Viêm điểm bám gân và phần mềm quanh khớp là một nhóm bệnh lý rất thường gặp. Tuỳ theo tổn thương viêm ở gân, dây chằng, túi thanh dịch hay bao gân mà có các bệnh viêm gân, viêm bao hoạt dịch gân, viêm gân nơi bám tận.
Mục lục
Tổng quan về bệnh viêm điểm bám gân và viêm phần mềm quanh khớp
Trong nhóm bệnh này, viêm gân và bao gân vùng khuỷu tay, cổ bàn tay, vai, gối và quanh mắt cá thường gặp nhất.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi song gặp chủ yếu ở nữ, tuổi trung niên hoặc cao tuổi. Theo một số nghiên cứu có tới 11,6% công nhân ngành dệt ở Hoa Kỳ mắc bệnh lý viêm gân, bao gân. Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay là thể hay gặp nhất ở vùng khuỷu tay, gặp ở 1-3% dân số và thường ở độ tuổi 40 đến 60 tuổi.
Bệnh không nguy hiểm nhưng thường gây đau làm ảnh hưởng đến các hoạt động sinh hoạt, lao động thường ngày của bệnh nhân. Có thể kể tên một số bệnh hay gặp như viêm gân gấp (còn gọi là ngón tay lò xo vì ngón tay bị bệnh bật như lò xo) ở bàn tay; viêm mỏm châm quay, hội chứng DeQuervain ở vùng cổ tay; viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay ở vùng khuỷu tay.
Các dấu hiệu của bệnh viêm điểm bám gân, viêm phần mềm quanh khớp
Triệu chứng bệnh thường khá đơn giản, chủ yếu dựa vào dấu hiệu đau ở một số vị trí tổn thương đặc hiệu.
- Đau từng lúc hoặc liên tục cả ngày và đêm, đau tăng khi vận động, giảm khi nghỉ ngơi; đau có thể lan dọc lên phía trên hoặc dưới của gân. Ấn tại chỗ thường có điểm đau chói. Ít khi có biểu hiện sưng, nóng, đỏ.
- Khi làm một số nghiệm pháp co giãn cơ và gân nơi tổn thương bệnh nhân thấy đau tăng lên. Triệu chứng toàn thân tuỳ thuộc căn nguyên, nhìn chung thường bình thường.
- Các xét nghiệm máu không có thay đổi gì đặc biệt trừ khi có bệnh lý toàn thân phối hợp. Chụp X quang nơi tổn thương chủ yếu giúp phân biệt với các bệnh kèm theo có tổn thương tại khớp như viêm khớp dạng thấp, thoái hoá khớp, viêm cột sống dính khớp…Trên X quang có thể phát hiện hình ảnh calci hoá ở đầu gân. Siêu âm gân cơ, chụp cộng hưởng từ có giá trị trong chẩn đoán xác định ở những trường hợp viêm gân, bao gân không điển hình, nhất là ở các vị trí có nhiều gân cơ như vai, khớp háng, khớp gối, cổ chân.
Nguyên nhân bệnh viêm điểm bám gân, phần mềm quanh khớp
Nguyên nhân gây bệnh phần mềm quanh khớp thường khó xác định, tuy nhiên người ta thấy có một số yếu tố nguy cơ gây bệnh như chấn thương hoặc các vi chấn thương do các hoạt động lặp đi lặp lại kéo dài ở một số ngành nghề như vận động viên chơi thể thao (chơi tennis), nội trợ, bế trẻ em, làm nghề thủ công, thợ cơ khí, đi giầy dép cao gót… Tuổi cao, giới nữ cũng là một trong các yếu tố nguy cơ cao. Ngoài ra, bệnh còn hay gặp ở những người mắc các bệnh lý toàn thân như: viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, đái tháo đường…
Một số thể bệnh viêm điểm bám gân, viêm phần mềm quanh khớp
Viêm điểm bám gân và viêm phần mềm quanh khớp có nhiều thể bệnh khác nhau chứ không phải 1 bệnh đơn nhất. Nhận biết đúng thể bệnh giúp việc điều trị hiệu quả hơn.
Thể viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay
– Lồi cầu ngoài xương cánh tay là nơi bám của gân các cơ duỗi cổ tay quay, cơ duỗi chung các ngón, cơ duỗi ngón út, cơ khuỷu. Khoảng 40-50% người chơi quần vợt bị viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay, vì vậy bệnh này còn có tên là “Khuỷu tay đau do chơi tenis” (Tennis’ elbow).
