Vết thương mạch máu lớn thường gây thiếu máu cấp tính. Do mất máu nhanh và nhiều dễ dẫn tới sốc do mất máu. Học các kỹ năng sơ cứu vết thương mạch máu.
Mục lục
Vết thương mạch máu thường do tai nạn giao thông hay sinh hoạt: gãy xương chọc đứt mạch máu, chấn thương rách mạch máu; do bị đánh như: dao chém, lê hay kiếm đâm, do bom, mìn, đạn sát thương… Vết thương mạch máu lớn, nếu không cấp cứu kịp thời, nạn nhân có thể bị tử vong.
Dấu hiệu phát hiện vết thương mạch máu lớn
Vết thương mạch máu lớn thường gây thiếu máu cấp tính. Do mất máu nhanh và nhiều dễ dẫn tới sốc do mất máu.
Biểu hiện của sốc mất máu là: nạn nhân hốt hoảng, vật vã, lo âu, vã mồ hôi, mạch nhanh, nhỏ, huyết áp tụt và kẹt. Với vết thương hở có máu chảy ra ngoài, máu có thể chảy vọt thành tia hoặc chảy rỉ đều dễ nhận biết.
Nếu vết thương đã được garô hoặc băng, khi tháo ra, thấy máu chảy dữ dội cũng dễ chẩn đoán, nếu không thấy chảy máu thì phải cảnh giác, kiểm tra mạch đập để xác định có tổn thương mạch máu hay không.
Vết thương không chảy máu ra ngoài có thể gặp hai trường hợp: một là vết thương mạch máu đã ngừng chảy máu; hai là tụ máu dưới da.
Vết thương đứt mạch máu bàn tay trái
Vết thương mạch máu nhờ sơ cứu đã cầm được máu: nhìn chỉ như vết thương phần mềm, rất dễ bị bỏ qua. Vì vậy, bạn cần tìm dấu hiệu thiếu máu ngoại biên như: chi bị thương lạnh, nhợt, không có mạch hoặc mạch đập yếu hơn bên lành, vận động giảm hoặc mất.
Đôi khi vết thương mạch máu có thể tự cầm do: đầu mạch máu bị đứt co rút vào trong các tổ chức phần mềm, lớp nội mạc lộn vào trong lòng mạch, tạo điều kiện hình thành cục máu đông bịt đầu mạch máu lại. Hoặc do yếu tố thần kinh phản xạ, các mạch máu ngoại biên co thắt lại, mạch máu trung tâm giãn nở ra làm cho huyết áp giảm xuống, tạo điều kiện cho cục máu đông hình thành và máu ngừng chảy.
Có khi do chảy máu quá nhiều làm cho huyết áp tụt cũng làm cho máu ngừng chảy, nhưng nếu không cầm máu ngay thì khi hồi sức, huyết áp lên máu lại tiếp tục chảy. Có trường hợp do khối máu tụ chèn ép các mạch máu làm cho máu ngừng chảy.
Tụ máu dưới da có hai hình thái:
Khối máu tụ lan rộng: đập theo nhịp tim, để lâu bệnh nhân có dấu hiệu thiếu máu.
Khối máu tụ khu trú: trường hợp điển hình nếu bị thương ở cẳng chân là bắp chân căng vì khối máu được các cân bao bọc chi hạn chế nên không to lên được nhưng rất căng, làm ngăn cản máu động mạch đến và máu tĩnh mạch về nên chi vùng ngoại vi lạnh, tím, không có mạch, rất đau, gọi là “garô bên trong”. Trường hợp này nếu không xử lý kịp thời sẽ gây hoại thư.
Khối máu tụ thường có biến chứng: bị nhiễm khuẩn, nung mủ gây ra triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau rất dễ nhầm với một áp-xe nóng; bọc máu tụ bị vỡ ra ngoài gây chảy máu dữ dội, đe doạ tính mạng của nạn nhân.
Vết thương mạch máu có thể gây biến chứng nguy hiểm như: tử vong do thiếu máu cấp tính, nhiễm độc, hoại thư, co rút cơ, di chứng phồng động mạch và thông động – tĩnh mạch.
