Giun kim (Enterobius vermicularis) là một trong những bệnh giun thường gặp ở trẻ em, tuy nhiên hiểu biết của cộng và cách phòng ngừa về bệnh giun này vẫn còn nhiều hạn chế.
Mục lục
Giun kim E. vermicularis, thường gọi tên là pinworm hay seatworm, là một loại giun tròn với sự phân bố về mặt địa lý rộng nhất so với các loại giun sán khác. Người là vật chủ duy nhất, khoảng 209 triệu người trên toàn cầu nhiễm bệnh.
Hơn 30% số trẻ em trên toàn cầu nhiễm phải loại giun kim này. Giun kim (thuộc giống Enterobius), còn được gọi là giun hình sợi chỉ (threadworm) theo tên gọi của Anh và Úc hoặc seatworm. Chúng là một trong những loại ký sinh trùng đường ruột phổ biến ở người. Tình trạng y khoa hay bệnh liên quan nhiễm trùng giun kim với tên gọi Enterobiasis hay Oxyuriasis thuộc họ Oxyuridae. Gốc từ “pinworm” ám chỉ có nghĩa là Enterobius. Tuy nhiên, theo cách dùng thuật ngữ của Anh thì “pinworm” có nghĩa là Strongyloides, trong khi đó Enterobius có nghĩa là threadworm.
Ổ chứa của ký sinh trùng giun kim
Người là vật chủ tự nhiên duy nhất của giun kim và cho đến gần đây cũng không có một ổ chứa nào xác nhận là ổ chứa của chúng. Tuy nhiên, vào năm 2004, Chan và cộng sự trình bày sự tồn tại giun kim và giun xoắn Trichinella spiralis trên các con gián ở các bệnh viện và trường học ở Hawaii. Trong khi biết gián là các con vật mang vi khuẩn và nấm sinh bệnh ở người, thì mối liên kết giữa gián với các giun sán gây bệnh vẫn chưa được minh chứng làm rõ và đây là báo cáo đầu tiên về nhiễm giun kim xảy ra tự nhiễm trên các con gián.
Năm 2005, Tatfeng và cộng sự đã phân lập được trứng giun kim từ các con gián (Diploptera punctata), cũng như trứng, bào nang, nang trứng và giun trưởng thành của một số ký sinh tùng khác đồng thời. Nhóm tác giả này bắt được 234 con gián từ các vùng và khu vực quanh nhà ở Ekpoma, châu Phi. Các con gián sau khi bắt được đem để vào trong các hộp chứa dung dịch formol saline, rồi tiếp đó rung mạnh để tách ký sinh trùng ra khỏi côn trùng gián này. Dung dịch sau đó mang đily tâm và soi dưới kính hiển vi.
Các thử nghiệm từ cả hai nghiên cứu đã có giá trị rất lớn về mặt y tế công cộng. Gián thì có khắp mọi nơi và cả hai nghiên cứu đã phát hiện giun kim trên gián là một khía cạnh có giá trị trong nghiên cứu về ổ chứa. Nếu đây là một ổ chứa bổ sung ngoài con người, thì việc phòng chống quần thể gián cũng như hạn chế về mặt phơi nhiễm của gián có thể làm giảm thiểu tối đa không chỉ cho quá trình lan rộng của giun kim mà còn nhiều bẹnh nhiễm trùng khác nữa.
Tại Việt Nam, một số điều tra trước đây cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim ở miền Bắc từ 29-43%, miền Trung là 7.5%, khu vực Tây Nguyên là 50% và vùng đồng bằng Nam bộ là 16-47%. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là đối tượng trẻ em, ở thành phố mắc cao hơn nông thôn, nữ mắc hơn nam giới. bệnh thường xảy ra ở môi trường nhà trẻ và mẫu giáo, trường mầm non; trẻ từ 1-5 tuổi nhiễm với tỷ lệ cao nhất (51,2%), trẻ từ 11 tuổi trở lên thì tỷ lệ nhiễm giảm dần. Do bệnh dễ lây lan nên có thể gặp ở những gia đình có nhiều người mắc hoặc trong cả khu nhà trẻ.
