Sa sinh dục là một bệnh lý thường gặp ở người lớn tuổi khi các cơ không được khỏe mạnh để nâng đỡ cấu trúc sinh dục như lúc trẻ. Bệnh có thể xảy ra ở cả người nam và nữ, đối với nữ thì đó là chứng sa tử cung.
Đối tượng dễ mắc bệnh sa sinh dục
– Sa sinh dục trước hết là bệnh thường gặp ở người lớn tuổi. Khi về già, các cơ và dây chằng vùng chậu hông yếu đi, dãn nhão ra, các phủ tạng trong ổ bụng vẫn liên tục và thường xuyên đè lên vùng đáy chậu khiến tử cung dễ dàng tụt xuống thấp theo các khe hở tự nhiên của đáy chậu.
Phụ nữ có tuổi hoặc chị em sinh đẻ nhiều lần thường dễ mắc bệnh sa sinh dục (Ảnh minh họa)
– Với người thuộc lứa tuổi trung niên, sa sinh dục thường gặp ở những chị em đã sinh đẻ nhiều lần. Mỗi lần đẻ, đáy chậu phải dãn căng hết mức để thai nhi chui qua. Sau đẻ dù có co lại cũng không còn bền chắc như trước. Nhiều lần sinh đẻ sẽ làm cho đáy chậu không khác gì sợi dây chun bị căng dãn nhiều nên nhão ra, dễ đứt. Những trường hợp đẻ phải trải qua cuộc chuyển dạ kéo dài, đẻ khó cũng là nguyên nhân dẫn đến sa sinh dục sau này.
– Sa sinh dục cũng gặp ở các bà mẹ khi sinh đẻ bị rách tầng sinh môn nhưng không được khâu phục hồi làm cho đáy chậu có thêm điểm yếu.
– Những phụ nữ phải lao động nặng nhọc, vất vả. Ví dụ suốt ngày phải ở tư thế đứng, gánh gồng, đội, vác nặng (địu con, gùi củi) cũng dễ bị sa sinh dục vì áp lực ổ bụng lên đáy chậu luôn luôn cao. Đặc biệt những chị em sau khi sinh nở mới được ít ngày nhưng vì kế sinh nhai hoặc gia đình quá neo đơn phải trở lại làm việc nặng nhọc quá sớm cũng là điều thuận lợi cho sa sinh dục.
– Cuối cùng, sa sinh dục có khi do nguyên nhân thể tạng ở một số người không chịu được sự căng dãn nên có chị sinh đẻ không nhiều, làm việc không vất vả, thậm chí có người còn chưa xây dựng gia đình đã có hiện tượng bị sa sinh dục.
Cách phòng ngừa bệnh sa sinh dục
Trừ một số rất ít người do thể tạng yếu, mọi phụ nữ đều có thể tự phòng tránh được sa sinh dục. Hãy cùng chúng tôi nâng cao hiểu biết về vấn đề này:
Sau khi đẻ cần được nghỉ ngơi đủ thời gian (Ảnh minh họa)
– Phụ nữ nên sinh đẻ ít. Mỗi người chỉ nên có từ 1 đến 2 con, nên sinh đẻ khi còn trẻ (từ tuổi 22 – 29) là thời kỳ sung sức, các bộ phận trong cơ thể chưa bị thoái hóa, dễ phục hồi.
– Khi sinh đẻ cần được cán bộ y tế đã được đào tạo về đỡ đẻ phục vụ, không để chuyển dạ kéo dài, được khâu tầng sinh môn nếu khi đẻ bị rách.
– Chị em cần lao động vừa sức, tránh lao động nặng nhọc liên tục và phải ở tư thế đứng hoặc phải đi lại nhiều. Đặc biệt sau khi đẻ cần được nghỉ ngơi đủ thời gian cho các cơ và dây chằng vùng đáy chậu co trở lại. Không lao động sớm trước ba tháng. Nếu công việc mưu sinh là loại nặng nhọc vất vả thì chỉ nên làm việc trở lại sau đẻ 6 tháng.
– Ăn uống đầy đủ, sinh hoạt điều độ, rèn luyện thể dục thể thao thường xuyên để tăng sức dẻo dai cho cơ bắp nói chung và các cơ vùng đáy chậu (luyện những bài tập nhẹ hoặc có sự tư vấn của bác sĩ). Tránh bị táo bón lâu ngày. Không để ho mạn tính kéo dài.
Ở nước ta hiện nay, do hiểu biết của phụ nữ được nâng cao, đời sống sinh hoạt đỡ vất vả, do vậy bệnh sa sinh dục đã không còn nhiều như trước, nhất là ở thành thị. Tuy vậy ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa, sa sinh dục vẫn còn khá phổ biến ở các phụ nữ lớn tuổi.