Trong điều trị nhồi máu cơ tim (NMCT), các thuốc làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy cơ tim, tăng cường tưới máu cho vùng cơ tim bị thiếu máu và các thuốc ngăn chặn sự tiến triển của quá trình xơ vữa động mạch đóng vai trò hết sức quan trọng.
Mục lục
Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý khi sử dụng các nhóm thuốc này.
Các thuốc nhóm nitrate
Các thuốc nhóm này gồm có 2 loại tác dụng khác nhau:
– Loại tác dụng nhanh dùng ngậm hoặc xịt dưới lưỡi như natispray, lenitral spray; loại tiêm tĩnh mạch như ống tiêm lenitral 10ml chứa 15mg nitroglycerin.
– Loại chậm dùng đường uống như viên lenitral, viên nitromint…
Tác dụng chủ yếu của các thuốc nhóm này là gây giãn tĩnh mạch ngoại vi dẫn đến giảm lượng máu về tim (giảm tiền gánh) kết hợp với giãn các tiểu động mạch dẫn đến giảm sức cản ngoại vi (giảm hậu gánh). Kết quả của 2 tác dụng này là giảm công cơ tim, dẫn đến giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim. Đối với động mạch vành, thuốc cũng có tác dụng giãn động mạch do vậy chống được hiện tượng co thắt mạch vành; thuốc còn có tác dụng làm tăng cường tuần hoàn bàng hệ tới các khu vực cơ tim bị thiếu máu. Khi bị nhồi máu cơ tim, ngay khi xuất hiện đau thắt ngực, cần dùng ngay loại xịt hoặc ngậm dưới lưỡi; tại bệnh viện, bệnh nhân sẽ được sử dụng nitroglycerin dạng tiêm tĩnh mạch với liều khởi đầu thấp và tăng dần tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.
Khuyến cáo đặc biệt khi dùng thuốc điều trị nhồi máu cơ tim nhóm nitrate:
Tác dụng phụ thường gặp của nitroglycerin là nhức đầu, choáng váng, bốc hỏa, hạ huyết áp (nhất là ở người già), nhịp tim nhanh… Do vậy cần lưu ý, nhất là bệnh nhân sử dụng đồng thời các thuốc có tác dụng hạ huyết áp.
Hình ảnh nhồi máu cơ tim.
Thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm
Đây là nhóm thuốc đối kháng cạnh tranh với các chất giao cảm, làm giảm tần số tim, giảm sức co bóp của cơ tim, do đó làm giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy của cơ tim, tăng cường tưới máu cho động mạch vành do vậy góp phần làm giảm sự lan rộng vùng hoại tử cơ tim. Ngoài ra, các thuốc này còn có tác dụng phòng và làm giảm tai biến loạn nhịp tim. Nhóm thuốc này không được dùng trong các trường hợp: nhịp chậm, tụt huyết áp, blốc nhĩ thất mức độ cao, hen phế quản, suy tim hoặc choáng tim. Thuốc có thể dùng đường tĩnh mạch trong pha cấp của NMCT.
Dạng hay dùng ngày nay là các thuốc chẹn thụ thể bêta có tác dụng chọn lọc cao trên tim như atenolol, metoprolol, bisoprolol.
Tác dụng phụ của các thuốc chẹn beta chủ yếu liên quan đến nhịp chậm và hạ huyết áp. Với bệnh nhân có rối loạn chức năng tâm thất trái trước đó, có thể làm cho tình trạng suy tim nặng thêm, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, do vậy cần phải thận trọng khi sử dụng.
Với bệnh nhân bị đau thắt ngực, khi sử dụng tuyệt đối không được ngưng thuốc đột ngột mà phải giảm liều từ từ. Sự ngưng đột ngột có thể làm trầm trọng thêm cơn đau thắt ngực, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.
Co thắt phế quản thường xảy ra nhiều hơn với thuốc chẹn beta không chọn lọc hoặc với liều Thuốc chẹn kênh canxi
Ion canxi có vai trò rất quan trọng trong co cơ, do vậy việc ức chế kênh canxi sẽ gây cản trở quá trình co cơ, hậu quả là làm giãn cơ trơn thành mạch gây giãn mạch, hạ huyết áp. Đối với một số loại, thuốc còn có tác dụng làm chậm nhịp tim, giảm sức co bóp của tim dẫn đến giảm tiêu thụ ôxy cơ tim và giãn động mạch vành, tăng cường nuôi dưỡng cơ tim. Các thuốc này được chia làm 2 nhóm có chỉ định và chống chỉ định khác nhau; đó là nhóm dihydropyridin và nhóm non dihydropyridin. Nhóm non dihydropiridin có tác dụng gây giảm sức co bóp của tim, chậm nhịp tim (đặc biệt verapamin). Do vậy, cần hết sức lưu ý các chống chỉ định của nhóm thuốc này.
Thuốc ức chế men chuyển
Các thuốc nhóm này không những có tác dụng hạ huyết áp mà còn có tác dụng hạn chế tái cấu trúc thất trái (dẫn đến rối loạn chức năng thất trái), cải thiện chức năng nội mạc mạch máu ở bệnh nhân sau NMCT do đó làm giảm được các biến cố suy tim, NMCT tái phát. Do vậy, thuốc được chỉ định sớm ngay khi bị NMCT.
Nhược điểm hay gặp nhất của các thuốc nhóm này là triệu chứng ho; nếu ho ít mà bệnh nhân có thể chịu đựng được thì vẫn nên cho bệnh nhân dùng thuốc. Các thuốc hay được dùng là perindopril, lisinopril, enalapril, tanatril… Thuốc nên được dùng bắt đầu bằng liều thấp sau đó tăng dần liều tùy theo đáp ứng của từng bệnh nhân.
Các thuốc điều chỉnh rối loạn lipid máu
Xơ vữa động mạch chính là nguyên nhân chủ yếu gây NMCT. Cholesterol máu đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và tiến triển của mảng vữa xơ động mạch. Do vậy, việc điều chỉnh các rối loạn lipid máu là không thể thiếu được trong điều trị NMCT. Một điểm mới cần phải nhấn mạnh đó là: các thuốc này không những làm giảm các biến cố tim mạch ở bệnh nhân có rối loạn lipid máu, mà còn giảm các biến cố này ở cả những bệnh nhân không bị rối loạn lipid máu. Do vậy, ngay cả khi các xét nghiệm về mỡ máu cho giá trị bình thường, thì việc sử dụng thuốc cũng là hết sức cần thiết.
Các thuốc thường được sử dụng hiện nay sau NMCT thuộc nhóm statin như: rosuvastatin, simvastatin, atorvastatin. Đặc biệt gần đây người ta đã chứng minh được một số statin còn có khả năng làm giảm kích thước của mảng vữa xơ động mạch vành. Thời gian dùng thuốc càng kéo dài càng tốt, trừ khi xảy ra các tác dụng phụ không mong đợi phải ngưng điều trị.
TS. Nguyễn Đức Hải