Tên chung quốc tế: Clomipramine hydrochloride.
Loại thuốc: Thuốc chống trầm cảm.
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén 10 mg, 25 mg, 75 mg. Nang 25 mg, 50 mg, 75 mg.
Dung dịch để tiêm bắp/tĩnh mạch: 12,5 mg/ống, 25 mg/ống trong 2 ml.
Cơ chế tác dụng
Clomipramin là thuốc chống trầm cảm ba vòng, là dẫn chất của dibenzazepin, tương tự như imipramin, nhưng khác ở vị trí gắn clo trên chuỗi bên. Dược lý học của clomipramin rất phức tạp và giống các thuốc chống trầm cảm khác về nhiều mặt, nhất là giống cơ chế của các thuốc ức chế chọn lọc sự tái nhập serotonin nên chủ yếu làm tăng tác dụng dược lý của serotonin (5 – HT). Tác dụng dược lý in vivo của thuốc không đặc hiệu như tác dụng in vitro do chất chuyển hóa của nó là demethylclomipramin có tác dụng ức chế sự tái nhập noradrenalin. Do điều này và cũng do nhiều tác dụng khác nữa, clomipramin cũng có tác dụng dược lý giống như các thuốc chống trầm cảm 3 vòng khác.
Cơ chế tác dụng của clomipramin trong điều trị rối loạn trầm cảm có ám ảnh cưỡng bức chưa biết rõ. Do thuốc có tác dụng ức chế mạnh sự tái nhập serotonin ở các màng nơron trước synap có hiệu quả trong điều trị trầm cảm có ám ảnh – cưỡng bức nên người ta cho rằng clomipramin có thể điều chỉnh sự rối loạn serotonin là nguyên nhân của chứng trầm cảm có ám ảnh – cưỡng bức.
Giống như các thuốc chống trầm cảm 3 vòng khác, cơ chế chống trầm cảm chính xác của clomipramin cũng chưa được rõ. Clomipramin và chất chuyển hóa có hoạt tính của nó là desmethylclomipramin theo thứ tự tương ứng phong bế tái nhập serotonin và noradrenalin ở các màng nơron trước synap. Do đó, tác dụng của serotonin và noradrenalin có thể tăng lên. Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng sự thay đổi của các thụ thể sau synap mới là cơ chế tác dụng chính của các thuốc chống trầm cảm khi dùng dài ngày. Cũng giống như các thuốc chống trầm cảm khác, clomipramin và demethyl-clomipramin theo thời gian sẽ làm thay đổi tính nhạy cảm của các thụ thể với các monoamin là những chất được coi là có liên quan đến tác dụng chống trầm cảm của thuốc; điều này cũng giải thích tại sao tác dụng của thuốc chậm xuất hiện.
Clomipramin cũng kháng lại sự dẫn truyền thần kinh tiết dopamin. Clomipramin cũng gắn vào các thụ thể với acetylcholin và do đó có tác dụng kháng đối giao cảm rõ rệt. Kết quả là trị liệu bằng clomipramin có thể gây tác dụng phụ ở mức trung ương và ở ngoại vi do ức chế các thụ thể acetylcholin týp muscarin (ví dụ; khô miệng, mờ mắt, bí tiểu tiện, táo bón, lú lẫn). Ngoài ra, clomipramin còn gắn với các thụ thể giao cảm alpha1, alpha2, thụ thể histamin và thụ thể opiat.
Clomipramin hình như có tác dụng bình thường hóa chuyển hóa ở các vùng não có liên quan đến bệnh sinh của trầm cảm có ám ảnh (vỏ não vùng trán và nhân đuôi).
Dược động học
Clomipramin sau khi uống được hấp thu tốt qua đường tiêu hóa. Do thuốc bị chuyển hóa mạnh khi qua gan lần đầu nên khả dụng sinh học của thuốc sau khi uống bị giảm xuống, chỉ còn khoảng 50%. Khả dụng sinh học của thuốc viên và dung dịch để uống tương đương nhau. Thức ăn hình như không có ảnh hưởng đến khả dụng sinh học của thuốc viên.
