Lúc mang thai bất cứ bà mẹ nào cũng nghĩ rằng mình phải bồi dưỡng để thai nhi được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng. Và chính những suy nghĩ này đã khiến tỷ lệ phụ nữ béo phì khi mang thai chiếm khoảng 1/3 đến một nửa tổng số phụ nữ béo phì.
Mức độ nguy hại của bệnh béo phì khi mang thai phụ thuộc vào sự béo phì và hội chứng thai nghén. Nhiều nghiên cứu cho biết người mang thai mắc chứng béo phì thì khi sinh, có tới 75% số ca xảy ra các hội chứng kèm theo như thai nghịch, vỡ nước ối sớm, thời gian sinh kéo dài, khó đẻ, tỷ lệ đẻ mổ tăng cao, lượng máu ra nhiều, thiếu máu .vv…
Mức độ nguy hại của bệnh béo phì khi mang thai phụ thuộc vào sự béo phì và hội chứng thai nghén.
Ngoài ra, béo phì làm tăng lực cản mạch máu ngoại vi, ảnh hưởng lưu thông máu, dẫn đến bệnh huyết áp cao, phù nền, người nặng hơn sẽ làm tổn thương chức năng tim, thận gây ra các triệu chứng suy giảm chức năng tim thận như đái anbumin, hụt hơi, khó nằm ngửa vv… gọi chứng là hội chứng ngộ độc thai nghén, nếu không điều trị kịp thời sẽ xảy ra co giật, mất ý thức, nguy hiểm tính mạng cả mẹ lẫn con.
Tỷ lệ thai lớn ở phụ nữ béo phì khi mang thai cao hơn người mang thai mà cơ thể vẫn bình thường; đồng thời tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh của những người phụ nữ béo phì cũng cao hơn; sữa của các sản phụ béo phì cũng kém hơn người bình thường. Có tài liệu điều trị tỷ lệ tiết sữa một năm sau khi sinh, thấy rằng ở người béo phì là chừng 35%, còn người trọng lượng cơ thể bình thường là 65%. Tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở phụ nữ béo phì khi mang thai cũng cao hơn bình thường.
Vì những lẽ trên, để bảo đảm an toàn của cả mẹ và con, việc phòng ngừa béo phì lúc thai nghén có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Benh.vn