Liệu pháp kháng virút
Tại Hoa Kỳ có ba dược chất được chấp thuận sử dụng trong điều trị zona là acyclovir, valacyclovir, famciclovir.
Mục lục
Liệu pháp kháng virút đường uống khuyến nghị cho zona ở người lớn có chức năng miễn dịch bình thường với chức năng thận bình thường
Acyclovir 800mg mỗi 4 giờ (5 lần mỗi ngày) trong 7 – 10 ngày.
Famciclovir 500mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày. Valacyclovir 1000mg mỗi 8 giờ (3 lần mỗi ngày) trong 7 ngày. |
Acyclovir
Trong những nghiên cứu có đối chứng giả dược, acyclovir (800mg ngày 5 lần) rút ngắn thời gian bài xuất virút, làm ngưng sự hình thành tổn thương mới nhanh chóng hơn, đẩy nhanh tốc độ liền sẹo, và giảm độ nặng của cơn đau cấp (Huff JC, et al. 1998: Morton P, Thomson AN, 1989; McKendrich MW, 1986; Tyring S, et al. 1995).
Một tổng phân tích cho thấy acyclovir tốt hơn có ý nghĩa so với giả dược trong việc giảm thời gian kéo dài của “cơn đau có liên hệ đến zona”, được định nghĩa là sự kéo dài liên tục của đau tính từ lúc khởi bệnh đến lúc lành bệnh hẳn (Wood MJ, et al. 1996). Trong số những BN mà tuổi đời thấp nhất là 50, thời gian trung bình để khỏi cơn đau là 41 ngày so với 101 ngày ở nhóm giả dược; và tỷ lệ đau tồn tại đến 6 tháng là 15% so với 35% ở nhóm giả dược (Wood MJ, et al. 1996).
Valacyclovir
Valacyclovir, một tiền chất của acyclovir, sản sinh nồng độ acyclovir huyết thanh cao cấp gấp 3 – 5 lần nồng độ đạt được nếu dùng acyclovir đường uống. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những BN tuổi trên 50, valacyclovir (1000mg mỗi 8 giờ) và acyclovir cùng mang lại một tiến độ lành da tương đương nhau (Beutner KR, et al. 1995).
Valacyclovir rút ngắn một cách có ý nghĩa thời gian trung bình khỏi hẳn cơn đau có liên hệ đến zona (38 ngày so với 51 ngày, P = 0,001). Tỷ lệ BN còn đau vào thời điểm 6 tháng là 25,7% ở nhóm acyclovir là 19,3% ở nhóm valacyclovir (P = 0,02). Kéo dài trị liệu valacyclovir từ 7 ngày lên 14 ngày không mang lại thêm lợi ích gì.
Famciclovir
Famciclovir (500mg mỗi 8 giờ), một tiền chất của penciclovir, có kết quả tốt hơn so với giả dược trong việc làm giảm thời gian bài xuất virút, hạn chế thời gian hình thành tổn thương mới và đẩy nhanh việc lành sẹo trong một nghiên cứu có đối chứng giả dược (Tyring S và CS 1995). Trong một phân tích ở nhóm phụ của các BN tuổi trên 50 và vẫn tồn tại đau sau khi đã lành da, thời gian kéo dài của đau thần kinh sau zona trung bình là 163 ngày ở nhóm giả dược và 63 ngày ở nhóm famciclovir (P = 0,004) (Tyring S và CS 1995).
Valacyclovir và famciclovir được đem so sánh trong điều trị zona ở những BN có chức năng miễn dịch đầy đủ và được chứng minh tương đương về mặt trị liệu, xét cả về tiến độ lành da lẫn khỏi đau (Tyring SK, et al. 2000). Valacyclovir và famciclovir được ưa chuộng hơn acyclovir trong điều trị zona vì có bilan dược động học tốt hơn và chế độ dùng thuốc đơn giản hơn.
Cả ba loại thuốc đều an toàn một cách lạ thường và được dung nạp tốt. Không có chống chỉ định nào đối với việc sử dụng các thuốc này, mặc dù cần phải điều chỉnh liều dùng ở những BN bị suy thận. Hiện chưa có thuốc nào trong số các thuốc trên được cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận cho sử dụng ở phụ nữ có thai. Các thuốc kháng virút dùng bôi ngoài không có vai trò gì trong xử trí của bệnh zona.
Zona mắt
Những BN bị zona của nhánh I thần kinh sinh ba điển hình có các triệu chứng đau nửa bên mặt, và các tổn thương ở trán, vùng quanh nhãn cầu và mũi. Nếu không trị liệu kháng virút, khoảng chừng 50% những BN này sẽ có các biến chứng về mắt (như bệnh lý giác mạc, viêm thượng củng mạc, viêm mống mắt hoặc viêm giác mạc nhu mô), một số trong các biến chứng này có tiềm năng gây mù (Cobo M, et al. 1987).
Liệu pháp kháng virút đường uống làm giảm các biến chứng mắt muộn từ khoảng 50% xuống còn từ 20 – 30%. Những BN bị zona mắt nên được một bác sĩ nhãn khoa có kinh nghiệm về xử trí các bệnh lý giác mạc thăm khám và đánh giá (Liesegang TJ. 1999).
Zona ở những BN có huyết thanh HIV dương tính
Bệnh zona ở những BN HIV (+) cũng tương tự như bệnh zona ở những người có chức năng miễn dịch đầy đủ, dù rằng vài điểm khác biệt như tái phát thường xuyên và các tổn thương không điển hình đã được mô tả kỹ lưỡng (Glesby MJ, et al. 1995). Acyclovir đường uống có hiệu quả trong điều trị zona ở BN nhiễm HIV (Ganann JW, et al. 1998). Valacyclovir và famciclovir chưa được đánh giá một cách có hệ thống, mặc dù kinh nghiệm truyền khẩu ám chỉ chúng có hiệu lực.
Vì nguy cơ tái phát ở những BN này, bệnh do virút Varicella Zoster nên được điều trị cho đến khi các tổn thương lành lặn hẳn. Vài trường hợp bệnh hiếm gặp do các virút Varicella Zoster kháng acyclovir gây ra đã được báo cáo ở những BN AIDS giai đoạn muộn, buộc phải điều trị với các thuốc thay thế khác (như foscarnet) (Safrin S, et al. 1991). Sau khi điều chỉnh theo tuổi, tỷ lệ của đau dây thần kinh sau zona ở những BN HIV (+) không khác biệt đáng kể so với tỷ lệ ở khối dân số có chức năng miễn dịch đầy đủ (Glesby MJ, et al. 1995; Gnann JW, 1998)
Theo Thời Sự Y Dược Học (Phần II)