Tên chung quốc tế: Opium.
Loại thuốc: Thuốc giảm đau, thuốc ngủ (gây nghiện).
Dạng thuốc và hàm lượng
Thuốc phiện là dịch rỉ giống như sữa để khô ngoài không khí, thu được bằng cách rạch quả nang chưa chín của cây Papaver somniferum Linné thứ album De Candolle. Thuốc phiện chứa nhiều alcaloid, trong số đó có không dưới 9,5% morphin khan và những lượng nhỏ codein và papaverin.
Bột thuốc phiện là dạng thuốc phiện sấy khô ở nhiệt độ không quá 70oC và tán thành bột rất mịn. Bột thuốc phiện màu nâu nhạt hoặc vàng nâu, chứa 10 – 10,5% morphin khan.
Cao thuốc phiện là một chế phẩm cô đặc của thuốc phiện, chứa 20% morphin khan.
Có những dạng thuốc như sau: Bột thuốc phiện; bột Pantopon (hỗn hợp hydroclorid của các alcaloid toàn phần của thuốc phiện, có hàm lượng ứng với 50% morphin; cồn thuốc phiện (Laudanum); cồn paregoric (cồn long não thuốc phiện); viên nén opizoic, mỗi viên chứa 5 mg cao thuốc phiện, 1 mg tinh dầu hồi, 2 mg long não, 10 mg acid benzoic.
Cơ chế tác dụng
Morphin và thuốc opioid (thuốc dạng thuốc phiện) tác dụng chủ yếu trên hệ thần kinh trung ương và ruột thông qua các thụ thể m của opiat. Với liều cao hơn, thuốc có thể tương tác với các thụ thể khác. Tác dụng đa dạng, gồm giảm đau, ngủ lơ mơ, thay đổi tâm trạng, ức chế hô hấp, giảm co bóp dạ dày – ruột, buồn nôn, nôn và thay đổi hệ nội tiết và hệ thần kinh tự động. Hoạt tính giảm đau của những chế phẩm thuốc phiện là do hàm lượng morphin. Liều nhỏ, không gây giảm đau nhiều nhưng có tác dụng trị ỉa chảy. Hàm lượng papaverin trong hỗn hợp các alcaloid của thuốc phiện quá nhỏ nên không có hoạt tính chống co thắt nào.
Tác dụng giảm đau của morphin có tính chọn lọc, nên các cảm giác khác không bị ảnh hưởng. Thuốc có hiệu quả với đau âm ỉ liên tục hơn so với đau dữ dội cách quãng, nhưng với lượng đủ morphin có thể làm giảm đau ngay cả với cơn đau quặn thận hay mật.
Morphin ức chế hô hấp do tác dụng trực tiếp trên trung tâm hô hấp ở hành tủy. Tử vong do ngộ độc morphin hầu hết là vì ngừng hô hấp. Cơ chế ức chế hô hấp chủ yếu của morphin bao gồm giảm tính đáp ứng của trung tâm hô hấp ở hành tủy đối với CO2. Có thể làm mất ức chế hô hấp bằng cách sử dụng naloxon là chất đối kháng với thụ thể m của morphin. Morphin ức chế phản xạ ho, do tác dụng trực tiếp trên trung tâm hô hấp ở hành tủy.
Morphin làm giảm tiết acid hydrocloric dạ dày, mật, dịch tụy và dịch ruột. Liều thấp morphin làm tăng trương lực dạ dày – ruột và làm giảm co bóp dạ dày, nhu động ruột và sức đẩy của dạ dày – ruột. Vì vậy, morphin thường gây táo bón.
Codein cũng là thuốc giảm đau và ức chế hô hấp. Codein có ái lực thấp đối với các thụ thể của opiat, và tác dụng giảm đau của codein là do thuốc chuyển đổi thành morphin. Tuy nhiên, tác dụng chống ho của codein chắc là do tác động trên các thụ thể khác đặc hiệu cho codein.
Dùng chế phẩm phối hợp bột thuốc phiện với cao benladon dưới dạng thuốc đạn trực tràng để điều trị đau vừa và mạnh do co thắt niệu quản (không đỡ khi dùng thuốc giảm đau không có thuốc phiện) hoặc để dùng cho người bệnh cần tác dụng giảm đau, an thần và chống co thắt của chế phẩm này, như khi bị đau và đồng thời bị co thắt cơ trơn.