– Triệu chứng: đau khu trú ở vùng mặt ngoài khuỷu tay, có khi đau lan lên trên cánh tay và xuống dưới cẳng tay; đau có thể tăng vào buổi chiều tối. Đau tăng khi làm các động tác xoay cẳng tay, gấp duỗi ngón tay, nắm chặt tay. Khám ít khi thấy sưng, nóng, đỏ; ấn vào lồi cầu ngoài đau tăng lên hoặc đau chói. Khám cơ lực nắm tay hai bên có thể thấy giảm sức nắm bên tổn thương. Vận động khớp khuỷu tay bình thường.
– Cận lâm sàng: Xét nghiệm máu: nhìn chung không thay đổi. Chụp X-quang hầu như không có hình ảnh bất thường. Có thể thấy hình ảnh calci hóa ở đầu gân. Phần lớn kéo dài một thời gian rồi tự khỏi nhưng hay tái phát đặc biệt là những trường hợp có calci hóa.
Viêm bao gân mỏm trâm xương quay
Bình thường cơ dạng dài và duỗi ngón ngón tay cái trượt dễ dàng trong bao gân. Khi bao này bị viêm sẽ chèn ép các thành phần bên trong gây đau và hạn chế vận động ngón cái.
– Nguyên nhân: hay gặp ở phụ nữ, do vận động ngón cái quá mức kéo dài như giặt, bế con, dệt… Các nguyên nhân khác có thể gặp như chấn thương dạng ngón cái quá mức, viêm khớp dạng thấp, lao, sẹo sau phẫu thuật hoặc không rõ nguyên nhân.
Triệu chứng lâm sàng:
– Sưng đau vùng mỏm trâm xương quay, đau tăng khi vận động ngón cái, đau liên tục, đau nhiều về đêm. Đau có thể lan ra ngón cái và lan lên cẳng tay.
– Sờ thấy bao gân phía ngoài mỏm trâm quay dầy lên, có thể có nóng đỏ, ấn thấy đau chói.
– Khi vận động ngón cái có thể nghe thấy tiếng kêu cót két.
– Test Finkelstein: gấp ngón cái vào trong lòng bàn tay, nắm các ngón tay trùm lên ngón cái , uốn cổ tay nghiêng về phía trụ. Khi bệnh nhân thấy đau chói vùng gân dạng dài và gân duỗi ngón cái hay ở gốc ngón cái là triệu chứng của viêm bao gân (De Quervain).
Siêu âm có thể thấy bao gân dầy lên và có dịch bao quanh…
Ngón tay lò xo
Là tình trạng viêm bao gân của các gân gấp các ngón tay gây chít hẹp bao gân. Một số trường hợp gân gấp bị viêm xuất hiện cục xơ, làm di động của gân gấp qua vùng ngón tay bị cản trở. Mỗi lần gấp hay duỗi ngón tay rất khó khăn, bệnh nhân phải cố gắng mới bật được ngón tay ra hoặc phải dùng tay bên lành kéo ngón tay ra như kiểu ngón tay có lò xo. Vì vậy bệnh có tên là ngón tay lò xo.
Triệu chứng lâm sàng:
– Đau ngón tay tại vị trí bao gân bị viêm và tại cục xơ, khó cử động ngón tay. Triệu chứng này nặng hơn vào buổi sáng, mới ngủ dậy.
– Ngón tay có thể bị kẹt ở tư thế gấp vào lòng bàn tay hoặc duỗi thẳng.
– Có thể có tổn thương một hoặc nhiều ngón tay cùng một lúc.
– Khám ngón tay có thể có sưng, sờ dọc gân gấp có thể thấy cục xơ dọc trên gân gấp ngón tay.
– Thường sờ thấy cục xơ ở vị trí khớp đốt bàn ngón tay, cục xơ di động khi gấp duỗi ngón tay.
Hội chứng đường hầm cổ tay
Trong đường hầm cổ tay có gân cơ gấp ngón cái dài nằm trong bao hoạt dịch quay, gân các cơ duỗi nông và sâu các ngón nằm trong hoạt dịch trụ, giữa hai bao dịch này là thần kinh giữa. Khi các bao dịch này bị viêm sẽ gây sưng nề chèn ép thần kinh giữa gây ra các triệu chứng đường hầm cổ tay.
Nguyên nhân:
– Viêm khớp dạng thấp
– Các chấn thương vùng cổ tay: gãy xương của nhóm xương cá, sai khớp xương bán nguyệt, gãy cổ tay kiểu Pouteau Colles.
– Một số nghề nghiệp sử dụng cổ tay nhiều: ép, vặn xoay…
– Nhiều trường hợp không rõ nguyên nhân.
