Những tổn thương nang của gan
Nang mật đơn thuần
Là tổn thương nang hay gặp nhất của gan, chiếm khoảng 2,5 – 5%, thường thấy ở phụ nữ và tăng kích thước theo tuổi.
Mục lục
Nang đơn thuần là một khoang chứa thanh dịch trong hoặc vàng chanh, không thông với đường mật trong gan và được bao phủ bởi một lớp tế bào giống nội mô của đường mật hoạt động. Nang có thể nằm ở bất kỳ vị trí nào trong gan. Nang có kích thước lớn nhu mô gan xung quanh bị đè đẩy, đôi khi có teo thuỳ gan. Nang có thể phát triển ra ngoài đẩy các cơ quan kế cận.
Thường không có triệu chứng, có thể đau không điển hình hạ sườn phải khi kích thước lớn trên 8 cm hoặc biến chứng chảy máu trong nang.
Chẩn đoán nang gan đơn thuần là dựa vào siêu âm. Nang điển hình có hình tròn hoặc bầu dục, rỗng âm, tăng sáng phía sau, thành giới hạn mỏng đều không có vách không có vôi hoá (H.8). Nang không điển hình như nang chảy máu hoặc nhiễm trùng, trong nang có hình vẩn âm di động bên trong, cần phân biệt với u hoại tử, tổn thương rất giảm âm (lymphoma)…
Chọc dò nhằm chẩn đoán và điều trị được chỉ định khi nang không điển hình hoặc biến chứng.
CLVT: Giảm tỷ trọng đều không ngấm thuốc cản quang.
CHT: Trên T1 giảm tín hiệu, trên T2 tăng tín hiệu, không ngấm thuốc đối quang.
Gan đa nang
Gan đa nang trong bệnh đa nang ở người lớn (bệnh thân đa nang di truyền trội) cần phân biệt với gan nhiều nang. Bệnh đa nang gan thường phối hợp với thân đa nang và tiên lượng bệnh phụ thuộc vào tình trạng suy thân. Gan đa nang, về đại thể và vi thể, cũng giống như nang gan đơn thuần và không thông với đường mật.
Trên siêu âm thấy có nhiều nang gan, có thể làm cho gan to ra. Nhiều nang gây tăng sáng phía sau mạnh làm cho khó đánh giá nhu mô lành và đôi khi khó nhân dạng được túi mật. Có thể thấy vôi hoá thành nang do rối loạn chuyển hoá vitamin-canci gây ra bởi suy thân tiến triển hoặc do chảy máu trong nang.
U tuyến nang (cystadenoma)
Là u tuyến nang đường mật nguyên phát hiếm gặp, thường gặp ở nữ trung niên (tỷ lệ nữ/ nam là: 4/1), thường một ổ có kích thước lớn, phát triển trên một gan lành. Thường không có triệu chứng, được phát hiện tình cờ khi có khối trong ổ bụng hoặc có dấu hiệu lâm sàng ít đặc hiệu (đau, vàng da…).
Siêu âm thấy khối lớn rỗng âm có tăng âm phía sau và có giợn âm bên trong tương ứng với những vách có âm, một số trường hợp có những nụ sùi tăng âm phát triển từ những vách này (H.9).
CLVT khẳng định bản chất nang của tổn thương và cho thấy ngấm thuốc sau tiêm của thành vách hoặc tổ chức trong nang. Chọc dò cho thấy dịch nhày hoặc hiếm hơn là thanh dịch, thường tăng CA 19.9. Hướng điều trị là phẫu thuât cắt bỏ toàn bộ tổn thương do có thể có nguy cơ tái phát hoặc thoái hoá ác tính.
Một số u dạng nang và giả nang hiếm gặp:
- Ung thư nguyên phát và thứ phát dạng nang.
- U loạn sản phôi (hamartoma), ở trẻ em, có thể biểu hiện dưới dạng nang, thường thấy có vách.
- Lạc nội mạc tử cung khu trú trong gan, với khối gồm dịch và tổ chức.
- U nguyên bào mạch (hemangioblastoma)
- Tụ dịch mật cũ
- Nang giả tuỵ