Tỷ lệ mắc bệnh, với tỷ lệ nhiễm chung trên thế giới khoảng < 5%, chẳng hạn ở Mỹ tỷ lệ này nhiễm khoảng 5-15% quần thể dân số chung; tuy nhiên, tỷ lệ này đã giảm rõ trong những năm gần đây do chương trình phòng bệnh tốt ở hầu hết các quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm lại có khả năng tăng cao hơn ở những cá nhân cùng một cơ sở làm việc, trong khu nhà trẻ, nội trú,…
Về giới tính và chủng tộc, tỷ lệ nhiễm giữa hai giới nam và nữ không có gì khác biệt. Tất cả lứa tuổi đều có nguy cơ nhiễm, nhưng lứa tuổi hay gặp nhất là 5-9 tuổi;
Gần đây, người ta cũng suy xét chính bản thân giun kim có thể đóng vài trò như một vật chủ trung gian đối với tác nhân Dientamoeba fragilis, một loại đơn bào “bí ẩn” mà vẫn sống chật vật để được công nhận như một tác nhân sinh bệnh ở người tại một số quốc gia.
Tuy nhiên, một sự gia tăng các nghiên cứu đang quy trách nhiệm nó như một tác nhân đường ruột chính thông và nó có liên quan đến các hội chứng lâm sàng như đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, buồn nôn và suy nhược cơ thể. Tuy nhiên, những điều cần biết về loại tác nhân này hiện vẫn còn đang nghiên cứu, kể cả sự lan truyền bệnh. Hầu hết các đơn bào đường ruột lây truyền qua con đường phân miệng thông qua thể nang (cyst form), thì loài D. fragilis nhìn chung được chấp nhận là không có thể nang này.
Do đó, các nghiên cứu đã quay trở lại với họ hàng gần gũi nó nhất là loài Histomonas meleagridis để so sánh. Loài đơn bào H. meleagridis sở hữu một số đặc tính có thể so sánh với loài D. fragilis và điều thú vị là nó lây truyền thông qua trứng của giun tròn Heterakis gallinae. Burrows và Swerldlow (1956) đề xuất chúng ta nên xem D. fragilis lây truyền thông qua trứng của giun kim dựa trên các phân tích trên 22 ruột thừa đã được phân lập D. fragilis.
Kết quả phân tích cho thấy rằng tỷ lệ nhiễm giun kim cao gấp 20 lần và các vật thể dạng amip nhỏ có sự tương đồng rất có ý nghĩa với nhân của D. fragilis được phát hiện trong trứng giun kim. Song, dù gì đi nữa có chăng D. fragilis còn liên quan đến các ký sinh trùng đường ruột khác, như giun đũa Ascaris lumbricoides chẳng hạn và thiếu giai đoạn thể nang vẫn chưa thể chứng minh, vì D. fragilis dã được tìm thấy với tỷ lệ cao đồng nhiễm với các vi sinh vật khác cũng lây truyền theo con đường phân miệng.
Sự lan truyền bệnh
Giun kim lây truyền từ người sang người do ăn phải hoặc nuốt phải trứng giun gia đoạn nhiễm và/ hoặc đi vào con đường hậu môn. Trứng giun có thể chịu đựng và còn sống và gây nhiễm được đến 3 tuầntrong môi trường ẩm. Chúng không chịu được nhiệt độ nhưng có sống trong nhiệt độ thấp, 2/3 số trứng giun có thể sống sau 18 giờ ở điều kiện nhiệt độ -8°C.
