, cô báo cáo tình trạng khó chịu và đau đầu, sau đó 4 ngày cô thấy rất đau ở mắt trái và phần trán, cùng với đó là nổi các nốt phân bổ quanh mắt dọc dây thần kinh sọ não số 5 – herpes zoster ophthalmicus (HZO). Khám đáy mắt phát hiện thấy bệnh nhân bị viêm kết mạc xung huyết gây viêm giác mạc. Bệnh nhân được sử dụng 2 tuần thuốc acyclovir và giảm đau, các triệu chứng giảm dần và rõ rệt sau 6 tuần. Trong 2 tuần, bệnh nhân ngưng thuốc Tofacitinib nhưng không bị phát bệnh viêm khớp. Bệnh nhân từ chối tiêm mũi vắc xin thứ 2.
Trường hợp thứ 3 là một phụ nữ 59 tuổi với viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính không đáp ứng với liệu pháp điều trị sinh học và baricitinib (Olumiant), nhưng 6 tháng trước đó cô bắt đầu được điều trị với upadacitinib (Rinvoq) cùng prednisone 5mg/ngày và đáp ứng một phần với điều trị. Bệnh nhân có tiền sử bị thủy đậu và được tiêm vắc xin sống giảm độc lực vào năm 2019.
Hai ngày sau khi tiêm mũi vắc xin Covid thứ 2, bệnh nhân báo cáo đau và có nổi mụn nước ở vùng bụng dưới, bẹn, mông, đùi và được cho thuốc valacyclovir. Thuốc kháng virus được uống trong 3 ngày nhưng sau đó ngưng dùng vì tác dụng phụ các mụn nước trên da tự lành trong 6 tuần.
Thuốc upadacitinib không được sử dụng trong thời gian bị Zona và bệnh nhân trải qua tình trạng tái phát viêm khớp dạng thấp nghiêm trọng, đau đa khớp, sau đó cô phải sử dụng thuốc điều trị viêm khớp là etanercept (Enbrel)
Trường hợp thứ 4 là một phụ nữ 36 tuổi với tiền sử bị viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính kèm theo bệnh phổi kẽ. 2 năm trước bệnh nhân được điều trị với rituximab (Rituxan), mycophenolate mofetil (Cellcept), và prednisone liều 7mg/ngày. Bệnh nhân có tiền sử thủy đậu và chưa được tiêm vắc xin tái tổ hợp.
10 ngày sau khi tiêm mũi vắc xin Covid-19 đầu tiên, bệnh nhân báo cáo đau và có mụn nước ở bụng và lưng dọc vùng da T10, và được cho sử dụng acyclovir trong 7 ngày. Các mụn nước giảm hết trong vòng 6 tuần, và bệnh nhân được tiêm mũi thứ 2 sau 4 tuần kể từ khi tiêm mũi thứ nhất. Bệnh nhân không thấy tác dụng bất lợi của vắc xin nữa và không bị phát bệnh viêm khớp.
Trường hợp thứ 5 là một phụ nữ 38 tuổi bị bệnh mô liên kết không biệt hóa và hội chứng kháng phospholipid đã được điều trị với thuốc aspirin và hydroxychloroquin. Bệnh nhân đã từng bị Thủy đậu và không tiêm vắc xin tái tổ hợp.
Hai tuần sau khi tiêm mũi vắc xin thứ nhất, bệnh nhân nổi mụn nước ngứa ở ngực phải và được cho sử dụng thuốc Acyclovir 1 tuần. Triệu chứng Zona được giải quyết trong 3 tuần và bệnh nhân được tiêm mũi vắc xin Covid-19 thứ 2 theo lịch trình mà không bị tác dụng phụ hay phát bệnh trở lại.
Trường hợp thứ 6 là một phụ nữ 61 tuổi với tiền sử viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính lâu năm, đã được điều trị với thuốc Tocilizumab (Acetemra) và prednisone 5mg/ngày tại thời điểm được tiêm mũi vắc xin Covid-19 đầu tiên. Hai tuần sau đó, mụn nước xuất hiện ở vùng da T6, và bệnh nhân được cho sử dụng valacyclovir trong 1 tuần, các triệu chứng Zona hết trong 10 ngày.
Tuy nhiên, bệnh nhân đã báo cáo tình trạng viêm khớp tăng nhẹ và được tăng liều prednisone lên 7.5mg/ngày. Liều vắc xin thứ hai được tiêm không theo đúng lịch trình.
Furer và các cộng sự đã lưu ý rằng chưa có báo cáo về Herpes zoster trong các thử nghiệm lâm sàng của vắc xin COVID-19 mRNA, và do đó, với hiểu biết của nhóm nghiên cứu thì đây là những ca đầu tiên trong số các bệnh nhân với nền bệnh tự miễn, hoặc bệnh lý viêm.
