Tụ dịch trong gan và cạnh gan
Máu tụ trong gan
Có thể gặp sau chấn thương, sau điều trị phẫu thuật, sau chọc dò can thiêp, hoặc biến chứng chảy máu của một u máu hoặc một u tuyến gan.
Máu tụ trong nhu mô gan có cấu trúc âm thay đổi theo thời gan. Chảy máu mới, biểu hiên là ổ rỗng âm. Sau đó vài giờ, ổ máu tụ tăng âm. Tiến triển ổ máu tụ tiêu đi tạo thành ổ khu trú trong nhu mô với hình giảm âm rổi rỗng âm. Tổn thương thường tròn, nói chung có giới hạn không đều và bao quanh vùng tổ chức dụng dập. Thăm khám lần đầu khi tổn thương ở giai đoạn dạng nang thường khó chẩn đoán.
Máu tụ dưới bao gan là tụ dịch giữa nhu mô gan và bao Glisson. Hình ảnh đặc trưng bởi lớp âm dạng dịch ở ngoại vi và dọc theo bề mặt của gan, kèm theo đè lõm nhu mô gan vào trong. Nó không thay đổi hình thái và vị trí theo nhịp thở hoặc thay đổi tư thế, giúp phân biệt với ổ tụ dịch ngoài bao cạnh gan (ổ áp- xe, tụ dịch mật hoặc tụ dịch có nguồn gốc từ tụy).
Tụ dịch cạnh gan
Tụ dịch dưới hoành khá thường thấy, nhất là sau phẫu thuật tiêu hoá. Tổn thương đặc trưng bởi hình dịch tụ giữa gan và cơ hoành, đè đẩy bề mặt gan. Thường kèm theo phản ứng dịch màng phổi.
Tràn dịch màng phổi phải được thấy trên lớp cắt chéo quặt ngược, là hình liềm dịch sau gan (túi cùng màng phổi sau). Trên lớp cắt dọc, hình tràn dịch nằm ở phía trên cơ hoành.
Tràn dịch trong ổ phúc mạc và dịch cổ chướng: lách giữa các khoang ổ bụng bao quanh các tạng, dịch rỗng âm di đông và di chuyển vùng thấp theo tư thế. Tràn dịch ít quanh gan thường nằm ở khoang giữa gan-thận còn gọi là khoang Morrisson.
Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện Bạch mai