Tất cả các trứng đầu tiên đều đào thải ra (hoặc theo phân) và dính lại vùng gần hậu môn, chúng sẵn sàng lây nhiễm sàng bề mặt khác nếu tiếp xúc với chúng còn có khả năng nhiễm. Bề mặt trứng của chúng dễ dính khi mới đẻ ra, nên dễ dính và gây nhiễm từ vùng quanh hậu môn sang móng tay, bàn tay, quần áo và chăm nệm vào ban đêm. Từ đây, các trứng sẽ tiếp tục lây truyền sang các nguồn khác như thức ăn, thực phẩm, nước, đồ gỗ, đồ chơi trẻ, vật dụng nhà tắm và các vật dụng sinh họat khác. Các vật cưng trong nhà thường mang trứng dính vào trong các lông thú cưng, trong khi đó chúng không thực sự nhiễm. Các đám rác mang trứng có thể lây truyền qua đường không khí (airborne) và có thể phân tán lan rộng khi chúng được đổ ra khỏi bề mặt, ví dụ như khi giũ các quần áo ngủ hoặc mềm màng.
Do vậy, trứng có thể đi vào miệng, mũi thông qua con đường hít và nuốt sau đó. Mặc dù giun kim không thật sự nhân lên trong cơ thể vật chủ người, song một số ấu trùng giun kim có thể đẻ ra ở vùng niêm mạc của hậu môn và di chuyển lên đến ruột và đi vào đường tiêu hóa của vật chủ ban đầu theo một chu trình, gọi là nhiễm trùng ngược dòng (retroinfection). Khi nhiễm trùng ngược dòng xảy ra, nó có thể dẫn đến một tải lượng giun lớn nhiễm nặng và đảm bảo cho quá trình nhiễm giun kim xảy ra tiếp tục hoặc không gây nên bất kỳ triệu chứng lâm sàng có ý nghĩa nào.
Mặc dù có giới hạn, tuổi thọ của mỗi giun kim trung bình là 13 tuần, chu trình tự nhiễm (autoinfection), hoặc nhiễm thông qua con đường hậu môn-miệng hoặc thông qua nhiễm trùng ngược dòng, nên thường là phải điều trị lặp lại với khoảng cách mỗi 2 tuần để loại bỏ nhiễm trùng hoàn toàn.
Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuyếch tán ở mọi nơi (chăn, chiếu, ghế ngồi, móng tay, đủng quần, khăn tay,…). Loài ký sinh trùng giun kim có tên khoa học là Enterobius vermicularis hoặc thường gọi theo một từ đồng nghĩa thường gọi là pinworm ký sinh trong cơ thể người gây nên. Về sinh lý bệnh và chu kỳ sinh bệnh diễn ra như sau: E. vermicularis là một ký sinh trùng bắt buộc, người là vật chủ tự nhiên duy nhất, đường lây truyền là phân – miệng, thông qua các vật dụng quần áo, đồ chơi và đó cũng chính là các phương thức lây truyền thông thường nhất.
Sau khi nuốt phải, trứng thường đẻ trứng trong tá tràng trong vòng 6 giờ. Giun trưởng thành sau đó khoảng chừng 2 tuần và có tuổi thọ khoảng 2 tháng. Giun trưởng thành thường ký sinh ở đoạn cuối của hổng tràng, hồi tràng, túi ruột thừa và đoạn đầu của đại tràng lên. Những con giun sống tự do trong thành ruột non và hiện nay có rất ít bằng chứng chứng minh có sự xâm nhập của của giun này vào các mô bình thường hoặc mô lành của cơ thể dưới những điều kiện bình thường.
Giun cái di chuyển đến trực tràng, sau khi giao phối và nếu không bị tống ra theo phân thì sẽ tiếp tục di chuyển đến vùng đáy chậu (thường vào ban đêm), nơi đó chúng có thể đào thải ra khoảng 11.000-16.000 trứng. Trứng trưởng thành có khả năng gây nhiễm trong vòng 6-8 giờ và dưới điều kiện thuận lợi, tối ưu, khả năng gây nhiễm vẫn duy trì trong môi trường kéo dài đến 3 tuần.Vì thời gian ủ bệnh ngắn cho đến khi trứng gây nhiễm, các trứng này đào thải và nếu vô ý bằng cách nào đó chúng di chuyển và nằm dưới kẻ móng tay, từ đó dễ dàng đưa vào miệng hình thành phương thức lan truyền bệnh.
