Mỗi loại thuốc được dùng để điều trị bệnh cần phải có sự chỉ định của bác sĩ để đảm bảo việc sử dụng thuốc đúng và an toàn. Đặc biệt, những bệnh nhân cần thiết dùng thuốc phòng huyết khối – nghẽn mạch phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định trên nếu không sẽ gây guy hiểm cho tính mạng…
Mục lục
Sự hình thành huyết khối
Khi mảng vữa xơ bị bong khỏi thành động mạch, bộc lộ nội mạc mạch phóng thích ra nhiều yếu tố đông máu hay nhịp tim chậm, tốc độ dòng chảy giảm làm tăng sự kết dính… thì tiểu cầu sẽ tập kết lại thành cục máu đông gọi là huyết khối (thrombosis).
Huyết khối vỡ tạo thành các cục có đường kính nhỏ hơn, gọi là cục máu đông di động di chuyển trong lòng mạch và gây cản trở hay tắc nghẽn dòng chảy của máu.
Nếu làm cản trở hay tắc nghẽn mạch đến tim sẽ làm tế bào cơ tim bị thiếu máu thiếu ôxy, gây cơn đau thắt ngực, nặng hơn là hủy hoại tế bào cơ tim (gọi là nhồi máu cơ tim).
Tương tự, nếu làm cản trở hay tắc nghẽn mạch máu ở não sẽ làm gián đoạn tạm thời việc cung cấp máu, ôxy ở một vùng nhỏ tế bào não, gây thiếu máu não thoáng qua, nặng hơn là hủy hoại một vùng lớn tế bào não (gây tai biến mạch máu não hay đột quỵ).
Các loại thuốc thường dùng để phòng huyết khối
Những loại thuốc dùng để phòng huyết khối gồm aspirin, clopidogrel, ticlopidin. Thuốc thường được bác sĩ kê đơn và dùng tại nhà, dạng viên uống.
Clopidogrel (dùng trong cấp cứu nhồi máu cơ tim, đột quỵ)
Đây là thuốc trực tiếp làm giảm sự kết dính, ngăn sự tập kết tiểu cầu, hình thành huyết khối nghẽn mạch.
Hiệu lực này xuất hiện sớm hơn aspirin (vì aspirin tác động gián tiếp qua COX1, COX2). Do đó, clopidogrel được dùng cả trong cấp cứu nhồi máu cơ tim, đột quỵ. Tuy nhiên, trong dự phòng tai biến tim mạch thứ phát thì chúng lại tương đương nhau về hiệu lực và độ an toàn.
Aspirin: (dùng cho những người tai biến thứ phát)
Thromboxan-A2 đóng vai trò tập kết tiểu cầu, prostacyclin đóng vai trò ngăn ngừa tập kết tiểu cầu. Bình thường, thromboxan-A2 và prostacyclin ở thế “cân bằng động”.
Khi thromboxan A-2 tăng quá mức thì sẽ tăng sự tập kết tiểu cầu tạo ra huyết khối. Aspirin vừa ức chế sự tạo thành thromboxinA-2 (qua ức chế COX-1), vừa ức chế sự tạo thành prostacyclin (qua ức chế COX-2) với mức cân đối, đảm bảo thế “cân bằng động” như bình thường, nên ngăn sự hình thành huyết khối – nghẽn mạch.
Đối với người đã từng bị bệnh, tai biến tim mạch tiên phát, dùng aspirin làm giảm sự tiến triển đến nặng của cơn đau thắt ngực, giảm đáng kể sự tái tắc nghẽn mạch, giảm tỷ lệ tái nhồi máu cơ tim, tỷ lệ tử vong do mạch máu và giảm tỷ lệ tử vong chung tim mạch thứ phát.
Với người chưa từng bị bệnh, tai biến tim mạch: dùng aspirin làm giảm không đáng kể tỷ lệ nhồi máu cơ tim, không giảm tỷ lệ tử vong chung tim mạch. Do đó không dùng aspirin dự phòng tai biến tim mạch tiên phát vì gây các tác dụng phụ như viêm loét, xuất huyết dạ dày, aspirin dùng kéo dài còn làm tăng huyết áp dẫn tới tăng nguy cơ xuất huyết não (đột quỵ do vỡ mạch máu não). Trong một số trường hợp, aspirin còn tạo ra các mạch máu mới ở võng mạc, mạch máu này sau đó bị nứt vỡ gây xuất huyết, giảm thị lực (bệnh thoái hóa hoàng điểm ẩm).
Ticlopidin (dùng dự phòng tai biến tim mạch thứ phát)
Có tác dụng tương tác với thụ thể của fibrinogen (glycoprotein IIb-IIIa), ức chế sự liên kết của fibrinogen với tiểu cầu, giảm tập kết tiểu cầu, ngăn sự hình thành huyết khối – nghẽn mạch.
Ticlopidin dùng dự phòng tai biến tim mạch thứ phát (như hai thuốc trên). Ticlopidin khó dùng hơn hai chất trên vì có nhiều tác dụng phụ: có thể gây chảy máu (với người có chấn thương, phẫu thuật hay có nguy cơ chảy máu) gây giảm bạch cầu trung tính hoặc mất bạch cầu hạt, đe dọa tính mạng.
Những lưu ý khi sử dụng thuốc phòng huyết khối, tĩnh mạch
+ Các thuốc kháng đông gây chảy máu, không được dùng trong trường hợp chảy máu hoặc có nguy cơ chảy máu. Riêng trong đột quỵ, thuốc chỉ dùng trong đột quỵ do huyết khối – nghẽn mạch mà không dùng trong đột quỵ do vỡ mạch máu não (xuất huyết não).
+ Khi người bệnh không biết rõ mình đột quỵ do nguyên nhân nào không được tự ý dùng thuốc kháng đông vì sự đáp ứng của thuốc kháng đông lệ thuộc vào tình trạng bệnh và việc dùng kèm các loại thuốc khác.
+ Người dùng phải định kỳ đến bệnh viện theo dõi chỉ số INR (International Normalized Ratio) đánh giá nguy cơ hình thành cục máu đông. Mức INR quá thấp sẽ có nguy cơ xuất hiện cục máu đông, INR quá cao có nguy cơ xuất huyết nội. Qua chỉ số INR, thầy thuốc sẽ chỉnh liều dùng thuốc để đưa INR về ngưỡng thích hợp.
+ Thuốc kháng đông chỉ dùng dự phòng tai biến tim mạch thứ phát, không dùng phòng bệnh tim mạch tiên phát. Không tự ý sử dụng Aspirin vì sẽ dẫn đến những tác dụng phụ, thậm chí gây nguy hiểm cho tính mạng.
+ Tất cả các loại thuốc kháng đông phải dùng theo đơn của bác sĩ.
Tổng hợp