Mục lục
bệnh Zona
Corticosteroid
Có hai nghiên cứu lâm sàng quy mô lớn, có đối chứng lượng giá vai trò của corticosteroid trong kết hợp với acyclovir. Trong cả hai nghiên cứu (Harrison RA, et al. 1999: Wood MJ, et al. 1994), những BN dùng corticosteroid có sự tăng vừa phải nhưng có ý nghĩa thống kê tiến độ lành da và giảm nhẹ được cơn đau cấp tính. Liệu pháp kết hợp mang lại một chất lượng cuộc sống được cải thiện, thể hiện qua việc giảm sử dụng thuốc giảm đau, thời gian có giấc ngủ không đứt quãng dài hơn và thời gian trở lại sinh hoạt thường lệ sớm hơn.
Tuy nhiên không có nghiên cứu nào chứng minh được bất kỳ tác dụng nào của corticosteroid trên tỷ lệ mắc bệnh hoặc thời gian kéo dài của đau dây thần kinh sau zona. Liệu pháp corticosteroid không nên sử dụng ở những BN có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi độc tính do corticosteroid (ví dụ những BN tiểu đường hoặc viêm dạ dày). Liệu pháp kết hợp valacyclovir hoặc famciclovir với cortico-steroid được cho là có hiệu quả tương đương, nhưng chưa được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng. Không có khuyến nghị sử dụng corticosteroid trong zona mà không có liệu pháp kháng virút song hành.
Điều trị triệu chứng
BN nên giữ các tổn thương da được sạch và khô nhằm giảm nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn. Đắp một miếng băng vô khuẩn, không bít hơi, không dính, lên khoanh cảm giác da (dermatome) bị tổn thương sẽ bảo vệ các tổn thương khỏi tiếp xúc với y phục. Đau thần kinh có thể rất nặng và có thể bị đánh giá thấp. Thuốc chẹn giao cảm có thể làm dịu tạm thời nhanh chóng cơn đau nặng (Wu CL, Marsh A. 2000).
Đối với cơn đau dai dẳng, các opioid (thuốc giảm đau trung ương dạng thuốc phiện) tác dụng dài, giải phóng có kiểm soát (uống hoặc dán lên da) được ưa chuộng hơn. Vài mô hình dùng để giải thích cơ chế bệnh sinh của đau thần kinh hậu zona ám chỉ rằng việc sớm giảm nhẹ cơn đau cấp tính có thể ngăn chặn sự khởi động cơ chế trung ương của đau kinh diễn, bằng cách đó giảm nguy cơ đau thần kinh hậu zona (Gnann JW, Whitley RJ. 1991).
Đau thần kinh hậu zona
Việc điều trị đau thần kinh hậu zona phức tạp, đòi hỏi một tiếp cận nhiều mặt.
Chọn lựa điều trị chứng đau hậu zona
Thuốc | Liều khởi đầu | Bàn luận | Những tác dụng ngoài ý có thể có |
Opioids (các dẫn xuất của thuốc phiện) | Oxycodone 5mg uống mỗi 6 giờ* | Liều toàn bộ 80mg mỗi ngày (hoặc cao hơn) cho những BN có cơn đau dữ dội. Có khả năng cần đến | Gây ngủ, buồn nôn, choáng váng, bón, quen thuốc, lạm dụng thuốc |
Chống trầm cảm ba vòng | Nortryptylin hoặc desipramin 10 – 25mg uống lúc đi ngủ* | Liều toàn bộ lên đến 75 – 150mg mỗi ngày, amitriptyline cũng có hiệu quả nhưng có thể kém dung nạp ở người già; ít có kinh nghiệm với các chất ức chế tái thu hồi serotonin chọn lọc | Gây ngủ, lú lẫn, các tác dụng kháng Cholinergic (khô miệng, mờ mắt, bón, bí tiểu) |
Gabapentin | 300mg uống mỗi ngày | Tăng liều dần khi cần trong khoảng thời gian 4 tuần lễ, đến một liều toàn bộ hàng ngày là 3600mg (chia làm 3 lần) | Buồn ngủ, choáng váng, thất điều, rung giật (nhãn cầu) |