Chu kỳ sinh học và phát triển
Chu kỳ của giun kim E. vermicularis cho thấy có giai đoạn bên trong và bên ngoài cơ thể người. Toàn bộ chu kỳ từ khi trứng đến khi trưởng thành xảy ra trong hệ tiêu hóa của vật chủ duy nhất là người, kéo dài khoảng 2-4 tuần hoặc khoảng 4-8 tuần. Chu kỳ bắt đầu với các trứng bị nuốt vào đường tiêu hóa, tiếp đó trứng nở ra trong tá tràng (phần đầu của ruột non).
Ấu trùng giun kim đẻ ra phát triển nhanh đến kích thước 140-150μm và di chuyển qua ruột non đến đại tràng. Trong suốt quá trình di chuyển, chúng lột xác hay rụng lông hai lần và trở nên con trưởng thành. Con cái sống sót đến 5-13 tuần và con đực khoảng 7 tuần.
Giun kim cái và đực giao phối với nhau bên trong hồi tràng – đoạn cuối ruột non, sau đó giun đực thường chết đi và đào thải qua phân. Các giun kim cái có chửa (gravid female pinworms) định vị tại hồi tràng và manh tràng, ruột thừa và đoạn đại tràng lên, ở đó chúng dính vào nhau vào trong phần niêm mạc và các thành phần trong đại tràng.
Hầu hết toàn bộ cơ thể con giun cái có chửa chứa đầy trứng. Ước tính số trứng trong con giun cái khi có mang khaongr chừng 11.000-16.000 trứng. Tiến trình đẻ trứng bắt đầu khoảng 5 tuần kể từ khi trứng được giun kim nuốt vào. Các con giun cái có chửa di chuyển qua đại tràng đến trực tràng với tốc độ 12-14cm mỗi giờ.
Chúng sẽ tiếp tục trồi ra ngoài hậu môn và và di chuyển đến phần rìa của hậu môn, con giun kim cái đẻ trứng, hoặc là (i) thông qua cơn nhu động và tống xuất trứng ra ngoài, (ii) hoặc là chết đi và phân hủy, hoặc (iii) vỡ cơ thể giun do trầy xước vật chủ giữa giun và vật chủ. Sau khi đẻ trứng, con cái trở nên mờ đục và chết. Lý do con cái trồi ra ngoài hậu môn là để lấy oxy cần thiết cho sự trưởng thành của trứng giun kim.
Triệu chứng lâm sàng
Nhiễm trùng giun kim thường lành tính và 1/3 số người nhiễm giun kim không biểu hiện triệu chứng. Các triệu chứng điển hình và thường gặp khi nhiễm giun kim là ngứa hậu môn hoặc vùng da quanh hậu môn và ngứa thường tăng lên và khó chịu vào ban đêm. Điều này xảy ra vì ban giun cái di chuyển đến hậu môn để đẻ trứng (đặc biệt chúng thường đưa vào nếp nhăm của vùng rìa quanh hậu môn để thải trứng) và việc gãi ngứa sẽ dẫn đến nhiễm vào ngón tay và sau đó lan rộng nhiễm trùng sang người khác. Việc gãi trầy xước có thể tổn thương da và nhiễm trùng vi khuẩn thứ phát. Các triệu chứng thứ phát như dẫn đến rối loạn giấc ngủ do ngứa, hay chán ăn và hay bị kích thích.
Tuy nhiên, nhiễm giun kim không phải luôn luôn vô hại, vì chúng có thể dẫn đến viêm ruột thừa (với tỷ lệ có thể cao đến 2,39% số ta theo ghi nhận tại các quốc gia đang phát triển), tắc ruột, thủng ruột, viêm đại tràng kiểu lâm sàng như bệnh Crohn’s và viêm hồi-đại tràng tăng bạch cầu ái toan.
