Sò lông có tên khoa học là Anadara subcrenata thuộc họ sò (Arcidae), là một loài động vật thân mềm, có hai mảnh vỏ hình bầu dục, ngả về phía trước. Mặt ngoài vỏ, các đường gờ, tỏa từ đỉnh đến mép; vỏ tạo thành bởi các vỏ sinh trưởng xếp liền nhau như ngói lợp, đường gờ từ đỉnh tỏa xuống mép trước ngắn hơn xuống mép sau. Da vỏ phủ lông khá phát triển, màu sẫm. Sò lông sống ở vùng triều có đáy bùn, khá phổ biến ở vùng cửa sông nước lợ.
Theo y học cổ truyền, sò lông được dùng với tên thuốc là mao kham. Dược liệu là thịt sò và vỏ sò.
Thịt sò
Thịt sò lông (mao kham nhục) có vị ngọt, mặn, tính ấm, không độc, có tác dụng bổ huyết ôn trung, kiện vị, chữa thiếu máu, huyết hư, tiêu hóa kém, đau dạ dày. Trong 100g thịt sò lông có chứa 8,8g chất đạm, 0,4g chất béo, 3g carbohydrates, các chất khoáng vi lượng, các vitamin và cung cấp 51 calo. Tuy thịt sò lông không ngon bằng sò huyết nhưng cũng được nhân dân ưa chuộng và sử dụng khá rộng rãi.
Cách dùng: đặt sò lông lên than hồng, nướng đến khi 2 mảnh vỏ của sò nứt bung ra, nước béo chảy ra. Lấy thịt ăn nóng với gia vị. Món cháo sò lông có tác dụng bổ huyết, hỗ trợ tiêu hóa, giúp nhan sắc tươi nhuận và hồng hào. Chế biến bằng cách nấu sôi nước luộc gà rồi cho gạo vào, tiếp tục nấu đến khi sôi trở lại thì khuấy nhẹ, đều; để nhỏ lửa nấu trong 30 phút rồi nêm muối và gia vị vào. Tiếp đó, đánh 1 quả trứng gà tan đều, cho vào tô cùng với thịt 10 con sò lông tươi, đổ cháo đang sôi vào trộn đều, rắc rau răm hoặc rau cần xắt vụn và một ít tiêu, ăn nóng lúc đói bụng. Ngoài ra, có thể đem thịt sò lông phơi hoặc sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn rồi uống mỗi lần 4-8g, ngày 2-3 lần.
Sò lông còn được dùng chữa bệnh dưới dạng thức ăn, vị thuốc như sau: thịt sò lông 100g, sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 2g với nước cơm để chữa viêm loét dạ dày, tá tràng mạn tính; nấu với rong biển 50g, ăn cái, uống nước; với râu ngô 30-60g chữa viêm gan, vàng da, sỏi mật; hoặc với thịt hến 100g và rễ hẹ 50g lại là thuốc chữa mồ hôi trộm.
Vỏ sò
Vỏ sò lông (mao kham tử) có thành phần chủ yếu là calcium carbonate (trên 97%). Khi đã gỡ hết thịt, đem vỏ rửa sạch, đập vỡ vụn cho vào nồi trát kín, nung cho đến khi đỏ hồng. Lấy ra, để nguội, tán nhỏ, rây bột mịn. Hoặc nhúng ngay vỏ đang đỏ hồng vào dung dịch dấm với tỷ lệ 1kg vỏ/100ml dấm ăn, rồi mới tán, rây bột. Dược liệu có vị ngọt, mặn, tính hơi lạnh, có tác dụng tiêu tích, hóa đàm, chữa vết máu tụ, tím bầm, tê bại, đại tiện ra máu mủ, kiết lỵ, cam răng. Ngày dùng 12-20g bột dưới dạng nước sắc. Có thể làm viên uống, dùng ngoài lấy bột xoa.
An Nguyên – Benh.vn