Bệnh than là một bệnh truyền nhiễm lây lan cao do nha bào bệnh than có khả năng tồn tại từ 20 đến 30 năm trong lòng đất, bình thường chỉ ảnh hưởng đến loài vật, đặc biệt là loài nhai lại (như dê, cừu, trâu, bò, ngựa ), bệnh có thể truyền sang người do tiếp xúc với động vật bị nhiễm bệnh hay những sản phẩm của động vật hay trong chiến tranh sinh học.
Mục lục
1. Nguyên nhân gây ra bệnh than
Vi khuẩn gây ra bệnh than có tên là Bacillus anthracis, được phát hiện bởi một bác sĩ người Đức và là nhà khoa học, TS Robert Koch. Khuẩn này là một trực khuẩn hình que vi nó giống như những toa xe lửa, kích thước dài 4 – 8 µm ngang 1 – 1,5 µm. Bào tử khuẩn có sức đề kháng tốt, nó có thể tồn tại trong đất và các sản phẩm từ động vật hàng chục năm.
Bào tử khẩn (spore) sống được trong những điều kiện môi trường khắc nghiệt trong trong đất, nước, bề mặt các vật dụng. Nó có khả năng chống lại được ánh sáng, tia cực tím, nó chỉ bị tiêu diệt khi đun sôi 100o C trong 30 phút. Bào tử hoạt động trở lại khi điều kiện môi trường thuận lợi trên người cũng như trên động vật nó sẽ sinh ra độc tố (toxin)
2. Bệnh than lây truyền bằng cách nào
– Phổ biến nhất là nhiễm qua da bị tổn thương, gây ra vết thương đáng sợ do tiếp xúc trực tiếp qua da động vật bị nhiễm nhưng thường tự “bay” mà không cần điều trị.
– Nếu nuốt phải khuẩn than do ăn phải thức ăn động vật bị nhiễm nấu không chín.
– Nặng nhất là lây qua đường hô hấp, khuẩn than sẽ xâm nhập được vào các tuyến bạch huyết ở ngực, sinh sôi nảy nở và sản xuất các chất độc gây tử vong. có thể mắc bệnh rất nặng, thậm chí là tử vong.
Bệnh có khả năng gây tử vong cho người bệnh. Ở các nước phương Tây, động vật được chủng ngừa để phòng chống bệnh than.
3. Thời gian ủ bệnh của bệnh than
Thời gian ủ bệnh được tính từ khi tiếp xúc với vi khuẩn bệnh than đến khi xuất hiện triệu chứng. Thời kỳ ủ bệnh tương đối ngắn, thường từ 1-5 ngày. Giống như các bệnh truyền nhiễm khác, thời kỳ ủ bệnh của bệnh than khá âm thầm, khó nhận biết.