Nhiễm trùng ngoài ruột cũng có thể xảy ra và thường xảy ra trên các cơ quan sinh dục nữ và nhiễm trùng ở các vị trí khác cũng óc thể xảy ra, như cơ quan phổi, vú, gan và lách. Các nhiễm trùng ngoài đường tiêu hóa có thể dẫn đến ngứa vùng âm hộ âm đạo, nhiễm trùng đường tiết niệu, xuất huyết sau kinh nguyệt, viêm tinh hoàn, tạo khối giả ở vùng chậu, viêm mạn tính tuyến nước bọt, viêm vòi trứng một bên. Khi trứng và ký sinh trùng chết lắng đọng tại các vị trí lạc chỗ cũng có thể hình thành dạng u hạt (granuloma) hoặc áp xe.
Về lý thuyết, cơ chế nhiễm trùng của nhiễm trùng bộ phận sinh dục nữ là con giun cái có chửa di chuyển từ vùng quanh hậu môn đến vùng âm đạo, ở đó nó có thể đi hướng lên trên thông qua vòi fallop đến vùng phúc mạc. Giả thuyết này được ủng hộ chỉ có giun cái và trứng nhìn thấy được trên các mẫu phết từ cổ tử cung cũng như các u hạt trong khoang phúc mạc. Một giả thuyết khác đặt ra rằng giun kim có thể đi qua vách thành ruột còn nguyên vẹn để hình thành nên các u hạt trong khoang chậu và phúc mạc.
Vậy làm thế nào để phát hiện triệu chứng và chẩn đoán bệnh?
– Hỏi bệnh và khai thác bệnh sử:
Những bệnh nhân thường nhiễm bệnh không triệu chứng, giun có thể được phát hiện một cách tình cờ khi tìm thấy chúng ở vùng da vùng rìa quanh hậu môn. Nếu bệnh nhân có triệu chứng thì ngứa hậu môn và vùng âm hộ thường là triệu chứng hay gặp nhất. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bệnh nhân có nhiều giun kim nhưng lại không hề ngứa (qua sàng lọc bệnh nhi với cỡ mẫu lớn);
Cha mẹ để ý thấy con cái mình thường không ngủ ngon giấc, gãi vùng mông và hậu môn,…điều này gặp ở nhiều bệnh nhân, nhất là trong lứa tuổi đi nhà trẻ;
– Khám thực thể và xét nghiệm:
Các bệnh nhân thường có sự trầy xướt hoặc tạo vệt đỏ quanh hậu môn, vùng quanh âm hộ hoặc cả hai nhưng cũng có nhiễm trùng đôi khi tải lượng giun lớn, chúng ta lại không phát hiện dấu hiệu ngứa này;
Quan sát bằng mắt thường thấy giun kim là một trong những bằng chứng đáng tin cậy, hay chuẩn vàng và cũng là cơ sở để tiến hành điều trị. Giun có thể phát hiện trong phân hoặc vùng quanh hậu môn trước khi tắm buổi sáng sau một đêm ngủ dậy;
Ngoại lệ, nếu con giun cái đẻ trứng có thể di chuyển lạc chỗ đến cơ quan sinh dục nữ và gây viêm âm đạo, âm hộ (do hậu môn và bộ phận sinh dục ở nữ gần nhau, điều này ít khi gặp ở nam giới). Hoặc đôi khi tình cờ phát hiện tổn thương dạng u hạt hoại tử hoặc qua phẩu tích thấy giun nằm bên trong, đôi lúc gặp cả trứng, ấu trùng trong vòi trứng và khoang phúc mac, điều này cho thấy giun có hướng di chuyển lên bộ phận sinh dục lạc chỗ và gây nên các triệu chứng, biến chứng không mong đợi;
Phát hiện giun kim ở các nếp nhăn quanh hậu môn, xem đại thể phân cũng có thể gặp giun kim bám toàn màu trắng ở rìa khuôn phân;
Thu thập trứng giun kim bằng phương pháp dán giấy bóng kính vào hậu môn vào buổi sáng sớm trước khi tắm hoặc rửa hậu môn, sau đó soi dưới kính hiển vi sẽ thấy trứng giun kim khá điển hình. Giấy bóng kinh này thường dán vào ban đêm hoặc sáng sớm trước khi cho bệnh nhân rửa hậu môn, thông thường chúng ta lấy 3 mẫu 3 ngày liếp tiếp mới phát hiện được hoặc trước khi loại trừ nếu kết luận âm tính. Trong quá trình chuẩn bị bệnh phẩm, nên pha loãng dung dịch sodium hydroxide hoặc toluene vào lam kính.
