Tên chung quốc tế: Urokinase.
Loại thuốc: Thuốc tan huyết khối.
Dạng thuốc và hàm lượng
Bột pha tiêm: 25.000 đvqt, 100.000 đvqt, 300.000 đvqt, 600.000 đvqt.
Bột để pha dịch truyền động mạch vành hoặc truyền tĩnh mạch, 250.000 đvqt (với albumin người 250 mg, manitol 25 mg, và natri clorid 50 mg) (Abbokinase).
Bột để pha dung dịch, làm thông catête, 5.000 đvqt, 9.000 đvqt (với gelatin, manitol, natri clorid, và natri dihydro phosphat khan) (Abbokinase open – Cath).
Cơ chế tác dụng
Urokinase là một protease có hai mạch được phân lập từ nuôi cấy tế bào thận người. Ngược lại với các thuốc chống đông ngăn cản lan truyền cục huyết khối, urokinase gây tan huyết khối. Urokinase tác động trực tiếp trên hệ tiêu fibrin nội sinh để chuyển plasminogen thành plasmin là enzym thủy phân protein. Plasmin phân giải fibrin, fibrinogen, và những protein trợ đông khác trong huyết tương. Plasminogen có trong cục huyết khối và cục nghẽn mạch, do đó hoạt hóa do urokinase diễn ra bên trong và cả trên bề mặt cục huyết khối và cục nghẽn mạch. Tác dụng tiêu fibrin của urokinase thường mất đi trong vòng vài giờ nhưng sự tăng thời gian thrombin, giảm nồng độ fibrinogen và plasminogen trong huyết tương và tăng nồng độ các sản phẩm phân hủy của fibrinogen và fibrin có thể vẫn tồn tại tới 12 – 24 giờ sau khi ngừng truyền tĩnh mạch. Mặc dù theo dõi labo là quan trọng để biết chắc chắn có sự hoạt hóa thoả đáng hệ tiêu fibrin (ví dụ, thời gian thrombin lớn hơn hai lần trị số kiểm chứng bình thường, 3 – 4 giờ sau khi bắt đầu liệu pháp), hình như không có sự tương quan giữa mức độ tiêu huyết khối hoặc nguy cơ biến chứng chảy máu với những kết quả đo tác dụng của urokinase trên đông máu hoặc trên hệ tiêu fibrin.
Urokinase cũng gây tác dụng chống đông do nồng độ cao của những sản phẩm thoái giáng fibrinogen và fibrin. Trong nghẽn mạch phổi, kết quả chụp X quang mạch và đo huyết động chứng minh, liệu pháp tan huyết khối, tác dụng nhanh hơn so với liệu pháp heparin. Trong huyết khối động mạch vành, phần lớn người bệnh được truyền động mạch vành urokinase, trong vòng 6 giờ sau khi xảy ra triệu chứng, có lưu thông máu trở lại ở mạch bị huyết khối.
Hiện nay sự quan tâm đến urokinase giảm đi vì thuốc này có những bất lợi của cả hai thuốc tan huyết khối khác hiện có. Giống như streptokinase, urokinase thiếu tính đặc hiệu đối với fibrin và do đó dễ gây trạng thái phân giải ở toàn cơ thể; giống như t – PA (alteplase), urokinase rất đắt tiền. Prourokinase, là urokinase có một mạch, có tính chọn lọc đối với cục đông máu do gắn với fibrin trước khi hoạt hóa.
Dược động học
Urokinase không được hấp thụ qua đường tiêu hóa. Sau khi truyền tĩnh mạch, thuốc thanh thải nhanh khỏi tuần hoàn. Trong nghiên cứu với urokinase có gắn phóng xạ, dưới 25% hoạt tính phóng xạ tiêm vào ở lại trong máu và phần lớn hoạt tính phóng xạ xuất hiện trong gan và bàng quang. Sau khi tiêm tĩnh mạch, urokinase có nửa đời huyết tương 10 – 20 phút và được chuyển hóa chủ yếu ở gan. Ở người suy giảm chức năng gan, nửa đời huyết tương có thể tăng. Một lượng nhỏ urokinase bài tiết qua nước tiểu và qua mật.
Chỉ định
Nghẽn mạch phổi.
