Loãng xương là một bệnh lý hệ thống của khung xương. Loãng xương và hậu quả là gẫy xương là một bệnh phổ biến nhất hiện nay ở người lớn tuổi, chỉ đứng sau bệnh tim mạch. Có 1/3 số phụ nữ và 1/8 số nam giới trên 50 tuổi có nguy cơ loãng xương. Bệnh gây nhiều hậu quả, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và là nguyên nhân gia tăng tỷ lệ tử vong. Bệnh nhân gãy xương, nhất là gãy cổ xương đùi, có nguy có tử vong tăng cao gấp 2 -3 lần so với người không bị gãy xương. Ở nữ giới, nguy cơ tử vong ở bệnh nhân gãy xương đù tương đương hoặc cao hơn nguy cơ tử vong vì ung thư vú.
Năm 1993, tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa loãng xương được đặc trưng bởi sự thay đổi mật độ xương, cấu trúc xương, dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương. Năm 2001, tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chỉnh sửa định nghĩa về loãng xương: loãng xương biểu hiện bởi sự suy giảm sức mạnh của xương – Sức mạnh này được đặc trưng bởi mật độ xương và chất lượng xương. Chất lượng xương được đánh giá bởi các thông số: cấu trúc của xương, chu chuyển xương, độ khoáng hóa, tổn thương tích lũy, tính chất của các chất cơ bản của xương. Trong thông số này, chu chuyển xương đóng một vai trò quan trọng
Máy đo mật độ xương
Gần đây, ngoài mật độ xương, các yếu tố nguy cơ có vai trò góp phần chẩn đoán và là các thông số quyết định điều trị. Mục tiêu của điều trị loãng xương là giảm nguy cơ gãy xương (trong đó có giảm nguy cơ tử vong do gãy xương) mà giảm tình trạng suy giảm mật độ xương chỉ là một trong các thông số gián tiếp. Hiện có hai mô hình FRAX (WHO) và mô hình Garvan (Úc) có giá trị tiên đoán nguy cơ gãy xương cho từng cá nhân, nhằm quyết định can thiệp đúng thời điểm phù hợp
Lưu ý rằng khi chẩn đoán và điều trị tình trạng loãng xương, cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh có thể xảy ra ở một người cao tuổi.
Điều trị loãng xương nguyên phát bao gồm chế độ vận động, sinh hoạt hợp lý, chế độ ăn uống, bổ xung calci – vitamin D, lại trừ các yếu tố nguy cơ có thể can thiệp được và kết hợp sử dụng các thuốc chống loãng xương. Phòng tránh ngã ở các đối tượng này là một trong các biện pháp phòng tránh biến chứng gãy xương.
Hiện nay có nhiều nhóm thuốc điều trị loãng xương. Đa số các thuốc đều dựa trên cơ chế ức chế hủy xương như nhóm Biphosphonat, Calcitonin, SERM – Seletive estrogen receptor modifiers (thuốc điều hòa thụ thể estrogen chọn lọc)… Riêng Hormon cận giáp trạng (PTH 1 -34) Forsteo – được coi là thuốc có khả năng tăng tạo xương. Chỉ có Strontium ranelate được coi là thuốc điều trị loãng xương duy nhất hiện nay có khả năng vừa tăng tạo xương, vừa giảm hủy xương.
PGs.Ts. Nguyễn Thị Ngọc Lan (BVBM)