Hiếm khi việc chẩn đoán bệnh giun kim lại đòi hỏi can thiệp các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hay các thủ thuật cận lâm sàng phức tạp khác.
Xét nghiệm chẩn đoán
Phương tiện chẩn đoán nhiễm trùng giun kim phổ biến và dùng thường quy nhất là Scotch tape test hay Cellophane tape test. Trong đó, các xét nghiệm viên dùng một mảnh cellophane sạch dán vào vùng quanh hậu môn vào buổi sáng sớm trước khi tắm và đại tiện. Tiếp sau đó quan sát dưới kính hiển vi để xác định có hay không sự hiện diện trứng giun kim. Các trứng giun kim này cũng có thể nhuộm xanh lactophenol cotton blue, để giúp phát hiện và xác định định loại dễ dàng và rõ ràng hơn. Độ nhạy của test khi thực hiện ba mẫu vào 3 buổi sáng liên tiếp là 90%.
Xét nghiệm dùng que phết vào hậu môn (anal swabs hay swube tubes) sử dụng một dụng cụ códạng hình mái chéo có đính chất dính thay thế khi không có test áp cellophane trên.
Các con giun kim trưởng thành đôi khi có thể nhìn thấy trong phân đại tiện ra hoặc trên giấy vệ sinh, mặc dù trứng và ấu trùng hiếm khi nhìn thấy trong phân và nước tiểu. Nhiễm trùng ngoài ruột có thể đòi hỏi một số xét nghiệm chẩn đoán xâm nhập. Chẩn đoán thông qua soi đại tràng xác định đã được báo cáo bởi tác giả Petro và cộng sự (2005) và nhiễm trùng đường sinh dục nữ thường cần đến phẩu tích nhỏ và lấy bỏ các tổn thương u hạt để kết luận chẩn đoán. Chẩn đoán trước phảu thuật tìm ký sinh trùng qua mẫu bệnh phẩm, que bệnh phẩm phết ở cổ tử cung và mẫu bệnh phẩm lấy từ âm đạo cũng có thể nhưng khó hơn.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh giun kim biểu hiện triệu chứng tương đối điển hình nên cũng dễ phát hiện, song có một số trường hợp (dù không nhiều) đã biểu hiện triệu chứng như một số bệnh lý nội, ngoại khoa khác như viêm ruột thừa, nhiễm giun đũa, viêm cổ tử cung, viêm da tiếp xúc, hăm kẻ hậu môn, nhiễm đơn bào Giardia spp., viêm vùng hố chậu, viêm âm hộ âm đạo, viêm tiết niệu sinh dục, viêm da ở những cá nhân làm việc trong môi trường kém vệ sinh, hoặc nhiễm sán dải chó Dipylidium caninum.
Tiên lượng
Nhiễm trùng giun kim không gây nên tỷ lệ bệnh tật đáng kể trừ phi nhiễm trùng lạc chỗ xảy ra. Biến chứng hiếm này xảy ra trên các cá nhân có tình trạng suy giảm miễn dịch cũng như ảnh hưởng tính toàn vẹn của thành ruột như bệnh viêm đại tràng kích thích. Giun di chuyển đến thành ruột và được tìm thấy các vị trí ngoài đại tràng.