Dạng bệnh tương đối nhẹ, không có bệnh nhân nào bị lan tỏa hoặc đau dây thần kinh sau khi mắc Herpes. Điều đáng lưu ý, các nhà nghiên cứu chỉ ra có một trường hợp bệnh nhân đã tiêm vắc xin tái tổ hợp 2 năm trước khi được chủng ngừa COVID-19.
“Miễn dịch trung gian tế bào đóng vai trò quan trọng trong phòng ngừa bệnh Zona tái phát. Tình trạng giảm miễn dịch qua trung gian tế bào theo tuổi tác hoặc theo thể bệnh có mối liên hệ với việc giảm tế bào T đặc hiệu với virus Varicella zoster, làm gián đoạn giám sát miễn dịch và tăng nguy cơ tái phát Zona, cùng với tuổi tác là tác nhân nguy cơ chính chiếm tới 90% trường hợp Zona,” các nhà nghiên cứu nhận xét. Tuy nhiên, các ca bệnh này nằm trong độ tuổi trung niên, trung bình 49 tuổi và có bệnh lý viêm khớp nhẹ, kéo dài.
Các tác nhân khác có thể liên quan. Ví dụ, nguy cơ Herpes zoster ở nhóm bệnh nhân thấp khớp cao hơn so với người khỏe mạnh, với tỷ lệ mắc gộp là 2.9% (95% CI 2.4-3.3). Thêm vào đó, nguy cơ trong nhóm bệnh nhân viêm khớp dạng thấp còn cao hơn gấp khoảng 2 lần so với nhóm dân cư phổ thông.
Các nguy cơ khác là mức độ hoạt động của bệnh và liều cao của prednisone được bệnh nhân sử dụng. Hơn nữa, nhóm bệnh nhân được điều trị với thuốc ức chế JAK như tofacitinib cũng có nguy cơ mắc herpes cao gấp 2 lần, trong số 6 trường hợp trên có 2 trường hợp dùng thuốc này.
COVID-19 bản thân nó cũng có mối liên hệ với các nốt Zona, điều này gợi ý rằng bệnh có thể cản trở sự hoạt hóa và chức năng của CD4+ và CD8+, điều này có thể ảnh hưởng tới khả năng miễn dịch chống lại virus.
“Các cơ chế tiềm năng có thể giải thích mối liên hệ bệnh học giữa vắc xin mRNA-COVID-19 và tái phát Zona là sự kích thích miễn dịch bẩm sinh thông qua các thụ thể giống toll (toll-like receptors),” các nhà nghiên cứu viết.
Họ cũng lưu ý rằng vắc xin có thể kích thích interferons tuýp I và cytokines làm ảnh hưởng tới khả năng biểu hiện kháng nguyên.
Một hạn chế của phân tích này là chẩn đoán Herpes zoster được thực hiện chỉ trong môi trường lâm sàng. Với một số lượng mẫu nhỏ, không thể khẳng định có thể suy đoán với các trường hợp thông thường khác.
Bài viết Tác dụng phụ của vắc xin COVID-19 mRNA – phát hiện mới từ Israel đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>Bài viết TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>TSN là một phức hệ tạo bởi lõi nano bạc plasma và lớp vỏ Tannic acid nhờ công nghệ Plasma tiên tiến của Viện nghiên cứu Plasma Việt Nam. Đây là kết quả hợp tác của Viện nghiên cứu Plasma và Innocare Pharma trong việc phát triển thương hiệu PlasmaKare ứng dụng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Các hạt phức hệ TSN được chuẩn hóa để có cấu trúc chính xác như sau:
Kích thước của lõi nano bạc được điều chỉnh chính xác trong khoảng 10-30nm và chuẩn hóa với nồng độ hạt nano bạc/ tổng lượng Bạc ~ 100%. Nhờ công nghệ Plasma cố định hạt nano và khả năng khử hóa mạnh mẽ của Tannic giúp loại bỏ gần như hoàn toàn các ion Ag+ tự do nên giúp dung dịch TSN trở nên bền vững, an toàn và hiệu quả điều trị vượt trội.
Viện công nghệ Plasma Việt Nam (ARIPT) sử dụng phương pháp Plasma để chế tạo phức hệ TSN.
Việc thay đổi dòng Plasma, nồng độ Tannic, các điện cực và pH dẫn tới hình thành những hạt TSN hoàn thiện chuẩn hóa như trên.
TSN thừa hưởng mọi tác dụng nổi tiếng của Nano bạc thông thường nhưng dạng Nano bạc Plasma biến đổi này có những đặc tính riêng biệt giúp nó trở nên vô cùng đặc biệt và tiềm năng ứng dụng mạnh mẽ trong chăm sóc sức khỏe. Các đặc điểm nổi bật của TSN và những ưu điểm vượt trội là: khả năng kháng virus, vi khuẩn vượt trội; tác dụng kháng viêm tại chỗ; khả năng làm Liền loét; độ an toàn cao hơn hẳn so với các loại nano bạc hay chất sát trùng khác.
