1. Triệu chứng
Lâm sàng:
– Dịch tiết âm đạo: không còn là dịch tiết sinh lý (trong, nhày, không mùi, không gây khó chịu)
Mục lục
– Kích ứng âm đạo (ngứa, cảm giác nóng rát)
– Đau khi giao hợp
– Đau khi đi tiểu
– Xuất huyết âm đạo nhẹ (±)
– Có thể kèm triệu chứng của tình trạng nhiễm trùng tiểu dưới
– Độ pH âm đạo thay đổi
Cận lâm sàng:
Soi tươi huyết trắng: huyết trắng được hòa tan trong dung dịch nước muối đẳng trương và soi tươi trên lam kính để khảo sát tế bào bề mặt âm đạo, bạch cầu, vi khuẩn (hình dạng và số lượng).
Tế bào clue cell: là các tế bào bề mặt niêm mạc âm đạo bị bám đầy bởi các vi khuẩn (hình ảnh tế bào có bờ viền bị xóa nhòa bởi các vi khuẩn, khác với hình ảnh tế bào bị dơ).
Test amin (whiff test): dung dịch huyết trắng bốc mùi cá chết sau khi nhỏ KOH 10% vào.
Nuôi cấy mẫu huyết trắng để phân lập và định danh nhóm vi trùng: đắt tiền và đòi hỏi thời gian, không phổ thông trong điều trị viêm nhiễm âm đạo thông thường, tuy có độ chính xác cao.
Do các triệu chứng cơ năng và thực thể thường không đặc hiệu cho từng nguyên nhân, nếu thiếu điều kiện xét nghiệm, việc định nguyên nhân có thể khó khăn. Ngoài ra, khoảng 1/3 trường hợp viêm âm đạo hoàn toàn không có triệu chứng, thường được phát hiện qua việc khám kiểm tra định kỳ và xét nghiệm cận lâm sàng.
2. Các loại viêm âm đạo
Viêm âm đạo theo tác nhân
Không do vi sinh: do dị vật đường sinh dục, do phản ứng dị ứng, do tiếp xúc băng vệ sinh hay quần áo, hoặc các hóa chất (chất tẩy rửa, xà bông, khử mùi, dầu thơm).
Do vi sinh: Do nấm (Candida albican hay non-albican), nguyên sinh động vật (Trichomonas vaginalis), tạp trùng (baterial vaginosis), virus (HPV, HSV), do các vi khuẩn hay virus các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Candida, Trichomonas và tạp trùng là 3 nguyên nhân thường gặp nhất.
Viêm âm đạo theo độ tuổi
Tuổi chưa dậy thì: có thể do nhiễm trùng vi sinh, cũng có khi do dị vật hay nhiễm giun sán từ đường tiêu hóa. Nguyên nhân lạm dụng tình dục cũng nên được nhớ đến. Cũng nên xem xét đến các nguyên nhân ác tính.
Triệu chứng lâm sàng ở nhóm tuổi này cũng tương tự như ở độ tuổi sinh sản.
Tuổi sinh sản: đa số do các tác nhân vi sinh, đặc biệt là STDs.
Tuổi mãn kinh: đa số do tình trạng thiểu dưỡng của niêm mạc âm đạo. Khi mãn kinh, do sự sụt giảm estrogen, lớp tế bào bề mặt âm đạo sẽ không phát triển đầy đủ, cũng như không đủ lớp glycogen bề mặt dẫn đến thiếu hụt nhóm khuẩn Lactobacili. Niêm mạc âm đạo trở nên yếu ớt trong một môi trường âm đạo không đủ độ acid như thông thường sẽ là điều kiện thuận lợi cho viêm nhiễm âm đạo phát triển.
3. Tác hại viêm âm đạo
Tái phát: khi tình trạng viêm âm đạo lập lại hơn 4 lần trong một năm. Cần xem rõ đây là bệnh cũ tái phát hay là tái nhiễm; có nghĩa là sẽ tìm và điều trị các yếu tố thuận lợi sinh bệnh hay là đặt vấn đề điều trị người bạn tình, sử dụng các biện pháp hàng rào nhằm chống các bệnh lây qua đường tình dục.
Di chứng: khi viêm âm đạo lây lan đến lớp tế bào tuyến cổ trong cổ tử cung, có khả năng sẽ lây lan đến lớp niêm mạc tử cung và vòi trứng, có khả năng gây viêm nhiễm vùng chậu và tắc vòi trứng gây vô sinh.
Benh.vn