Tên chung quốc tế: Cytarabine.
Loại thuốc: Chất độc tế bào, chất chống chuyển hóa, chống ung thư.
Dạng thuốc và hàm lượng
Lọ chứa 100 mg, 500 mg, 1 g hoặc 2 g bột đông khô cytarabin đã tiệt khuẩn để pha tiêm. Nước cất pha tiêm, dung dịch natri clorid 0,9% hoặc dextrose 5% được dùng pha tiêm.
Cơ chế tác dụng
Cytarabin (Ara – C), chất tương tự desoxycytosin nucleosid là một chất chống chuyển hóa. Cytarabin có tác dụng hóa trị liệu chống ung thư thông qua cơ chế đặc hiệu đối với pha S của quá trình phân chia tế bào hoạt động (không có tác dụng trên pha nghỉ) và ức chế tổng hợp DNA kèm theo tác dụng kìm hãm hoặc diệt tế bào ung thư. Thuốc có tác dụng rất ít trên RNA và quá trình tổng hợp protein. Không thấy có hiện tượng kháng chéo giữa cytarabin và các thuốc chống ung thư khác. Cytarabin liều cao được dùng để điều trị bệnh bạch cầu khi dùng liều bình thường đã có tình trạng kháng thuốc tương đối.
Dược động học
Cytarabin không có tác dụng qua đường uống, chỉ dưới 20% liều được hấp thu qua đường tiêu hóa. Sau khi gia nhập vào tế bào bệnh bạch cầu, cytarabin được phosphoryl hóa tạo thành dạng hoạt động cytarabin triphosphat, là chất ức chế DNA polymerase. Hiệu quả lâm sàng sau khi tiêm dưới da hay truyền tĩnh mạch liên tục tỏ ra tốt hơn so với cách tiêm một lượng lớn vào tĩnh mạch. Nguyên nhân có lẽ là vì phần lớn thuốc chưa kịp tác dụng lên tế bào ung thư trong máu đã bị phân bố rất nhanh ra ngoài vòng tuần hoàn ngay sau khi tiêm nhanh vào tĩnh mạch.
Cytarabin có tỷ lệ gắn protein khoảng 15%, thể tích phân bố khoảng 0,7 lít/kg thân trọng và độ thanh thải toàn phần khoảng 40 ml/phút/kg. Sau khi tiêm tĩnh mạch, cytarabin được chuyển hóa thành uracil arabinosid (Ara – U) chủ yếu dưới tác dụng của các enzym khử amin có ở gan, ruột và bạch cầu. Nửa đời ban đầu khoảng 10 phút và nửa đời thải trừ của thuốc trong huyết tương trung bình 1,5 giờ.
Trong vòng 24 giờ, sau khi tiêm tĩnh mạch, phần lớn liều thuốc được bài xuất qua nước tiểu, chủ yếu dưới dạng chất chuyển hóa không hoạt tính và khoảng 10% dưới dạng cytarabin không bị chuyển hóa.
Sau khi tiêm tĩnh mạch, cytarabin qua hàng rào máu – não không nhiều, nhưng vì hoạt tính deaminase trong dịch não tủy thấp nên nồng độ thuốc đạt được sau khi tiêm truyền tĩnh mạch chậm hoặc tiêm vào ống sống được duy trì lâu hơn trong dịch não tủy so với huyết tương (nửa đời khoảng 2 giờ sau khi tiêm ống sống). Nồng độ thuốc trong dịch não tủy đạt đến 50% nồng độ ổn định trong huyết tương sau khi tiêm truyền liên tục.
Chỉ định
Cytarabin, phối hợp với một số thuốc chống ung thư khác như thioguanin và doxorubicin hay daunorubicin, được chỉ định chủ yếu để điều trị bệnh bạch cầu cấp thể tủy ở người lớn và trẻ em. Thuốc cũng được chỉ định cho các bệnh bạch cầu cấp khác (bệnh bạch cầu cấp dòng lympho bào và giai đoạn cấp của bệnh bạch cầu mạn thể tủy). Tiêm tủy sống được dùng để phòng và điều trị bệnh bạch cầu màng não. Liều cao được chỉ định để điều trị một số trường hợp đặc biệt bệnh bạch cầu kháng thuốc với liều thông thường.