3 tác dụng của TSN là kháng virus, kháng khuẩn, vi nấm phổ rộng; kháng viêm tại chỗ; làm liền vết loét tổn thương niêm mạc. Độ an toàn của TSN cũng được chứng minh là ưu việt hơn hẳn so với nano bạc thông thường cho nên có thể sử dụng kể cả trong các chế phẩm súc họng, miệng, hoặc các viên ngậm tương tự và tốt hơn các chế phẩm của Nhật Bản, Hoa Kỳ.
Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy TSN có khả năng kháng khuẩn phổ rộng. TSN có khả năng ức chế và tiêu diệt nhiều loại virus khác nhau, bao gồm cả loại có vỏ và không có vỏ.
Nghiên cứu được tiến hành tại Viện kiểm nghiệm An toàn thực phẩm, Bộ Y Tế Việt Nam, xác nhận kết quả TSN tại Việt Nam do Innocare Pharma phát triển có khả năng tiêu diệt hoàn toàn các loại vi khuẩn thường gây bệnh như Tụ cầu vàng, Liên cầu tan huyết nhóm A, E. Coli. Đồng thời tiêu diệt hoàn toàn virus Bacteriophage, một loại virus có cấu trúc tương tự virus EV.71, chủng gây bệnh Tay Chân Miệng cho trẻ em.
Cơ chế tác dụng của TSN trên vi khuẩn và vi nấm nhìn chung là phá vỡ cấu trúc màng tế bào, ức chế quá trình trao đổi chất, thay đổi yếu tố di truyền và vật liệu di truyền của vi khuẩn, vi nấm sau khi thâm nhập vào trong tế bào.
Đối với virus, TSN ức chế cả 4 quá trình từ bám dính, xâm nhập, nhân bản và lây lan do đó vừa ngăn chặn không để người mắc bệnh, vừa ngăn chặn lây nhiễm và tiến triển bệnh. Ngoài ra, ở kích thước 20nm và kết hợp Tannic acid, một chất có khả năng kết tụ protein trên màng virus tự nhiên, TSN có khả năng bám dính và tiêu diệt virus gây bệnh, trong đó có cả các chủng virus đang gây nhức nhối hiện nay như virus Cúm, virus Corona, Herpes virus…
Kết quả nghiên cứu gần đây cũng cho thấy TSN có khả năng tiêu diệt các loại vi khuẩn đã kháng thuốc, kháng nhiều loại kháng sinh khác nhau. Đây là một bước tiến mới, mở ra hi vọng trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng có nguy cơ kháng thuốc kháng sinh cao trong bối cảnh hiện nay.
TSN khi được pha chế cùng với công thức gia tăng hoạt tính kháng viêm tự nhiên như các loại dược liệu có tính kháng viêm hoặc các dược chất tự nhiên, cho thấy hoạt tính kháng viêm mạnh mẽ. Mặc dù, khó có thể so sánh hoạt tính kháng viêm của TSN với các hoạt chất corticoid, tuy nhiên, lợi thế của hỗn hợp kháng viêm chứa TSN nằm ở chỗ nó có thể sử dụng kéo dài, không gây tác dụng phụ, không tổn hại da, an toàn cho cả trẻ nhỏ và phụ nữ cho con bú.
Kết quả thử hoạt tính kháng viêm của hỗn hợp chứa TSN cho thấy hoạt tính kháng viêm của chế phẩm tương đương một chất kháng viêm không steroid phổ biến hiện nay là Diclofenac. Đây là một tin vui cho những ai mắc bệnh viêm da mạn tính.
So với các loại chất sát trùng khác, TSN cho thấy khả năng làm lành các vết loét vượt trội. Điều này có thể lý giải bởi tác dụng hiệp đồng giữa Tannic acid trên vỏ và lõi nano bạc ở kích thước 20nm. Khả năng liền loét của TSN được ứng dụng trong các sản phẩm giúp làm săn se niêm mạc, lành nhanh tổn thương loét, bên cạnh khả năng kháng khuẩn, chống viêm.
Cũng giống như các loại thuốc khác, Nano bạc cũng có một số những lo ngại về tác dụng bất lợi cho cơ thể, đặc biệt là các dạng uống. Tuy nhiên, đa số các y văn trên thế giới đều thấy rằng sử dụng nano bạc chuẩn hóa dạng dùng ngoài như súc họng, súc miệng, xịt mũi, nhỏ tai, bôi da, vệ sinh vùng kín… tương đối an toàn. Mặc dù vậy, TSN thể hiện độ an toàn vượt trội so với những loại khác.
Hiện nay TSN đã được đăng ký độc quyền bởi một công ty dược phẩm tại Việt Nam để phát triển các sản phẩm ứng dụng như Súc họng miệng PlasmaKare, Sản phẩm chống viêm trên da PlasmaKare No.5… và còn nhiều ứng dụng tiềm năng khác trong tương lai.
Bài viết TSN là gì, có tác dụng như thế nào, có an toàn không đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Benh.vn.
]]>