Thuốc phiện được dùng để bào chế bột thuốc phiện và cao thuốc phiện. Dùng bột thuốc phiện để bào chế cồn paregoric, cồn thuốc phiện, bột Dover (gồm bột ipeca và bột thuốc phiện, thành phần của nhiều chế phẩm chữa cảm lạnh trong có 10% ipeca, 10% bột thuốc phiện, và 80% lactose), và trong sản phẩm kết hợp thuốc đạn trực tràng.
Dùng cồn paregoric trong bào chế hợp dịch Brown (một thành phần trong chế phẩm chữa ho và long đờm, chứa 0,6 ml cồn paregoric, 0,6 ml cao lỏng cam thảo, 1,2 mg antimon kali tartrat, 0,6 ml glycerin, 0,15 ml cồn, và nước tinh khiết vừa đủ 5 ml).
Trừ thuốc đạn trực tràng chứa bột thuốc phiện, hiếm khi dùng chế phẩm thuốc phiện để giảm đau. Dùng cồn paregoric và cồn thuốc phiện chủ yếu làm thuốc chống ỉa chảy; cồn paregoric và cồn thuốc phiện cũng đã từng được dùng để điều trị triệu chứng cai nghiện ở trẻ sơ sinh đẻ ra từ người mẹ nghiện chế phẩm (thuốc) có thuốc phiện (opiat).
Dùng thuốc phiện dễ bị nghiện.
Dược động học
Sau khi uống, sự hấp thu của morphin khá dao động. Thuốc chuyển hóa nhanh sau khi uống và nồng độ huyết tương của morphin không liên hợp thấp hơn so với khi tiêm.
Sau khi tiêm các hydroclorid của alcaloid thuốc phiện, hoạt tính tương tự như hoạt tính của morphin tiêm; mức giảm đau tối đa đạt trong vòng 50 – 90 phút sau khi tiêm dưới da và 30 – 60 phút sau khi tiêm bắp. Giảm đau có thể duy trì tới 7 giờ. Khi đặt trực tràng, thuốc phiện dưới dạng viên đạn bắt đầu có tác dụng sau 15 – 30 phút và giảm đau duy trì trong 3 – 5 giờ.
Giống như những thuốc chủ vận opiat khác, các chế phẩm thuốc phiện chuyển hóa ở gan. Morphin liên hợp với acid glucuronic ở nhóm 3 – hydroxyl. Liên hợp thứ phát cũng có thể diễn ra ở nhóm 6 – hydroxyl để tạo nên 3,6 – diglucuronid.
Morphin bài tiết qua nước tiểu, chủ yếu dưới dạng morphin – 3 – glucuronid và một lượng nhỏ ở dạng morphin – 3,6 – diglucuronid và dạng thuốc không thay đổi. Xấp xỉ 75% liều morphin bài tiết qua nước tiểu trong vòng 48 giờ.
Chỉ định
Những chế phẩm thuốc phiện được dùng để giảm đau, giảm ho, điều trị triệu chứng ỉa chảy (hiện nay ít dùng).
Chống chỉ định
Ỉa chảy kết hợp với viêm ruột kết màng giả do cephalosporin, lincomycin hoặc penicilin gây nên; ỉa chảy do ngộ độc, (chống chỉ định cho tới khi chất độc được loại trừ khỏi đường tiêu hóa); suy giảm hô hấp cấp tính; đau bụng cấp tính chưa chẩn đoán (gây khó khăn cho chẩn đoán và theo dõi tiến triển bệnh).
Thận trọng
Những chế phẩm thuốc phiện đều có tiềm năng độc hại của các chất chủ vận opiat, nên khi dùng phải hết sức thận trọng.
Dùng nhắc lại nhiều lần có thể gây lệ thuộc thuốc, nhờn thuốc, và nghiện thuốc.
Một số yếu tố có thể làm thay đổi tính nhạy cảm của người bệnh đối với thuốc giảm đau có thuốc phiện, kể cả tính toàn vẹn của hàng rào máu – não. Nếu dùng morphin cho phụ nữ trước khi đẻ, trẻ sơ sinh có thể bị ức chế hô hấp cho dù thuốc không gây ức chế nhiều đối với mẹ; nửa đời thải trừ ở trẻ sơ sinh rất chậm.
Ở người lớn, thời gian giảm đau do dùng morphin tăng dần theo tuổi; tuy vậy, mức độ giảm đau đạt được với một liều nhất định thay đổi ít. Thay đổi trong những thông số dược động học chỉ giải thích một phần những nhận xét này. Người bệnh đau nặng có thể dung nạp những liều morphin lớn hơn; tuy vậy, khi đau giảm bớt, ở người bệnh, có thể biểu lộ tác.