Triệu chứng lâm sàng:
– Rối loạn cảm giác vùng thần kinh giữa chi phối, bệnh nhân thấy tê và đau buốt ở các ngón tay cái và ngón hai, ba và vùng gan bàn tay đặc biệt là khi bệnh nhân làm động tác duỗi cổ tay, thường đau liên tục, tăng về đêm, nặng lên khi thời tiết lạnh.
– Vùng cổ tay có thể sưng nhẹ so với bên lành.
– Khám: làm một số nghiệm pháp làm tăng sức ép lên đường hầm
- Duỗi cổ tay hết cỡ, dùng búa phản xạ gõ vào vùng cổ tay gây nên tê và đau các ngón 1,2,3 và dọc 1/2 ngón 4
- Dùng dây garo thắt chặt phần trên cẳng tay, sau một thời gian ngắn thây đau như trên
- Nghiệm pháp gọng kìm của ngón cái và ngón trỏ thấy cơ lực giảm rõ so với bên lành
- Một số trường hợp nặng hoặc viêm kéo dài sẽ thấy teo cơ mô cái và giảm cảm giác nông của các ngón 1,2,3 và 1/2 ngón 4.
Cận lâm sàng:
– Điện cơ: có sự dẫn truyền bất thường của thần kinh giữa thuộc đoạn cẳng tay. Điện cơ giúp phân biệt với hội chứng rễ-dây thần kinh cột sống cổ, hội chứng đám rối thần kinh cánh tay.
– Siêu âm bằng đầu rò tần số cao thấy dầy bao gân và dịch hội tụ quanh bao gân trong đường hầm cổ tay.
Viêm gân gót
Nguyên nhân: viêm gân gót phần lớn do hoạt động quá mức bàn chân như nhảy, đi giày cao gót…Ngoài ra một số bệnh toàn thân như viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường hoặc do dị tật lệch trục xương gót.
Triệu chứng lâm sàng:
– Triệu chứng đau là nổi bật, đau vùng gân gót, đau nhiều khi đi lại và kiễng chân, đau nhức nhối hoặc đau chói.
– Khám gân gót thấy sưng rõ, ít nóng đỏ, sờ có thể thấy nổi cục, ấn đau, gấp duỗi mạnh bàn chân thì đau tăng.
– Trường hợp nặng có đứt gân từng phần hoặc toàn bộ làm bệnh nhân rất đau và mất khả năng đi bộ, không đứng được trên các ngón chân. Thử test Thompson thấy bất thường cho bệnh nhân nằm sấp, hai chân để tự do (không tỳ vào vật gì). Bác sĩ dùng tay đè lên bắp chân bệnh nhân. Nếu không có đứt gân gót thì bàn chân sẽ duỗi nhẹ, nếu có đứt gân gót thì bàn chân không cử động và có thể thấy có chỗ lõm xuống dọc gân gót (so với bên lành).
Cận lâm sàng:
– Chụp X-quang chỉ có vai trò chẩn đoán phân biệt với các tổn thương ở xương gót. Đôi khi trên phim nghiêng có thể thấy hình ảnh gân gót phồng to nhờ sự tương phản với tổ chức mỡ bao quanh gân.
– Siêu âm gân gót thấy tăng kích thước, giảm đậm độ siêu âm do phù nề trong gân, bao gân dầy lên, có thể có tụ dịch ngoài bao gân.
– Chụp cộng hưởng từ (MRI): tăng kích thước gân gót, bao gân dầy, có thể đứt gân từng phần hoặc toàn bộ (biểu hiện bởi các ổ bất thường tín hiệu trong gân). MRI cũng giúp chẩn đoán phân biệt với các tổn thương khác vùng cổ chân.
Viêm điểm bám gân đầu trên xương mác
– Là biểu hiện của viêm đầu dưới gân cơ nhị đầu đùi. Nguyên nhân thường do vận động quá mức như đi bộ nhiều, leo núi, tập thể dục….
– Viêm đầu dưới gân cơ nhị đầu đùi biểu hiện đau vùng đầu trên xương mác, đau tăng khi gấp gối hoặc khi ấn vào. Hầu như không có sưng, trừ những trường hợp bệnh nhân xoa bóp nhiều vùng đau.
Viêm điểm bám gân lồi cầu trong xương chày
– Gân chân ngỗng tạo bởi gân cơ may, cơ thon, cơ bám gân: bám tận ở lồi cầu trong xương chày. Quanh các gân này có các túi hoạt dịch nhỏ.