Bệnh giun kim lạc chỗ đã được mô tả tại các vị trí khác nhau, bao gồm cả vùng âm đạo, vòi trứng, vùng bẹn, vùng chậu sinh dục, phúc mạc chậu, mạc nối, gan, tuyến nước bọt, hệ sinh dục nam và kể cả phổi. Chúng cũng có liên quan đến viêm ruột thừa cấp và viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan.
Nhiễm trùng giun kim rất hiếm khi tử vong, tỷ lệ mắc và tử vong từ nhiễm trùng thứ phát. Nhiễm trùng giun kim có liên quan tăng nguy cơ đến 28-68% viêm ruột thừa qua một nghiên cứu. Tiêu diệt giun kim trên các nhóm người tập trung trong một gia đình là khó? Tiếp tục xét nghiệm theo dõi là việc cần thiết. Liệu pháp điều trị sẽ hiệu quả hơn nếu gia đình trẻ và bạn cùng lớp của chúng cùng được điều trị đồng thời.
Thái độ xử trí ca bệnh và điều trị?
– Chăm sóc y tế:
Nhiều gia đình có bệnh nhân gặp phải các lời khuyên đôi khi chưa hợp lý từ thầy thuốc nhi khoa, truyền nhiễm hoặc ký sinh trùng và cấp cứu hồi sức khi tư vấn về vấn đề giun kim. Trong quá trình kê đơn thuốc, đưa ra lời khuyên và hướng dẫn điều trị là khâu rất quan trọng. Ngoài ra, hướng dẫn chăm sóc, rửa tay thường xuyên cho tất cả mọi người là biện pháp hiệu quả ngăn ngừa lan truyền bệnh;
Vì nhiễm ký sinh trùng giun kim đôi khi không biểu hiện triệu chứng của một số thành viên khác trong gia đình, nên chúng ta phải điều trị đồng thời tất cả thành viên đó là một cách phòng và điều trị hợp lý nhất, tuy nhiên chưa áp dụng phổ cập và có nên không là vấn đề cần bàn?. Gia đình cũng nên thông báo cho các thành viên đó điều trị lặp lại vì khả năng tái nhiễm là có thể. Xử lý giảm triệu chứng ngứa có thể dùng một số kem thoa chống ngứa tại vùng xác định nhiễm, đặc biệt vùng da quanh hậu môn.
– Danh mục thuốc điều trị giun kim:
Con đường tác động các thuốc về mặt sinh hóa học khác nhau trong cơ thể con người, do đó độc tính trực tiếp lên ký sinh trùng, giai đoạn trứng, hay ấu trùng cũng khác nhau tùy mức độ. Cơ chế tác động khác nhau theo loại thuốc chống giun sán. Mebendazole hoặc albendazole được xem là thuốc lựa chọn khuyên dùng điều trị cho bệnh giun kim. Liều thứ 2 được chỉ định sau liều đầu khoảng 2 tuần giúp ngăn ngừa tái nhiễm giun kim.
– Nguyên tắc điều trị:
Điều trị phải kết hợp chặt chẽ với phòng bệnh để tránh tái nhiễm.
Với các khu tập thể, đông đúc người ở mà nhiễm giun kim cao, cần điều trị hàng loạt và điều trị lặp lại để tránh tái nhiễm. Một số tác giả có ý kiến cho rằng vì giun kim có tuổi thọ ngắn so với một số giun khác (1,5-2 tháng trong ruột) nên nếu điều trị chống lại chu trình tự nhiễm của giun kim tốt, một cách tích cực thì có thể không cần dùng thuốc, bệnh cũng tự khỏi.
