Hàng năm, khoảng 10% hoặc 21 triệu người sinh sống tại Hoa Kỳ bị chứng trầm cảm, tài liệu Y học gọi là “depression”. Các nhà Kinh Tế, giới Y học có thể dự đoán được “những thiệt hại rất cao” về tài chính nhưng chẳng mấy ai có thể đo được “mức đau khổ” của con người do chứng trầm cảm gây ra.
Mục lục
Sự trầm luân không chỉ ảnh hưởng đến người mắc bệnh mà còn ảnh hưởng đến thân nhân, bạn bè, những người thương yêu quý mến bệnh nhân. Chứng trầm cảm có thể hủy hoại cả một gia đình cũng như cuộc đời của người bệnh. Hầu hết những người bị trầm cảm thường không tìm cách chữa trị, dù chứng trầm cảm không phải là một bệnh nan y. Dường như người ta không tin rằng bệnh trầm cảm là một chứng bệnh có thể được chữa lành và có thành kiến không mấy tốt đẹp về các chứng bệnh Tâm Thần. Vì thế, người bệnh tiếp tục đau khổ, thân nhân tiếp tục bó tay đứng nhìn người thân chịu trầm luân, và họ cùng đau khổ như nhau.
Bệnh trầm cảm là gì?
Trầm cảm là một chứng bệnh ảnh hưởng đến cơ thể, tình cảm, ý nghĩ của người bệnh. Chứng trầm cảm ảnh hưởng đến bữa ăn, giấc ngủ, cách nghĩ, cái nhìn về bản thân và sự việc chung quanh. Chứng trầm cảm không phải là một nỗi buồn thoáng qua và cũng không phải là sự “yếu đuối” của tinh thần hay do “thiếu” bản lãnh mà người bệnh có thể tự luyện cho mình sự cứng cỏi và…hết bệnh! Người bị chứng trầm cảm không thể tự “điều khiển” mình hay tự “thay đổi” để khỏi bệnh. Không được chữa trị đúng mức, triệu chứng của trầm cảm có thể kéo dài nhiều tuần lễ, nhiều tháng và cả nhiều năm.
Phân loại chứng trầm cảm
Chứng trầm cảm có ba loại chính, và trong mỗi loại trầm cảm, triệu chứng, mức độ và tính chất của các triệu chứng có thể thay đổi.
Trầm cảm trầm trọng (Major depression)
Các triệu chứng khiến đầu óc và cơ thể hầu như tê liệt, người bệnh mất khả năng làm việc, học hỏi, không thể ăn uống, mất ngủ, và mất cả những sinh thú mà trước đây đã đem lại sự vui vẻ cho người bệnh. Người bệnh có thể chỉ bị trầm cảm trầm trọng một lần trong đời, nhưng chứng trầm cảm trầm trọng cũng có thể tái phát nhiều lần.
Trầm cảm (dysthymia)
Những triệu chứng kinh niên, tuy không khiến người bệnh bị tê liệt về tinh thần cũng như thể xác nhưng người bệnh không còn sinh thú, không còn tha thiết đến bất cứ thứ gì.
Bipolar disorder (manic-depressive disorder)
Người bị chứng bi-polar, như tên gọi, có lúc “high” (manic) nghĩa là vui vẻ quá mức; và có lúc “low” (depression) nghĩa là buồn rầu đến mức tê liệt cơ thể. Đôi khi người bệnh chuyển từ hăm hở vui vẻ quá mức sang trạng thái ủ ê buồn rầu nhanh chóng trong vài giờ, nhưng thường chuyển từ “vui” qua “buồn” trong nhiều ngày. Khi ở trạng thái “buồn”, người bệnh ủ rũ và có những triệu chứng của bệnh trầm cảm. Khi ở trạng thái “vui”, người bệnh có rất nhiều khí lực, nói nhanh những câu nói dây chuyền và có thể không ăn khớp với nhau, làm nhiều việc cùng lúc dù không việc nào hoàn tất.
Ý nghĩ, cách làm việc, xử sự bất thường… nằm ngoài sự kiểm soát của người bệnh và thường gây ra những khó khăn trong công việc làm cũng như sự xấu hổ trong khi giao dịch ngoài xã hội. Trạng thái “vui” nếu không được chữa trị sẽ trở thành tình trạng hoang tưởng (psychotic).