– Viêm gân chân ngỗng biểu hiện sưng, đau vùng lồi cầu trong xương chày, có thể kèm theo nóng đỏ. Có khi trên lâm sàng khó phân biệt với viêm bao hoạt dịch và hội chứng dây chằng bên chày của khớp gối. Chẩn đoán chính xác cần sự hỗ trợ của siêu âm và cộng hưởng từ khớp gối.
Viêm điểm bám gân lồi cầu ngoài xương đùi
– Dải chậu chày tiếp nối cơ năng mạc đùi chạy ở lớp nông mặt ngoài của đùi đến bám vào lồi cầu ngoài xương đùi. Viêụ dải châụ chày thường xảy ra ở người chạy nhiều.
– Triệu chứng chính là đau vùng lồi cầu ngoài đùi, đau tăng khi chạy. Ít khi có sưng nóng đỏ , ấn vào vùng lồi cầu ngoài xương đùi có điểm đau chói.
Điều trị bệnh viêm điểm bám gân và phần mềm quanh khớp
Điều trị bệnh viêm điểm bám gân và phần mềm quanh khớp cần kết hợp giữa dùng thuốc chống viêm, các thuốc khác và việc tập luyện, vận động.
Điều trị không dùng thuốc
- Hạn chế vận động gân bị tổn thương
- Những trường hợp đau nhiều có thể phải cố định tạm thời gân bị tổn thương bằng nẹp, máng bột…
- Chườm lạnh nếu có sưng nóng đỏ
- Chiếu tia hồng ngoại, điều trị kick shock.
Thuốc điều trị
– Thuốc giảm đau thông thường: acetaminophen…
– Thuốc chống viêm không steroid đường uống hoặc bôi tại chỗ, dùng tới khi hết sưng đau.
– Tiêm corticoid tại chỗ: Mục đích tiêm corticoid tại chỗ là đưa corticoid nồng độ cao tới vị trí gân, bao gân bị viêm. Khi tiến hành tiêm corticoid tại chỗ phải đảm bảo vô trùng tuyệt đối. Các chế phẩm thường dùng là:
- Hydrocortison acetat ( Nồng độ 1ml=25mg) là loại tác dụng nhanh, thời gian bán hủy ngắn. Liều cho 1 lần tiêm quanh khớp từ 5-12,5mg (0,2-0,5ml) tùy vị trí tiêm. Tiêm không quá 3 lần cho một đợt điều trị, mỗi mũi cách nhay 3-4 ngày,mỗi năm không quá 3 đợt
- Depo-Medrol (Methyl prednisolon acetat, nồng độ 1ml+40mg) có tác dụng kéo dài. Liều chi một lần tiêm cạnh khớp từ 8-20mg/1 lần (0,2-0,5ml/1 lần) tùy thuộc vào vị trí, mỗi mũi cách nhau 7-10 ngày không quá 2 lần trong một đợt, mỗi đợt cách nhau 3-6 tháng, mỗi năm không quá 3 đợt
- Diprospan (Betamethason dipropioat, nồng độ 1ml=4mg): là loại tác dụng kéo dài. Liều cho một tiêm cạnh khớp từ 0,8 -2mg/1 lần (0,2-0,5ml/1 lần) tùy thuộc vị trí, mỗi mũi cách nhau 7-10 ngày, không quá 2 lần trong một đợt điều trị, mỗi đợt cách nhau 3-6 tháng, mỗi năm không quá 3 đợt.
Chống chỉ định tuyệt đối tiêm corticoid tại chỗ: Các tổn thương do nhiễm khuẩn, nấm hoặc chưa loại trừ được nhiễm khuẩn (chống chỉ định). Tổn thương nhiễm trùng trên hoặc gần vị trí tiêm.
Chống chỉ định tương đối tiêm corticoid tại chỗ: cao huyết áp, đái tháo đường, viêm loét dạ dày tá tràng, phải điều trị và theo dõi trước và sau tiêm. Dạng dùng thuốc chống đông hoặc có rối loạn đông máu.
Các biến chứng do tiêm corticoid tại chỗ là rất ít nhưng có thể xảy ra gồm: Đau sau tiêm vài giờ, có thể kéo dài một vài ngày, thường hay gặp sau tiêm mũi đầu tiên. Nhiễm trùng. Đứt gân do viêm vào trong gân. Teo da tại chỗ. Mảng sắc tố da. Tái phát sau điều trị.
Điều trị bệnh chính nếu có
Các trường hợp viêm gân, bao gân kèm theo viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, đái tháo đường… cần phải điều trị đồng thời và kéo dài các thuốc cơ bản cùng với chế độ sinh hoạt phù hợp.
Phẫu thuật giải phóng chèn ép, cắt bỏ phần viêm nếu điều trị nội khoa thất bại.