Viêm xơ đường mật
Viêm xơ đường mật nguyên phát là môt bệnh hiếm gặp, đặc trưng bởi xơ tắc ít nhiều lan toả của đường mật. Nó thường phối hợp với môt bệnh viêm ống tiêu hoá như viêm đại-trực tràng loét-chảy máu.
Mục lục
Viêm xơ đường mật có thể có biểu hiện vàng da ứ mật. Nó có thể gây biến chứng sỏi trong gan làm tăng tổn thương bôi nhiễm và ứ mật.
Siêu âm có thể giợi ý chẩn đoán khi thấy hình giãn từng đoạn đường mật xen lẫn những vùng dày thành đường mật. Đôi khi, có thể thấy những hình âm sáng nhỏ trong gan, dù không đặc hiệu nhưng cũng giúp giợi ý chẩn đoán, những hình này khác với hình sáng của hơi đường mật bởi chúng không di động và đa hình thái hơn.
Chẩn đoán xác định dựa vào chụp đường mật cản quang, thường thấy hẹp lan toả cây đường mật có hình ảnh đặc trưng là hình “cây chết”, hoặc hẹp không đều hình “chuỗi hạt” với những đoạn hẹp xen lẫn những vùng giãn và giả túi thừa.
Viêm đường mật trên bệnh nhân suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS)
Tổn thương viêm đường mật trong bệnh AIDS thường gặp nhất là do nhiễm cytomegalovirus (CMV) hoặc crytosporidium. Lâm sàng biểu hiện chủ yếu là đau hạ sườn phải và nôn, thường không thấy vàng da. Tổn thương có thể ở túi mật gây viêm túi mật không do sỏi và ở đường mật gây viêm đường mật.
Dấu hiệu hình ảnh viêm đường mật cũng giống bệnh viêm xơ đường mật. Siêu âm cho thấy tổn thương đường mật dưới dạng hẹp, giãn từng đoạn và nhất là dày thành rõ đường mật chính hoặc đường mật trong gan mà chúng có thể tạo thành những đường giảm âm trong nhu mô gan. Có thể thấy hạch vùng cuống gan.
Bất thường bẩm sinh dạng nang đường mật
Nang ống mật chủ:
Nang ống mật chủ có hình túi hoặc hình thoi. Tổn thương chỉ giới hạn ở đường mật chính, nhưng có thể thấy giãn tới ống gan phải và/hoặc trái. Nguồn gốc của tổn thương này là một bất thường chỗ nối ống mật-tuỵ với ống gan chung dài bất thường tạo điều kiện cho trào ngược dịch tuỵ vào trong đường mật.
Bệnh thường phát hiện ở trẻ em, tuy nhiên có thể tiềm tàng và biểu hiện ở tuổi trưởng thành. Triệu chứng có thể gặp là vàng da tái phát, đau. Biến chứng có thể là ứ mật mạn, viêm đường mật, viêm tuỵ và nhất là ung thư biểu mô đường mật. Điều trị là cắt bỏ hoàn toàn đường mật bất thường.
Siêu âm phát hiện dễ dàng tổn thương dưới dạng hình nang dịch giảm âm với thành mỏng nằm ở vùng cuống gan (H.19). Dạng giãn ở đoạn thấp của đường mật chính ít gặp, nhưng cũng có thể đặt ra vấn đề chẩn đoán phân biệt với u dạng nang của tuỵ.
Các phương pháp bổ sung như CLVT và nhất là chụp đường mật cản quang, cho phép xác đinh chính xác giới hạn hai cực của tổn thương trước khi phẫu thuât.
* Bệnh Caroli:
Bệnh Caroli là giãn bất thường dạng nang của đường mật trong gan, có thể một phần hoặc toàn bộ đường mật. Nó thể hiện bởi các hình giãn dạng nang và có đặc điểm quan trọng là thông với đường mật, nên chúng cũng có nguy cơ nhiễm trùng và sỏi.
Lâm sàng thường thấy là ứ mật mạn, nhiễm trùng đường mật tái phát. Sỏi đường mật trong gan thường gặp và làm nặng thêm triệu chứng. Có thể tiến triển thành ung thư đường mật.
Siêu âm cho thấy hình nhiều hình dịch rỗng âm và giảm âm trong nhu mô có kích thước khác nhau (H.20a), nằm chủ yếu vùng quanh rốn gan và dọc theo đường mật. Các nang này có thể bao quanh máu máu đi cùng được khẳng định trên Doppler (H.20b) hoặc trong nang có sỏi, là những dấu hiệu giúp chẩn đoán phân biệt với nang đường mật đơn thuần.
Chụp đường mật cản quang (thường chụp bằng đường qua da) giúp khẳng định chẩn đoán, cho thấy hình các nang thông với đường mật.
Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện Bạch Mai