Thủy ngân là một trong những kim loại nặng có những ứng dụng gần gũi với con người. Nhưng cũng vì thế mà kim loại này cũng có những nguy cơ gây độc cho con người. Hãy cùng tìm hiểu về Thủy ngân qua bài viết sau đây.
Mục lục
Thủy ngân là gì?
Thuỷ ngân là một kim loại lấp lánh ánh bạc và có đặc điểm là ở thể lỏng, không tan trong nước và có thể bốc hơi tương đối dễ ở nhiệt độ phòng. Khi đặt giọt thủy ngân ở trên mặt bàn, nó có dạng giống hạt ngọc trai và rất dễ tan thành hạt nhỏ li ti và bay hơi. Tuy nhiên, thuỷ ngân có thể biến thành trạng thái rắn nếu ở nhiệt độ dưới -390C.
Đây là kim loại có nhiệt độ đông đặc thấp nhất. Thuỷ ngân luôn ở trạng thái lỏng trong những nhiệt độ thông thường. Chính vì thế mà người ta có thể sử dụng thuỷ ngân trong các nhiệt kế, trong những điều kiện nhiệt độ từ -390C (nhiệt độ thuỷ ngân đông đặc) và 3560C
Có nhiều dạng Thủy ngân
Thủy ngân hiện diện rất nhiều trong thức ăn, thuốc và môi trường sống con người, được sử dụng chủ yếu trong sản xuất các hóa chất, trong kỹ thuật điện và điện tử. Thủy ngân tạo ra sự ô nhiễm đáng kể đối với môi trường, vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ thể sinh vật. Có 3 dạng Thủy ngân tồn tại dưới dạng nguyên tố hay kết hợp với chất khác:
Thủy ngân nguyên tố: có trong nhiệt kế, máy đo huyết áp, các thiết bị điện, bóng đèn, pin, sơn.
Thủy ngân vô cơ: dạng đôi hoặc đơn hóa trị, được sử dụng điều chế thuốc sát trùng, làm thuốc lợi tiểu, tẩy giun.
Thủy ngân hữu cơ: gồm hợp chất chuỗi alkyl ngắn có nhiều trong môi trường bị ô nhiễm, đáng lưu ý là trong thức ăn hải sản vùng bị ô nhiễm và chuỗi alkyl dài dùng trong nông nghiệp để làm thuốc diệt nấm. Trong Đông y, Thủy ngân gọi là chu sa được dùng làm thuốc an thần.
Tác hại của thủy ngân
Tổn thương não không hồi phục
Thủy ngân là chất độc có khả năng tích lũy sinh học dễ dàng hấp thụ qua da, các cơ quan hô hấp và tiêu hóa. Các dạng hóa học của thủy ngân khác nhau về cả đặc điểm sinh học, dược động học và độc tính. Thủy ngân vô cơ ít độc hơn so với hợp chất thủy ngân hữu cơ.
Thủy ngân nguyên tố
Thủy ngân nguyên tố gây độc cho người sau khi hít vào. Trẻ em nuốt phải thủy ngân do vỡ nhiệt kế thường không gây độc vì nó hấp thu rất ít ở đường tiêu hóa. Tuy nhiên, trường hợp trẻ bị tắc ruột hay viêm ruột thì lượng thủy ngân được hấp thu qua đường uống có thể cao hơn. Thủy ngân nguyên tố hít vào sẽ hấp thu nhanh qua đường hô hấp gây tổn thương, qua màng phế nang vào máu đến thận, gan lách và hệ thần kinh trung ương. Nồng độ đỉnh đạt sau vài ngày. Một lượng nhỏ thủy ngân nguyên tố thấm qua hàng rào mạch máu não và qua nhau thai dễ dàng.
Thời gian bán hủy kéo dài đến 60 ngày, sau đó được thải qua phân và nước tiểu. Thủy ngân nguyên tố cũng có thể chuyển đổi dạng thành thủy ngân hữu cơ gây độc khi ăn phải. Ngộ độc mãn do hít thủy ngân nguyên tố trong thời gian dài. Qua hàng rào máu não, Thủy ngân tích tụ lại ở trong não và vỏ não. Tại đây, Thủy ngân sẽ oxy hóa thành dạng ion, kết hợp với gốc sulfydryl và protein của tế bào, cản trở các enzyme và chức năng vận chuyển tế bào.
Thủy ngân hữu cơ
Thủy ngân hữu cơ hấp thu tốt qua hít, nuốt và cả qua da. Hấp thu ở ống tiêu hóa với tỉ lệ 90%, ít hơn đối với chuỗi dài. Độc tính của Thủy ngân hữu cơ thường xảy ra với các chuỗi alkyl ngắn, đặc biệt methyl Thủy ngân. Nuốt 10 – 60mg/kg đủ gây tử vong, và nuốt lượng ít trong một thời gian dài, chỉ cần lượng 10μg/ kg đủ tác hại lên hệ thần kinh và khả năng sinh sản của người lớn. Do có khả năng tan trong mỡ nên Thủy ngân hữu cơ nhanh chóng vào màu phân bố khắp cơ thể, tích tụ trong não, thận, gan, tóc và da. Tác dụng độc rõ ràng đầu tiên và nguy hiểm nhất là ở não.
Thủy ngân vô cơ
Thủy ngân vô cơ là chất ăn mòn nên có đặc điểm gây tác dụng phỏng trực tiếp trên niêm mạc. Tỉ lệ hấp thu qua ống tiêu hóa chỉ là 10% lượng nuốt vào, thủy ngân tích lũy ở thận gây tổn thương thận. Mặc dù kém tan trong chất béo nhưng nếu tiếp xúc trong thời gian dài, thủy ngân cũng được tích lũy dần dần trong não, vùng tiểu não và vỏ não gây tổn thương hệ thần kinh trung ương. Liều gây chết người của thủy ngân vô cơ là 1 – 4g ở người lớn.
Thủy ngân kết hợp và bất hoạt gây thoái hóa tế bào thần kinh ở vỏ não và tiểu não, dẫn đến triệu chứng liệt, thất điều, điếc, thu hẹp thị trường. Chất này qua nhau dễ dàng và tập trung trong thai gây độc tính nặng cho bào thai. Thời gian bán hủy của thủy ngân ở người lớn là 40 – 50 ngày, đào thải chủ yếu qua phân (90%) và nước tiểu.
Lời kết
Như vậy trên cơ thể người, thủy ngân không chỉ có độc tính cao mà còn tồn tại dai dẳng gây tác hại kéo dài. Được giải thích nhờ vào các đặc tính sinh học của thủy ngân là (1) khả năng kết hợp chặt chẽ, loại thải chậm và không hoàn toàn. (2) có tính tập trung, tích lũy cao và (3) khuyếch đại tác dụng sinh học khi vào cơ thể người.
Bs Nguyễn Thị Kim Thoa