Đối với bệnh giun kim, mebendazole có thể được dùng với liều duy nhất 100 mg đường uống, điều trị lặp lại sau đó 2 tuần để ngừa tái nhiễm và người ta có thể cho rằng liệu pháp như thế sẽ là an toàn và hiệu quả nhất, với hiệu lực chữa khỏi lên đến 96%. Thuốc tác dụng vào đích của các giun trưởng thành, ngăn chặn tiêu thụ glucose và gây cho giun mất nặng lượng chết. Albendazole cũng có thể dùng với liều 100 mg đối với các bệnh nhi dưới 2 tuổi, hoặc liều 400 mg đối với các bệnh nhân lớn hơn. Như đối với thuốc mebendazole, khi dùng thuốc này cần điều trị lặp lại trong vòng 2 tuần sau đó. Albendazole cũng tác động vào đích giun kim trưởng thành, thông qua giảm sinh ATP và gây giáng hóa mất năng lượng, bất động và cuối cùng gây cho giun chết.
Pyrantel pamoate cũng là một lựa chọn và liều sử dụng là 11mg/kg, không vượt quá 1g. Tuy nhiên, nó có thể gây một số tác dụng ngoại ý như khó chịu trong dạ dày ruột, độc tính thần kinh, tăng men gan thoáng qua. Pyrantel pamoate đóng vai trò như một chế phẩm ngăn khử cực trong hoạt động thần kinh cơ của giun, ức chế men cholinesterases và dẫn đến liệt cứng (spastic paralysis) cơ giun và gây chết giun trưởng thành.
Các thuốc khác đã được dùng để điều trị giun kim gồm có loại thuốc piperazine citrate, pyrvinium panoate, oxantel, oxantel-pyrantel, fenbendazole và nitrazoxamide.
Đối với nhiễm giun kim ở đường tiết niệu sinh dục, liều mebendazole duy nhất có thể không đủ và thường được bổ sung thêm loại thuốc ivermectin để đạt được hiệu quả tối ưu. Các chế phẩm thuốc diệt côn trùng thoa ngoài như malathion hay ivermectin cũng có thể dùng trên da của khu vực quanh hậu môn để loại bỏ trứng giun kim.
Trong tất cả ca nhiễm trùng giun kim, điều trị tất cả thành viên trong hộ gia đình là việc khuyến cáo cần thiết, dù có hay không có triệu chứng vì thực tế sự lây nhiễm giun kim từ các thành viên trong cùng gia đình dễ dàng xảy ra. Khâu rửa tay cẩn thận là khuyến cáo cần thiết sau khi đi tiểu hoặc đại tiện, hoặc sau khi thay tả lót và vệ sinh cho các em bé bị nhiễm, cũng như rửa tay trước thời điểm ăn. Trong vòng 2 tuần điều trị đó, cần giặt giũ và vệ sinh đồ dùng ngủ hoặc chăn nệm ở giường mỗi 3-7 ngày trong vòng 3 tuần và giặt sạch hàng ngày đối với đồ lót.
Tính an toàn của thuốc sử dụng điều trị giun kim chưa được nghiên cứu trên phụ nữ mang thai. Nếu nhiễm trùng trên các phụ nữ mang thai suy giảm đề kháng (sụt cân, ngủ không ngon giấc) thì điều trị cần cân nhắc, nhưng chờ cho đến 3 tháng cuối thai kỳ hãy dùng để tránh các tác hại trên phôi thai. Các phụ nữ đang cho con bú cũng nên dùng cân nhắc mebendazole. Chỉ khoảng 2-10% số liều dùng đường uống được hấp thu, lượng thuốc bài tiết ra sữa dưới ngưỡng phát hiện và dường như không có ý nghĩa lâm sàng. Sự bài tiết qua sữa mẹ của các thuốc điều trị giun kim khác không biết thấu đáo.
– Các thuốc điều trị:
+ Mebendazole (biệt dược Vermox, Fugacar), 100 mg đường uống, dùng một lần;
+ Pyrantel pamoate (biệt dược Pin-Rid), 11 mg/ kg (tối đa 1g) dùng một lần đường uống;
+ Albendazole (biệt dược Valbazen), 400 mg dùng một lần đường uống. Nếu còn tồn tại, có thể điều trị lặp lại sau 2 tuần. Không dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi và nếu có thể nên tư vấn từ bác sĩ hoặc dược sĩ.