Triệu chứng
Người bị chứng trầm cảm có thể có vài hoặc nhiều triệu chứng, và mức độ trầm trọng của những triệu chứng thay đổi tùy theo hoàn cảnh thời gian và không gian:
1. Triệu chứng của trầm cảm
– Buồn rầu (nhiều ngày), bất an (anxious), hoặc trống vắng (empty mood)
– Luôn có ý tưởng tuyệt vọng, yếm thế (cuộc sống không có gì vui) Luôn có ý tưởng “tội lỗi” (guilty), “bất xứng” (worthlessness), “chẳng có thể làm được gì” (helplessness)
– Mất hết sinh thú trong đời sống kể cả tình dục
– Mất khí lực, luôn cảm thấy mệt mỏi, mất sức
– Khó tập trung tư tưởng, khó quyết định công việc, trí nhớ kém
– Mất ngủ thường xuyên, thức giấc sớm (không thể ngủ trọn giấc) hoặc ngủ li bì Không muốn ăn uống, mất cảm giác đói, xuống cân hoặc ăn uống quá độ và lên cân
– Có ý tưởng tuyệt vọng, muốn tự tử
– Không thể nghỉ ngơi, dễ nóng giận
– Triệu chứng của “Vui quá độ” (mania):
- Vui vẻ đến mức bất bình thường
- Dễ nóng giận
- Không cần nghỉ ngơi, không cần ngủ
- Có ý tưởng xa vời với thực tế
- Nói không ngừng nghỉ
- Ý tưởng “chạy” rất nhanh và lẫn lộn trong đầu óc
- Mất kiểm soát trong cách xử sự và quyết định những công việc
Yếu tố nguy cơ
Yếu tố di truyền
Vài loại trầm cảm xuất hiện trong những người bệnh và thân nhân họ, điều này có thể do một sự “bất thường” nào đó trong các di thể, nhất là với chứng “bi-polar”. Các cuộc khảo cứu về “di truyền” tính giữa những người bệnh cùng huyết thống cho thấy rằng nhóm người này có sự khác biệt trong di thể so với những người khác. Tuy nhiên, không phải ai có “mẫu” (pattern) di thể này đều bị chứng “bi-polar”. Những yếu tố bên ngoài như sự khó khăn trong đời sống (stress) đã khởi đầu cho chứng trầm cảm.
Chứng trầm cảm trầm trọng (major depression) dường như cũng xuất hiện trong một số gia đình, nhưng các chuyên gia khảo cứu chưa tìm ra di truyền tính giữa những người bệnh có cùng huyết thống.
Dù có tính di truyền hay không, chứng trầm cảm trầm trọng thường liên quan đến sự thay đổi tại não bộ, cấu trúc (brain structure) hoặc cả chức năng (brain function). Những người tự cho là mình kém cỏi (low self-esteem) thường có cái nhìn yếm thế hoặc những người nản lòng khi gặp khó khăn trong đời sống thường dễ bị chứng trầm cảm. Y học chưa khẳng định được đâu là nguyên nhân: Người có mầm mống của chứng trầm cảm thường bi quan yếm thế và dễ quỵ ngã trước khó khăn, nghịch cảnh? Hoặc nghịch cảnh, khó khăn của đời sống khiến con người bị trầm cảm và trở nên bi quan yếm thế?
Bệnh mắc kèm
Gần đây, các chuyên gia về bệnh Tâm Thần đã tìm thấy sự thay đổi trong cơ thể đi đôi với sự thay đổi tại tâm thần. Những chứng bệnh như tai biến mạch máu não, nhồi cơ tim, ung thư, bệnh Parkinson, xáo trộn kích thích tố có thể gây chứng trầm cảm khiến người bệnh không tha thiết đến việc tự chăm sóc và thường kéo dài thời gian hồi phục.
Hoàn cảnh sống
Những nghịch cảnh, khó khăn trong đời sống như khi con người gặp một mất mát lớn (người thân, tình yêu, tiền bạc, công việc làm hoặc chức vị) có thể khởi đầu chứng trầm cảm.
Cả ba yếu tố, di truyền, tâm thần và hoàn cảnh sống, thường liên quan đến việc khởi đầu của bệnh trầm cảm. Chứng trầm cảm khi tái phát có thể không do một lý do, nguyên nhân nào.