Chống chỉ định
Ðối với những người bệnh mẫn cảm với các chế phẩm chứa cytarabin.
Thận trọng
Cytarabin là một thuốc ức chế mạnh tủy xương, vì vậy, cần thận trọng đối với những người bệnh bị suy tủy từ trước do thuốc. Người bệnh dùng cytarabin phải được theo dõi chặt chẽ, đồng thời cần được kiểm tra số lượng bạch cầu và tiểu cầu hàng ngày trong thời gian điều trị. Sau khi các tế bào non đã hết ở máu ngoại vi, phải thường xuyên làm tủy đồ. Phải chuẩn bị sẵn phương tiện để xử trí ngay các tai biến có thể gây tử vong do suy tủy như nhiễm khuẩn do giảm bạch cầu hạt và rối loạn những yếu tố bảo vệ khác, như chảy máu thứ phát do giảm tiểu cầu.
Cytarabin có thể gây tăng acid uric huyết do hủy nhanh các tế bào ung thư. Phải giám sát acid uric – huyết của người bệnh.
Giảm liều đối với người bệnh suy giảm chức năng gan.
Khi điều trị liều cao, nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ ở thần kinh trung ương sẽ cao đối với những người bệnh đã điều trị từ trước bằng hóa chất qua tiêm ống sống hay đã được chiếu xạ; vì vậy không nên dùng quá liều 2 g/m2 mỗi lần, tiêm truyền từ 1 đến 3 giờ, mỗi lần cách nhau 12 giờ, cho tới 12 lần.
Cần tránh điều trị cytarabin đồng thời với truyền bạch cầu hạt vì sẽ gây suy hô hấp nặng.
Không bao giờ được dùng các yếu tố tăng trưởng như GCSF (yếu tố kích thích quần thể tạo bạch cầu hạt) trước hay trong thời gian hóa trị liệu chống ung thư vì chúng kích thích tiêu diệt các tế bào ở người bệnh. Do đó, chỉ được dùng các yếu tố tăng trưởng sau khi kết thúc dùng thuốc chống ung thư.
Thời kỳ mang thai
Cytarabin rất độc cho thai trong 3 tháng đầu thai kỳ, vì vậy được chỉ định nghiêm ngặt sau khi đã cân nhắc cẩn thận giữa lợi ích cho mẹ và nguy cơ đối với con.
Thời kỳ cho con bú
Chưa có dữ liệu tin cậy về lượng cytarabin trong sữa mẹ. Tuy nhiên do độc tính cao, không nên tiếp tục cho con bú trong thời gian đang điều trị bằng thuốc.
Tác dụng không mong muốn (ADR)
Phản ứng không mong muốn đối với cytarabin phụ thuộc vào liều lượng. Thường gặp nhất là những phản ứng phụ đường tiêu hóa. Cytarabin cũng độc đối với tủy xương và gây phản ứng phụ về huyết học tủy theo liều.
Thường gặp, ADR >1/100
Toàn thân: Sốt.
Máu: Thiếu máu, bệnh nguyên hồng cầu khổng lồ, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu.
Tiêu hóa: Biếng ăn, buồn nôn, nôn.
Da: Ban đỏ, phát ban, ngứa, viêm mạch, rụng tóc.
Gan: Những phản ứng gan hồi phục, tăng các transaminase.
Thần kinh: Liệt 2 chi sau khi tiêm vào ống sống.
Mắt: Viêm kết mạc xuất huyết hồi phục.
Tim mạch: Viêm tĩnh mạch huyết khối.
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100
Toàn thân: Ðau đầu.
Thần kinh trung ương: Viêm dây thần kinh.
Với liều cao: Hội chứng tiểu não, thay đổi nhân cách, ngủ gà và hôn mê. Co giật sau khi tiêm vào ống sống.
Cơ xương: Ðau cơ.
Tim mạch: Viêm màng ngoài tim.
Da: Viêm mô dưới da ở chỗ tiêm, loét da, mày đay.
Bộ phận khác: Nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi.
Viêm tụy cấp đã được ghi nhận ở những người bệnh đã được điều trị bằng L – asparaginase trước khi dùn