Cách sơ cứu vết thương mạch máu
Khi gặp nạn nhân bị vết thương mạch máu, bạn cần nhanh chóng sơ cứu để cứu sống nạn nhân bằng cách: đặt garô, băng ép, ép mạch máu.
Cách làm các thủ thuật sơ cứu vết thương mạch máu
– Đặt garô là phương pháp cầm máu tốt nhưng đòi hỏi thực hiện đúng các quy tắc sau: Đặt chỗ dễ nhìn thấy nhất, gần vết thương nhất, ưu tiên chuyển nạn nhân đến bệnh viện trước kèm theo phiếu ghi giờ đặt garô.
Trong quá trình đặt garô, cứ một giờ nới lỏng garô trong vài phút cho máu chảy xuống nuôi dưỡng phần dưới chỗ bị thương, sau đó lại tiếp tục siết garô khi máu bắt đầu chảy trở lại. Khi tháo garô để điều trị thực thụ phải chuẩn bị sẵn phương tiện để cầm máu và hồi sức.
Chỉ đặt garô trong các trường hợp sau đây: chi bị dập nát không còn khả năng bảo tồn; đặt garô ở nơi xảy ra tai nạn, nhưng gần một bệnh viện, thời gian vận chuyển bệnh nhân đến bệnh viện dưới một giờ; đặt tạm thời trong một thời gian ngắn để chuẩn bị mổ.
– Băng ép cầm máu: Dùng một cuộn băng hay một chiếc khăn gấp nhỏ lại thành một cục đặt lên vết thương và băng ép lên trên để cầm máu, dùng băng cuộn băng chặt quanh chi cho đến khi không thấy máu thấm băng.
Băng ép cầm máu tốt nhất là dùng loại băng chun. Phương pháp này đơn giản dễ thực hiện, có tác dụng cầm máu tốt lại không gây hậu quả xấu đối với vùng bị tổn thương.
– Dùng ngón tay ép lên mạch máu: Bạn dùng ngón tay ép lên đường đi của mạch máu phía trên (gần tim hơn vết thương) vào nền xương. Vị trí thường được dùng để ấn mạch: ở chi trên là sau xương đòn, nếu chảy máu của động mạch dưới đòn ở vùng vai, cánh tay.
Tại hõm nạch, nếu chảy máu của động mạch nách và động mạch cánh tay, ở vùng cánh tay. Tại bờ trong cơ nhị đầu, ở nếp gấp khuỷu, nếu chảy máu của động mạch quay và động mạch trụ, ở vùng cẳng tay.
Chi dưới: điểm giữa nếp bẹn, nếu chảy máu của động mạch đùi do vết thương ở dưới đùi. Tại hõm khoeo, nếu chảy máu của động mạch vùng cẳng chân… Ngoài ra, bạn có thể gấp khuỷu tay hay đầu gối tối đa và ép vào thân để cầm máu, biện pháp này áp dụng khi chưa có điều kiện băng ép hoặc đặt garô. Dùng kẹp cầm máu kẹp các mạch máu. Sơ bộ chống choáng: bằng cách ủ ấm cho nạn nhân, cho nạn nhân uống thuốc trợ tim, giảm đau.
Điều trị ở bệnh viện gồm: Hồi sức tích cực, trường hợp mất máu nhanh và nhiều phải vừa truyền máu vừa mổ để cầm máu. Dùng kháng sinh chống nhiễm khuẩn và tiêm phòng uốn ván.
Tại chỗ: mở rộng vết thương để tìm đầu mạch máu bị đứt thắt lại, cắt lọc sạch những tổ chức dập nát ở phần mềm, lấy dị vật, máu tụ, loại bỏ các ngóc ngách của vết thương.
Áp dụng một trong những cách cầm máu vĩnh viễn như: thắt các đầu mạch máu bị đứt ở ngay vết thương; thắt mạch máu ở xa vết thương; ghép mạch máu; cắt cụt chi.
Ths. Trần Quốc An