Chứng trầm cảm ở phụ nữ
Số phụ nữ bị chứng trầm cảm thường cao gấp đôi so với phái nam. Sự xáo trộn của nhiều kích thích tố nữ được xem như yếu tố đưa đến chứng trầm cảm, nhất là khi mãn kinh, thai nghén, hư thai, sau khi sanh nở (post-partum)… ngoài những nghịch cảnh, khó khăn trong đời sống. Chứng trầm cảm liên quan đến sự xáo trộn kích thích tố thường được chữa lành khi lượng kích thích tố trở lại bình thường, qua thuốc men hoặc với thời gian.
Chứng trầm cảm ở phái nam
Dù số phái nam bị chứng trầm cảm thấp hơn phụ nữ, khoảng 6 triệu người sinh sống tại Hoa Kỳ. Thông thường, phái nam ít khi nhìn nhận rằng mình bị chứng trầm cảm, thêm vào đó, bác sĩ thường không để ý và tìm kiếm chứng trầm cảm tại nam bệnh nhân. Số nam nhân tự tử vì tuyệt vọng cao gấp 4 lần phái nữ, mặc dù số phụ nữ “thử” tự tử (attempt) cao hơn.
Sau tuổi 70, số nam nhân tự tử lên cao, và cao nhất ở tuổi 85. Trầm cảm ảnh hưởng đến sức khỏe phái nam khác với phái nữ. Nam nhân với chứng trầm cảm thường bị bệnh tim mạch và chết vì nhồi cơ tim ngay cả những người ở tuổi 40.
Chứng trầm cảm ở phái nam thường được (bị) che dấu qua việc nghiện rượu, nghiện cần sa hoặc ma túy, hoặc bởi sự “làm việc không nghỉ ngơi” (working excessive long hours) mà xã hội dễ dàng chấp nhận. Chứng trầm cảm tìm thấy ở phái nam qua những triệu chứng như giận dữ, khó chịu, và phẫn chí. Nam nhân không mấy khi chấp nhận hoặc nhìn nhận rằng họ tuyệt vọng, hay buồn rầu, vì thế tìm ra chứng trầm cảm ở nam nhân không phải là điều dễ dàng.
Ngay cả khi người bệnh hiểu rằng mình bị trầm cảm, nam nhân không mấy khi tìm bác sĩ để chữa bệnh. Sự khuyến khích, cảm thông và giúp đỡ từ thân nhân là những yếu tố cần thiết đưa đến việc tìm kiếm và chữa trị đúng mức cho chứng trầm cảm ở nam nhân.
Chứng trầm cảm ở tuổi già
Bác sĩ thường không tìm kiếm và chữa trị chứng trầm cảm ở những người cao niên, vì khi đi khám bệnh các vị cao niên thường chỉ nói về những triệu chứng liên quan đến cơ thể và không đề cập đến những triệu chứng như tuyệt vọng, buồn rầu, mất ngủ, biếng ăn, mệt mỏi … Ngoài ra, một vài triệu chứng của bệnh trầm cảm như biếng ăn, mất ngủ, mệt mỏi có thể là phản ứng phụ của vài loại thuốc khiến việc truy tìm chứng trầm cảm khó khăn hơn. Khi tìm thấy bệnh trầm cảm trong những bệnh nhân cao niên, việc chữa trị bằng Tâm Lý (psychotherapy) thường rất hiệu quả.
Chứng trầm cảm ở trẻ em
Sự biến đổi tăng trưởng của cơ thể nơi trẻ em thường đi đôi với với các thay đổi về tâm lý, lúc vui lúc buồn, lúc cáu kỉnh, giận dữ… Những triệu chứng này thường được xem như “bình thường” của tuổi mới lớn nên thân nhân trong gia đình, thầy cô ở trường học thường không nghĩ đến bệnh trầm cảm. Ngoài những biến đổi về mặt tâm lý, chứng trầm cảm còn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng về thể xác, đứa trẻ có thể lên cân rất nhanh vì sự ăn uống quá độ. Khi tìm thấy chứng trầm cảm ở trẻ em, ngoài việc chữa trị về mặt tâm lý, bác sĩ cần theo dõi kỹ lưỡng sự tăng trưởng của cơ thể.