Xét nghiệm huyết học nghiệm pháp Von-Kaulla theo dõi thời gian tiêu cục máu đông
Mục lục
Nguyên lý
Fibrin được hình thành và sẽ bị tiêu nhờ plasmin, bình thường thời gian để tiêu cục máu khoảng 2 ngày. Bằng phương pháp giữ lại các chất kích thích tạo plasmin (euglobulin) thì sau khi đông thời gian tiêu cục đông bình thường là hơn 1 giờ.
Theo dõi thời gian tiêu cục đông của huyết tương đã loại bỏ chất ức chế, giữ lại chất kích thích tạo plasmin để đánh giá mức độ tiêu sợi huyết.
Phương tiện, hóa chất
– CaCl2 M /10
– Acid acetic 2 %
– Dung dịch đệm Michaelis pH 7,35
– Ống nghiệm kích thước 75 x 9,5mm
Tiến hành kỹ thuật
– Lấy máu và tách huyết tương: máu tĩnh mạch chống đông bằng natri citrat 3,2 % hoặc 3,8% với tỷ lệ chống đông 1/10; ly tâm 3000 vòng/phút trong 10 phút, lấy huyết tương.
– Trong ống nghiệm chứa 0,3 ml huyết tương của mẫu chứng hoặc của bệnh nhân, cho vào 3ml nước cất.
– Cho thêm vào mỗi ống 2 giọt acid acetic 2%, kiểm tra để có pH 5,2
– Ly tâm 3000 vòng/phút trong 10 phút; gạn bỏ nước trong, giữ lại phần tủa ở đáy ống.
– Dùng giấy thấm, thấm khô thành ống.
– Cho vào mỗi ống 0,3 ml dung dịnh đệm Michaelis pH 7,35 đã pha loãng 1 /4 trong dung dịch NaCl 0,9 %, dùng que đánh tan tủa.
– Cho thêm vào mỗi ống 1 giọt CaCl2 M/10, đặt ống nghiệm vào bình cách thuỷ 370 C, chờ đông. Bấm đồng hồ theo dõi thời gian tan hoàn toàn.
Đọc kết quả nghiệp pháp
Tan hoàn toàn : trước 15 phút – Tiêu sợi huyết tối cấp
15 – 30 phút – Tiêu sợi huyết nặng
30 – 45 phút – Tiêu sợi huyết
45 – 60 phút – Tiêu sợi huyết tiềm tàng
Trên 60 phút – Bình thường
Nguyên nhân không chính xác
– Không tạo được cục đông do: tiến hành sai kỹ thuật, lượng acid acetic cho không đúng, thấm ống nghiệm không khô.
– Chú ý: nếu lượng fibrinogen của huyết tương quá ít, cũng không tạo được cục đông, lúc đó phải làm lại xét nghiệm bằng cách bổ sung vào huyết tương bệnh một lượng fibrinogen.
Ý nghĩa xét nghiệm
Bình thường nghiệm pháp Von – Kaulla trên 60 phút. Khi nghiệm pháp Von – Kaulla dưới 60 phút, có nghĩa là đang có quá trình hoạt hoá tiêu sợi huyết quá mức dẫn đến mất fibrinogen và gây chảy máu.