Capsaicin
(dạng kem 0,025 – 0,075) |
Thoa tại chỗ 3 – 4 lần mỗi ngày | Chỉ thoa lên vùng da nguyên vẹn, đã lành; bắt đầu với chế phẩm nồng độ thấp, nếu dung nạp được tăng dần đến chế phẩm có nồng độ cao; có thể cần nhiều ngày đến nhiều tuần lễ để đạt đến kết quả tối đa; có thể mua không cần đơn thuốc | Kích thích da tại chỗ và cảm giác rát bỏng làm hạn chế việc sử dụng ở nhiều BN |
Lidocain (băng dán 5%) | Dán lên vùng bị đau; có thể dùng cùng lúc 3 băng dán trong một thời gian tối đa là 12g | Chỉ nên dán lên vùng da đã lành nguyên vẹn; có thể cắt băng dán cho hợp với kích cỡ vùng da, giảm đau nhanh | Kích thích da tại chỗ; độc tính toàn thân do việc hấp thu qua da của lidocain nhưng rất hiếm gặp |
Các thuốc khác cũng có thể sử dụng được
Các thử nghiệm lâm sàng chứng tỏ rằng opioid; chất chống trầm cảm 3 vòng và gabapentin làm giảm được độ nặng hoặc thời gian kéo dài của đau dây thần kinh hậu zona, dù dùng một mình hoặc kết hợp với nhau. Các tác dụng ngoại ý của những thuốc này có thể hiệp lực, đặc biệt ở những BN già nua. Dùng băng dán lidocain hoặc kem capsaicin tại chỗ có thể mang lại sự dễ chịu cho một số BN (Bernstein JE, et al. 1989: Galer BS, et al. 1999). Trong một nghiên cứu trên các BN đau dây thần kinh hậu zona không khỏi, tiêm vào khoang dưới màng nhện của tủy sống myehyl prednisolon acetat một tuần một lần trong 4 tuần làm giảm đau đáng kể (Kotani N, et al. 2000). Cần có thêm dữ liệu để chứng thực những kết quả bước đầu đầy hứa hẹn này.
Những lĩnh vực chưa xác định
Có phải mỗi BN zona cần trị liệu kháng virút?
Những BN có nguy cơ cao nhất bị biến chứng là những người già, những người bị zona mắt và những BN bị tổn hại miễn dịch. Tuổi càng lớn, vùng da tổn thương có diện tích càng rộng, và lúc đến khám đau càng dữ dội, tất cả là những chỉ tố tiên đoán của đau dai dẳng (Harrison RA et al. 1999: Whitley RJ, et al. 1999). Những BN đáp ứng những tiêu chí này nên được hướng thẳng vào điều trị. Tất cả những BN zona mắt nên được trị liệu kháng virút nhằm mục đích dự phòng biến chứng mắt. Vài BS vẫn còn xem liệu pháp kháng virút là không bắt buộc ở những BN trẻ hơn bị zona không biến chứng, mặc dù liệu pháp có lợi ích và nguy cơ tai biến rất thấp.
Liệu pháp kháng virút có thể thành công ở những BN đến khám sau 72 giờ?
Những nghiên cứu về thuốc kháng virút đều sử dụng các thiết kế tương tự nhau. Các BN được chọn vào nghiên cứu trong vòng 72 giờ sau khởi phát các tổn thương. Trên thực tế, các BN thường đến khám trên 3 ngày sau khi nổi các tổn thương da, nhưng ít có dữ liệu hướng dẫn trị liệu trong tình huống này. Liệu pháp kháng virút được khởi đầu càng sớm, cơ may có đáp ứng lâm sàng càng cao, nhưng một số BN vẫn có lợi ngay cả khi điều trị được bắt đầu sau 3 ngày (Wood MJ, et al. 1998; Decroix J, et al, 2000). Sự hiện diện của các mụn rộp nổi tương ứng với việc virút còn đang sao chép và đây có thể là một dấu ấn nhận biết BN có lẽ vẫn được lợi nếu được trị liệu kháng virút.