Sau khi uống liều một lần 50 mg, nồng độ đỉnh huyết tương của clomipramin (khoảng 56 – 154 nanogam/ml) thường xuất hiện trong vòng 2 – 6 giờ. Giống như các thuốc chống trầm cảm 3 vòng khác, với cùng một liều nồng độ clomipramin trong huyết tương giữa các cá thể khác nhau rất nhiều, có phần do chuyển hóa của thuốc chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền.
Sau khi uống liều nhiều lần, trạng thái cân bằng ổn định về nồng độ của clomipramin trong huyết tương xuất hiện trong vòng 1 – 2 tuần. Trạng thái cân bằng ổn định về nồng độ của demethylclomipramin trong huyết tương cũng xảy ra vào khoảng thời gian đó hoặc muộn hơn. Dùng thuốc dài ngày nồng độ trong huyết tương của demethylclomipramin thường cao hơn thuốc mẹ.
Clomipramin và desmethylclomipramin nhanh chóng được phân bố rộng khắp và gắn rất nhiều (97%) vào protein của huyết tương và của mô. Thể tích phân bố của clomipramin ở người khoẻ mạnh khoảng 17 lít/kg (9 – 27 lít/kg). Thuốc đi qua các hàng rào ưa mỡ rất dễ dàng; điều này giải thích vì sao nồng độ thuốc lại cao ở các mô có ái tính mạnh với mỡ. Clomipramin và desmethylclomipramin đều đi qua hàng rào máu – não. Nửa đời trong huyết tương của clomipramin vào khoảng 20 – 30 giờ; khi dùng quá liều, thời gian này dài hơn rất nhiều. Nửa đời trong huyết tương của desmethylclomipramin dài hơn.
Clomipramin và desmethylclomipramin được hydroxyl hóa và N – oxy hóa tại gan. Clomipramin được đào thải nhiều qua nước tiểu (60%), chủ yếu dưới dạng các chất chuyển hóa tự do hoặc dạng liên hợp (glucuronid hoặc sulphat). Phần còn lại được đào thải ở phân. Nếu tiêm tĩnh mạch thì thuốc được đào thải nhanh và hoàn toàn trong vòng 5 – 10 phút.
Clomipramin không gây quen thuốc.
Chỉ định
Trầm cảm thực sự, có u sầu. Trầm cảm sâu hoặc kéo dài, không có u sầu.
Cơn hoảng sợ có kèm theo hoặc không kèm theo chứng sợ khoảng rộng.
Các triệu chứng kết hợp ở người bệnh bị cơn ngủ rũ (đặc biệt là giữ nguyên tư thế, liệt trong giấc ngủ, ảo giác lúc sắp ngủ).
Hội chứng đau không rõ nguyên nhân có biểu hiện trầm cảm, chán ăn, đau mạn tính.
Chống chỉ định
Mẫn cảm với clomipramin hay với các thuốc chống trầm cảm 3 vòng loại benzazepin.
Mẫn cảm với 1 hoặc nhiều thành phần của chế phẩm. Dùng cùng với thuốc ức chế monoamin oxidase. Người bệnh mới hồi phục sau nhồi máu cơ tim.
Trạng thái hưng cảm.
Thận trọng
Cần theo dõi người bệnh cẩn thận (về tâm thần và thân thể) khi bắt đầu trị liệu. Người bệnh có nguy cơ tự sát phải được theo dõi sát sao.
Người bệnh bị động kinh không kiểm soát được hoặc bị giảm ngưỡng gây co giật: cần được tăng cường điều trị bệnh động kinh trước và trong khi điều trị bằng clomipramin. Phải thận trọng khi ngừng dùng thuốc chống động kinh như benzodiazepin.
Cần đặc biệt chú ý và thận trọng với các người bệnh tim, phải điều trị nghẽn nhĩ – thất và loạn nhịp. Người bệnh phải được thường xuyên kiểm tra tim mạch. Cần điều chỉnh từng bước liều clomipramin.
Người bệnh cường giáp (nguy cơ ngộ độc tim).
Người bệnh tăng nhãn áp, có tiền sử bị glôcôm góc hẹp, bí tiểu tiện do tuyến tiền liệt phì đại (tác dụng kháng đối giao cảm của thuốc làm các bệnh này nặng lên), người bệnh có u tủy thượng thận (dễ xuất hiện cơn cao huyết áp).
Người bệnh bị bệnh thận hoặc bị bệnh gan nặng (cần theo dõi và định lượng enzym của gan).
<sp