Urokinase được chỉ định cho người lớn để: làm tiêu cục nghẽn mạch phổi rất lớn, cấp tính, gây tắc dòng máu tới một thùy hoặc nhiều phân thùy; làm tiêu cục nghẽn mạch phổi kèm theo huyết động không ổn định, nghĩa là không duy trì được huyết áp khi không có biện pháp hỗ trợ. Xác minh chẩn đoán bằng những biện pháp khách quan như chụp mạch phổi qua một tĩnh mạch ở chi trên, hoặc những phương pháp không xâm hại như chụp cắt lớp phổi.
Huyết khối động mạch vành.
Urokinase được chỉ định để làm tiêu cục huyết khối cấp tính làm tắc động mạch vành trong nhồi máu cơ tim xuyên thành tiến triển.
Ống thông (catête) tĩnh mạch bị tắc.
Urokinase được chỉ định để làm thông ống thông tĩnh mạch, kể cả ống thông tĩnh mạch trung tâm, bị tắc do máu đông hoặc fibrin (sợi huyết).
Chống chỉ định
Mới phẫu thuật trong vòng 10 ngày, kể cả sinh thiết cơ quan, chọc mạch máu không ép được, chấn thương nặng, hồi sức tim phổi.
Chảy máu đường tiêu hóa nặng trong vòng 3 tháng.
Tiền sử bệnh tăng huyết áp (huyết áp tâm trương > 110 mm Hg).
Rối loạn chảy máu hoặc chảy máu đang hoạt động.
Tai biến mạch máu não trước đây hoặc khối u nội sọ hoạt động, đặc biệt chảy máu, và/hoặc phẫu thuật não hoặc cột sống trong vòng hai tháng.
Phình mạch tách. Viêm màng ngoài tim cấp.
Thận trọng
Chỉ những bác sỹ có kinh nghiệm điều trị huyết khối mới được dùng urokinase, trong những bệnh viện có điều kiện theo dõi thời gian thrombin và những thông số lâm sàng và xét nghiệm cần thiết khác. Phải đánh giá cẩn thận tình trạng lâm sàng toàn thân và tiền sử bệnh trước khi bắt đầu liệu pháp urokinase.
Nếu đã dùng heparin, phải ngừng heparin trước khi bắt đầu liệu pháp tan huyết khối, trừ khi heparin được dùng kết hợp với urokinase để tiêm truyền động mạch vành. Thời gian thrombin hoặc thời gian thromboplastin hoạt hóa một phần phải nhỏ hơn hai lần trị số kiểm chứng bình thường trước khi bắt đầu liệu pháp tan huyết khối.
Trong khi truyền urokinase, có thể thực hiện những xét nghiệm về đông máu và/hoặc đo hoạt tính tiêu fibrin, nếu muốn. Tuy vậy, kết quả xét nghiệm không tiên đoán hiệu lực của thuốc hoặc nguy cơ chảy máu một cách đáng tin cậy. Phải thường xuyên quan sát đáp ứng lâm sàng, và phải kiểm tra những dấu hiệu quan trọng như mạch, nhiệt độ, tần số hô hấp và huyết áp, ít nhất cứ 4 giờ một lần. Không được đo huyết áp ở chi dưới để tránh bong cục huyết khối có thể có ở tĩnh mạch sâu.
Sau khi truyền tĩnh mạch urokinase, trước khi dùng lại heparin, thời gian thrombin và thời gian thromboplastin hoạt hóa một phần phải nhỏ hơn hai lần giới hạn trên của trị số bình thường. Sau khi truyền động mạch vành urokinase, phải xác định những thông số đông máu, và tiếp tục liệu pháp heparin phù hợp.
Ở người có rung nhĩ hoặc những bệnh khác có nguy cơ nghẽn mạch não, liệu pháp urokinase có thể nguy hiểm do nguy cơ chảy máu ở vùng bị nhồi máu.
Nguy cơ do liệu pháp urokinase có thể tăng và phải được cân nhắc với lợi ích có thể có của liệu pháp này ở người mới được đại phẫu thuật (trong vòng 10 ngày), người có chảy máu đường tiêu hóa nặng, người có làm sinh thiết cơ quan, sinh đẻ, hoặc trước đây chọc mạch máu không ép được và người có nguy cơ cao huyết khối tim trái (ví dụ, hẹp van hai lá với rung nhĩ), viêm màng trong tim nhiễm khuẩn, mang thai, bệnh mạch não, bệnh võng mạc chảy máu, đái tháo đường, hoặc những khiếm khuyết về cầm máu, kể cả do bệnh gan hoặc thận nặng. Phải dùng urokinase rất thận trọng trong bất kỳ bệnh nào mà chảy máu là một nguy cơ đáng kể hoặc đặc biệt khó