Có thể dự phòng chứng đau dây thần kinh sau zona?
Mặc dầu nhiều nghiên cứu cho thấy liệu pháp kháng virút làm giảm thời gian đau, những thuốc kháng virút không ngăn ngừa được chứng đau hậu zona (McKendrick MW, et al. 1989; Jackson JL, et al. 1997; Alper BS, Lewis PR. 2000). Đau dây thần kinh sau zona vẫn có thể xảy ra trên nhóm phụ bệnh nhân được điều trị kháng virút. Trên giả thuyết, kết hợp thuốc kháng virút với giảm đau, chống trầm cảm cấu trúc ba vòng hoặc thuốc chống động kinh ngay lúc khởi phát zona có thể làm giảm chứng đau dây thần kinh sau zona (Dworkin RH, Portenoy RK. 1996; Bowsher D. 1997). Những bước tiếp cận này chưa được chứng minh hiệu quả nhưng cần được khảo sát thêm.
Có thể dự phòng zona?
Vắcxin chủng OKA của virút Varicella Zoster hiện được Hiệp hội tư vấn về Thực hành tiêm chủng khuyến nghị cho vào diện tiêm chủng phổ quát ở trẻ em. Loại vắcxin này làm tăng đáp ứng tế bào lymphô T độc đặc hiệu cho virút Varicella Zoster ở những người già huyết thanh dương tính. Liệu việc tăng cường miễn dịch do vắcxin đem lại có làm giảm tỷ lệ mắc hoặc giảm độ nặng của zona ở những người lớn tuổi hay không đang được khảo sát trong một thử nghiệm lâm sàng (Oxman MN. 1995).
Hướng dẫn xử trí
Hiện không có một hướng dẫn xử trí chính thức nào được ban hành bởi các hội chuyên nghiệp tại Hoa Kỳ.
Kết luận và khuyến nghị
Zona có thể xảy ra ở bất kỳ người nào đã từng bị thủy đậu nhưng thường gặp hơn khi tuổi đời càng tăng và ở những BN bị tổn hại miễn dịch. Chẩn đoán thường được xác lập trên lâm sàng, nhưng một xét nghiệm định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể có ích trong những trường hợp không điển hình. Acyclovir, valacyclovir và famciclovir được chấp thuận trong điều trị zona. Những thuốc này dung nạp tốt và tương tự nhau nếu xét riêng về hiệu lực lẫn tính an toàn.
Tuy nhiên, do có các đặc điểm dược động học được cải thiện và chế độ liều dùng đơn giản hơn, valacyclovir và famciclovir là những thuốc được ưa chuộng hơn cho điều trị zona. Những BN lớn tuổi, đặc biệt là những người trên 60 tuổi đau dữ dội lúc đến khám, là những người có nguy cơ cao bị bệnh nặng hơn và có biến chứng, nên được điều trị kháng virút, giống như BN được mô tả trong trường hợp minh họa. Bắt buộc sử dụng liệu pháp kháng virút ở những BN zona mắt, chủ yếu để dự phòng các biến chứng ở mắt có tiềm năng gây mù.
Nhằm làm giảm thời gian kéo dài và độ nặng của các triệu chứng cấp tính, có thể xét đến một liệu pháp bổ sung với corticosteroid ở những BN lớn tuổi nếu không có chống chỉ định nào. Tiềm năng bị đau nghiêm trọng ở những BN zona không nên đánh giá thấp và thường sẽ phải cần đến các loại thuốc giảm đau mạnh. Không một đơn trị liệu nào được chứng tỏ có hiệu quả trong điều trị đau dây thần kinh sau zona. Thường là phải cần đến một liệu pháp kết hợp và hội chẩn với một chuyên viên về điều trị đau.
Theo Thời Sự Y Dược Học (Phần III)